Biên tập: Sergio Bitar và Abraham F. Lowenthal, Viện Quốc tế Hỗ trợ Bầu cử và Dân chủ (IDEA), Stockholm
Dịch: Phạm Nguyên Trường
Tiểu sử Ernesto Zedillo, tổng thống Mexico giai đoạn 1994–2000
Ernesto Zedillo học tiểu học và trung học ở Mexicali, nằm trên biên giới Mexico – Texas (Mỹ), và học đại học ở Trường đại học bách khoa quốc gia ở Mexico City, sau đó được học bổng ở Đại học Yale. Ông bảo vệ luận án tiến sĩ kinh tế ở Yale và lần đầu tiên liên kết với những người thuộc giới tinh hoa Mexico cũng đang làm nghiên cứu sinh ở trường này. Trở về Mexico, Zedillo làm việc trong lĩnh vực tài chính của nhà nước, nổi tiếng vì năng lực trong lĩnh vực kĩ thuật, chứ không phải hoạt động chính trị. Dưới thời tổng thống Carlos Salinas de Gotari (1988-1994), ông là bộ trưởng ngân sách và kế hoạch hóa, rồi sau đó là bộ trưởng giáo dục. Ông từ chức bộ trưởng đầu năm 1994 để trở thành người điều hành chiến dịch tranh cử của Luis Don aldo Colosio, đồng hương miền Bắc của ông. Colosio bị ám sát trong khi đang vận động tranh cử, Zedillo là đảng viên duy nhất của đảng cầm quyền – PRI – từng có chân trong nội các đủ điều kiện tranh cử tổng thống, vì luật pháp Mexico đòi các thành viên nội các phải từ chức mấy tháng trước khi tiến hành vận động tranh cử.
Trong cuộc bầu cử với tỉ lệ cử tri đi bầu cao nhất trong lịch sử Mexico, Zedillo được bầu làm tổng thống vào tháng 8 năm 1994. Zedillo bắt đầu giúp Mexico trở thành “chế độ dân chủ bình thường” bằng cách đề xuất những cuộc cải cách nhằm tăng cường cơ quan tư pháp và quốc hội, tách chính phủ khỏi PRI và củng cố các thiết chế tuyển cử độc lập. Mặc dù, chỉ vài tuần sau lễ nhậm chức, đã xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Zedillo vẫn tiến hành cải cách luật tài chính cho chiến dịch tranh cử và quyền tiếp cận với các phương tiện truyền thông và chấp nhận quyền kiểm soát Mexico City và quốc hội của phe đối lập. Ông đề nghị tạo ra “khoảng cách lành mạnh” giữa chính phủ và PRI và khuyến khích cuộc bầu cử nội bộ đầu tiên trong đảng để lựa chọn ứng cử viên tổng thống. Quyết định của ông về việc truy tố Raul Salinas, anh trai cựu tổng thống, đã phá vỡ tiền lệ là các cựu tổng thống và người thân của họ không bị trừng phạt. Chính quyền của Zedillo cũng thúc đẩy quá trình tự do hóa nền kinh tế Mexico, do Miguel de la Madrid khởi xướng và được Salinas tăng tốc và bắt đầu thực thi chương trình xóa đói giảm nghèo căn cứ trên hiệu quả thực tế, gọi là PROGRESA, cung cấp tiền vốn có điều kiện cho người nghèo.
Tối ngày diễn ra cuộc bầu cử năm 2000, Zedillo chúc mừng ứng cử viên đối lập, Vicente Fox, như tổng thống đắc cử trước khi ứng cử viên của PRI thừa nhận thất bại. Sau đó, Zedillo tiếp tục sự nghiệp ở bên ngoài Mexico, ông là giám đốc Trung tâm nghiên cứu về toàn cầu hóa thuộc Đại học Yale và là thành viên trong nhiều ban giám đốc công ty và tổ chức phi lợi nhuận và các ủy ban chính sách.
Phỏng vấn tổng thống Ernesto Zedillo
Cải cách hệ thống từ bên trong
Quá trình dân chủ hóa từng bước một của Mexico có thể cung cấp cho các nhà lãnh đạo đang cố gắng thúc đẩy dân chủ ở các nước khác những bài học nào?
Trước hết phải phân biệt giữa quá trình ở Mexico và những quá trình khác, tức quá trình chuyển hóa từ chế độ độc tài hoàn toàn sang chế độ cởi mở hơn hay chuyển sang chế độ dân chủ. Đấy không phải là trường hợp Mexico. Mexico đã có chế độ dân chủ mang tính hình thức, với những cuộc bầu cử định kì, được tổ chức trong suốt nhiều năm và có một số luật lệ về cạnh tranh chính trị. Giai đoạn khi tôi được bầu làm tổng thống Mexico, người của phe đối lập đã nắm những chức vụ khác nhau trong chính phủ và dĩ nhiên là cả trong quốc hội, và một loạt bước đi trước đó theo hướng cải cách từng bước một quá trình bầu cử cho các đảng không cầm quyền [PRI] có thể tham gia tranh cử. Do đó, có một quá trình đầy ý nghĩa để hỏi học, tôi có thể nói như thế
Một số người cho rằng quá trình này diễn ra chậm chạp, một số người khác lại nghĩ rằng quá nhanh. Theo tôi, là chậm. Nhân dân đã sẵn sàng sống trong chế độ dân chủ đầy đủ. Thách thức lớn đối với tôi và đối tất cả những người hoạt động chính trị là đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở cho chế độ dân chủ đầy đủ, cạnh tranh và hiện đại.
Một trong những việc đầu tiên tôi nói với các đồng nghiệp của tôi ở trong đảng [PRI] sau cuộc bầu cử năm 1994 rằng cuộc bầu cử này sạch sẽ và hợp pháp, rằng chúng ta đã tuân thủ những luật lệ có hiệu lực và phiếu bầu được tính đúng. Nhưng cuộc bầu cử không công bằng vì điều kiện cạnh tranh chính trị ở Mexico vẫn chưa công bằng.
Tôi có thể nhận xét như thế vì tôi không có bất kì rắc rối nào về tính chính danh, vì đảng đã hoàn thành một cách thỏa đáng không chỉ trong cuộc bầu cử tổng thống, mà cả trong cuộc bầu cử quốc hội nữa. Vì vậy, đảng có thể để tiếp nhận thông điệp của tôi. Không ai đứng lên để nói với tôi rằng tôi sai và tôi đã được động viên rất nhiều, lúc đó không có phản ứng tiêu cực từ các đảng viên, vì vậy tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể tiếp tục tiến lên.
Ngày nhậm chức tổng thống, tôi đã công bố dự định làm việc với tất cả các đảng phái chính trị vì cái mà tôi gọi là “trạng thái bình thường của chế độ dân chủ”. Chúng tôi cần đưa đất nước đến chế độ dân chủ bình thường, trong đó có cơ chế kiểm soát và đối trọng thật sự trong chính phủ của chúng tôi, và có thể đạt được điều đó bằng những biện pháp dân chủ.
Trở lại cách đó nhiều năm, chắc chắn là tôi và nhiều người khác đã lo lắng rằng, nếu chúng tôi không thực hiện quá trình một cách có trật tự để tiến tới mở cửa rộng hơn và cạnh tranh chính trị nhiều hơn, rằng một lúc nào đó những đòi hỏi này có thể xuất hiện một cách mất trật tự và hỗn loạn, mà ít nhất là, trong ngắn hạn, có thể có hại cho đất nước và chắc chắn là xấu (và có lẽ là đòn sinh tử) đối với đảng.
Mối lo lắng này đã nằm trong tâm trí tôi trong một thời gian dài, những người khác còn cảm thấy điều này một cách mạnh mẽ hơn. Sau những sự kiện ở Đông Âu cuối thập kỷ 1980, những người cùng chia sẻ cách suy nghĩ như thế có thêm một luận cứ: Chúng tôi hiểu rằng chúng tôi phải lãnh đạo quá trình đó, chứ không theo đuôi nó. Chống lại chế độ dân chủ sẽ là sai lầm vì đơn giản là mức độ phát triển kinh tế mà Mexico đã đạt được, sớm hay muộn cũng không thể duy trì được chế độ chuyên chế, khi công dân đã tỉnh ngộ và đang khao khát chế độ dân chủ.
Bốn mươi hay năm mươi năm trước, dân chủ chưa phải là đòi hỏi của nhiều người, nhưng hai mươi hay hai mươi lăm năm trước, nhận thức của công dân đã tiến bộ một cách rõ ràng. Người dân nói: “Chúng tôi muốn tự do chính trị, chúng tôi muốn tham gia, muốn có đại diện và chế độ dân chủ”.
Mỗi người nghĩ về dân chủ một cách khác nhau, nhưng khi bàn về dân chủ thì đây là điều mọi người đều nói. Tại sao chúng ta không có dân chủ, nếu chúng ta tin vào dân chủ và công dân sẵn sàng ủng hộ nó, chúng ta lại đã thành lập các đảng phái chính trị rồi? Tôi nghĩ rằng khác biệt lớn giữa Mexico và các nước khác đã trải qua những thay đổi như thế là chính phủ Mexico hiểu rằng họ phải là một phần của quá trình đó. Chúng tôi không thể là vật cản; ngược lại, chúng tôi phải đóng góp năng lực chính trị và trí tuệ của chúng tôi để cho quá trình dân chủ hóa diễn ra trong trật tự, phù hợp với đòi hỏi của đất nước.
Chắc chắn là có nhiều người hiểu rằng PRI cần phải đáp ứng theo cách nào đó trước những đòi hỏi dân chủ nhiều hơn nhưng vẫn muốn PRI giữ được quyền kiểm soát. Ông mô tả mong muốn không chỉ kiềm chế áp lực trong khi vẫn giữ được thế thượng phong của PRI, mà còn mở cửa thực sự hệ thống chính trị. Đây là hai khái niệm rất khác nhau. Xin ông cho biết quá trình mà ông và ban lãnh đạo chính trị Mexico (cả bên trong lẫn bên ngòai PRI) chuyển từ khái niệm này sang khái niệm kia.
Tôi tin chắc rằng trong đảng có những quan điểm hoặc cách giải thích khác nhau về thúc đẩy việc xây dựng chế độ dân chủ bình thường, hiệu quả và thực tế lúc đó ở Mexico có nghĩa là gì. Chắc chắn là có một số người lo ngại và thậm chí tự hỏi: “thúc đẩy vì mục đích gì?”, nhất là sau chiến thắng rõ ràng trong cuộc bầu cử. Họ nói: “Tại sao chúng ta làm chuyện đó vào lúc này, khi mà chúng ta không có bất kỳ rắc rối nào về tính chính danh”, như đã từng xảy ra ở một số thời thời điểm khác nhau trong quá khứ. Và có lẽ đã có những quan điểm khác, nói rằng chúng ta phải điều chỉnh áp lực, chúng ta phải thay đổi để không có gì thay đổi hết. Nhưng cũng có nhiều người nói: “Tại sao không, nếu chúng ta có cái cần cho cuộc chiến dân chủ này, nếu chúng ta có cái cần cho cạnh tranh?”. Và có niềm tin rằng không chỉ đất nước đã sẵn sàng, mà PRI cũng đã sẵn sàng cạnh tranh dưới những luật lệ mới của cuộc chơi. Tôi là người giành được chức tổng thống, vì vậy tôi tin rằng tôi không chỉ có trách nhiệm, mà còn có quyền, đại diện cho những trào lưu hiện đại hơn ở trong đảng. Không phải là làm hại đất nước hay đảng vì trong đảng thực sự đã có những người đồng ý như thế, mặc dù một số người không muốn thừa nhận.
Đôi khi có người nói về PRI như thể đảng này là lực lượng đối lập chính đối với chế độ dân chủ được xây dựng trong những năm 1980 và 1990 ở Mexico. PRI là một phần không thể tách rời của quá trình đó và đã có vai trò rất tích cực, đảng này xứng đáng được công nhận – giống như các đảng khác đã được công nhận vì những đóng góp của mình, cũng như các phong trào công dân, có vai trò cực kì quan trọng.
Huy động xã hội
Trong quá trình mở của, vai trò của các lực lượng dân sự và xã hội, tức là những lực lượng thúc đẩy theo hướng này là gì?
Nếu bạn buộc tôi xác định thời điểm khi một nhóm công dân – và một số người trong bọn họ còn rất trẻ – thể hiện sức mạnh dân sự to lớn, nhưng không nhất thiết phải thật sự rõ ràng, thì đấy là thái độ bất mãn với cách hoạt động của hệ thống chính trị của Mexico, tôi sẽ nói về năm 1968 [khi phong trào biểu tình do sinh viên lãnh đạo bắt đầu, phong trào này bị lực lương an ninh của chính phủ đàn áp bằng vũ lực].
Năm 1968, không có đảng phái chính trị nào, dù được hay không được công nhận một cách chính thức, đứng hẳn về phía sinh viên. Một số nhà hoạt động cùng với Đảng Cộng sản bị cấm chắc chắn đã ủng hộ phong trào, nhưng không có đảng nào đứng hẳn về phía phong trào sinh viên. Vì vậy, tôi tin rằng một số người tham gia vào phong trào này có thể cho rằng nó là phong trào công dân đầu tiên đặt vấn đề về cách thức hoạt động của hệ thống.
Đáng tiếc là, tương tự như nhiều hiện tượng khác trong thời Chiến tranh Lạnh, phong trào với tính chất như thế, bị nhiều người nhìn qua lăng kính của những năm đó và từ quan điểm mà tôi gọi là thiển cận, thành ra mang tiếng xấu. Và đáng tiếc là chính phủ hành động như thể phong trào sinh viên năm 1968 là một trong nhiều phong trào bị coi là mối đe dọa trong những năm đó, đằng sau những phong trào đó là lực lượng đen tối xuất phát từ phía bên kia Bức Màn Sắt. Một số người muốn coi nó là mối đe dọa, và quan điểm này thường được sử dụng nhằm ngăn chặn sự tham gia của những nhà hoạt động chính trị mới ở Mexico.
Có lẽ một số người tham gia phong trào đã hướng tình cảm của mình sang phía bên kia Bức Màn Sắt. Nhưng về cơ bản phong trào là vì tự do, không chấp nhận chế độ độc tài và đàn áp. Đó là phong trào của thanh niên và khi những người trẻ làm thì ta không nên kì vọng sự kết hợp nhuần nhuyễn và sự tinh tế về tư tưởng hay khái niệm. Sẽ là lí tưởng nếu đòi hỏi đầu tiên của họ với chính phủ là: “Chúng tôi muốn có nhiều dân chủ hơn”; nhưng tôi nghĩ rằng phong trào mang hàm ý có những đòi hỏi như thế là, và còn: “Tại sao chúng tôi không thể tham gia? Tại sao chúng tôi không thể nói lên ý kiến của mình? Tại sao khi biểu tình chúng tôi bị gọi là Cộng sản và bị cáo buộc là âm mưu làm cho đất nước mất ổn định?”
Trên thực tế, đây là phong trào đòi tự do chính trị, vì vậy, tôi nghĩ rằng quá trình xây dựng dân chủ ở Mexico xuất phát từ phong trào công dân, phong trào sinh viên năm 1968.
Trong suốt nhiều năm, nhiều người nghĩ rằng phong trào sinh viên đã thất bại vì đã bị đàn áp, vì nó không dẫn đến bất cứ cái gì cụ thể mà sinh viên từng đòi hỏi và vì đã phải trả giá đắt cả về con người lẫn xã hội (và có thể cả chính trị nữa) trong ngắn hạn. Bốn mươi năm năm sau khi phong trào bắt đầu vào tháng 7 năm 1968, tôi có thể nói rằng phong trào đã thắng và tôi hi vọng rằng một ngày nào đó nó sẽ được đánh giá cao. Lúc đó tôi là sinh viên Politecnico [Đại học Bách khoa Quốc gia, đại học công lập ở Mexico City]; tôi còn rất trẻ, mới 16 tuổi.
Sự kiện chính trị này ghi dấu ấn như thế nào lên cuộc đời ông?
Sâu sắc. Tôi đã tham gia một cách rất khiêm tốn vào phong trào chính trị của học sinh trung học, khi tôi mới quãng 15, 16 tuổi. Tôi thấy rằng chúng tôi không thể tổ chức bầu cử ở trường với luật lệ công bằng vì có những người được ai đó tài trợ, chúng tôi không biết danh tính những người tài trợ. Đấy là năm 1967.
Một khi chúng tôi cạnh tranh và chúng tôi nghĩ rằng mình đã thắng, chúng tôi phát hiện ra rằng phiếu không được kiểm một cách chính xác và vì vậy mà chúng tôi thua, nhưng chúng tôi tin chắc rằng chúng tôi đã thắng; chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có sức thu hút hơn hẳn đối thủ. Và rõ ràng là khi phong trào sinh viên xuất hiện và chính phủ phản ứng như họ đã làm, tôi nghĩ rằng đối với tôi, nó khẳng định rằng có cái gì đó rất là sai và rằng những điều chính phủ nói về họ không phù hợp những cái tôi đã thấy ở những bạn bè của tôi. Họ chỉ đơn giản là những người đang đi học, những người muốn tự thể hiện mình, vì chúng tôi muốn thể hiện mình trong những khía cạnh khác của cuộc sống, trong cách thưởng thức âm nhạc hay văn học hoặc trong các mối quan hệ cá nhân của chúng tôi, bằng tình cảm và thể chất, nhưng môi trường thì ở đâu cũng có tính đàn áp. Nhưng cái làm người ta bị tổn thương nhất là khía cạnh chính trị, bởi vì đàn áp chính trị thường đi kèm với hai thứ – dối trá và bạo lực – và đó là những hiện tượng đã xảy ra năm 1968.
Giữa phong trào biểu tình năm 1968 của sinh học sinh và thay đổi chính trị đầu tiên nhìn thấy được cùng với Tổng thống Jose Lopez Portillo [1976-1982] là một giai đoạn khá dài. Đã có những tiến bộ gì trong giai đoạn 1968-1978?
Đúng thế. Tôi tin rằng đã có sự lầm lẫn lớn, nó giúp tạo ra cảm giác thất bại, cảm giác cho rằng chẳng có tiến bộ gì hết. Tôi tin rằng phong trào sinh viên giúp gieo mầm ý tưởng, ngay trong hệ thống, rằng phải làm một cái gì đó. Và không phải ngẫu nhiên mà Jesus Reyes-Heroles, giám đốc Pemex [Petroleos Mexicanos, công ty dầu khí quốc doanh] là một trong số những người nằm trong chính phủ đã thể hiện ý kiến khác biệt (tôi xin nói, thậm chí là bất đồng chính kiến) về cách thức chính phủ đối xử với phong trào sinh viên năm 1968. Vài năm sau, Reyes-Heroles trở thành bộ trưởng nội vụ và là nhân vật quan trọng của tổng thống Lopez Portillo trong việc thúc đẩy đạo Luật liên bang về các tổ chức chính trị và Luật về thủ tục bầu cử. Như bạn có thể thấy, giả thuyết của tôi về mối quan hệ giữa năm 1968 và sự tiến bộ chính trị của Mexico được củng cố bởi khá nhiều bằng chứng.
Các chính đảng
Có áp lực từ các những thành phần xã hội khác hay không?
Tôi nghĩ là có, cả trong các đảng chính trị, bên trong cũng như bên ngoài PRI. Tôi không thể phủ nhận công lao của Partido de Accion Nacional (PAN), đảng này cũng lâu đời như PRI, và PAN luôn luôn chơi theo luật – những bộ luật tạm thời của chế độ dân chủ chính thức nhưng rõ ràng là không hoàn hảo – và một trong những sợi chỉ xuyên suốt hoạt động của đảng này là thường xuyên đòi dân chủ hơn nữa. Họ luôn luôn làm như thế bằng biện pháp văn minh, họ luôn luôn khuyến khích mọi người tham gia. Chúng ta không thể hạ thấp vai trò của các đảng ngoài PRI; tôi không thể nói rằng Đảng Cộng sản tin vào dân chủ, vì đó không phải là nguyên tắc của họ; bên cánh tả đó là một câu chuyện khác. Quan điểm chính thức của cánh tả nhằm ủng hộ dân chủ là câu chuyện dài, nhưng tôi xin nói rằng nó cũng có tính quyết định ngang (và đôi khi thậm chí là hơn) những tác nhân chính trị khác, vì họ có những nỗ lực rất lớn. Tôi có thể nói rằng, năm 1968 tình cảm của hầu hết sinh viên là dành cho cánh tả.
Các sinh viên không nói: “Chúng tôi muốn phong trào này giống như Liên Xô”, họ nói: “Chúng tôi muốn tự do, chứ không muốn chính quyền đàn áp. Chúng tôi muốn chính phủ lắng nghe chúng tôi”.
Ông xếp Partido de la Revolucion Democratica (PRD) vào vị trí nào trong bối cảnh như thế?
Trước khi thành lập vào năm 1989, PRD chưa hề tồn tại. Sau cuộc cải cách dân chủ đầu tiên của Tổng thống Lopez Portillo, một số đảng cánh tả được thành lập với một số nhà lãnh đạo lịch sử, ví dụ, đảng do Heberto Castillo lãnh đạo. Có một số nhóm và sau đó là các đảng; bạn thấy những tổ chức thừa kế của cánh tả chính thống tiếp theo Đảng Nhân dân Xã hội Chủ nghĩa (Socialista Partido Popular), được thành lập trước đó. Cuối những năm 1980, một nhóm các nhà bất đồng chính kiến từ đảng của tôi đã thành lập Mặt trận Dân chủ Quốc gia (Frente Democratico Nacional) để tham gia vào các cuộc bầu cử; một số nhóm khác và một số đảng cánh tả đã tham gia mặt trận này. Cuối cùng, cùng với thời gian, mặt trận này trở thành PRD. Nhưng thực ra, những người cho đến nay vẫn là những nhân vật quan trọng nhất của PRD lại là các đảng viên PRI, và có lẽ từ cánh bảo thủ nhất của PRI, chí ít là đối với các chính sách kinh tế. PRD kết nạp những người luôn luôn hoạt động bên cánh tả. Có những người tham gia phong trào năm 1968, đấy là những người góp phần tạo ra các đảng chính trị trong giai đoạn cải cách chính trị lớn đầu tiên dưới thời chính quyền Lopez Portillo, và những người tiếp tục hoạt động trong đảng của họ, và tôi nghĩ rằng họ cần được công nhận một cách đầy đủ.
Bối cảnh quốc tế
Liên Xô can thiệp ở Tiệp Khắc là một trong số những sự kiện quan trọng xảy ra trên thế giới trong năm 1968. Đối với nhiều người cánh tả, đây là cú sốc. Sự cố này có ảnh hưởng tới cánh tả Mexico hay không?
Tôi cho là có, nhưng tôi không bao giờ thân cận với các nhà lãnh đạo. Tôi còn rất trẻ, nhưng điều tôi nhớ rất rõ là trong giai đoạn Mùa xuân Prague chúng tôi đã tổ chức mít tinh ngay trong trường học. Tôi nhớ ít nhất một cuộc mít tinh được thể hiện bằng sự hăng hái và hạnh phúc lớn lao, nơi mà hai tình cảm này được thể hiện – cuộc mít tinh, trong đó một số người đã nói: “Bạn
thấy chưa, người Nga không phải là xấu như họ nói, người Nga cho phép chuyện này”, còn những người khác nói: “Bây giờ người Czech đang làm một cái gì đó”.
Sau đó xảy ra đàn áp. Tôi không biết cảm giác của những người từng sử dụng Mùa xuân Tiệp Khắc để nói: “Thấy chưa, người Nga không xấu như người Mỹ nói, hay như nhiều người ở Mexico nói” lúc đó như thế nào. Tôi muốn nghĩ – nhưng tôi không có bằng chứng – rằng những sự kiện xảy ra ở Prague lúc đó đó đã làm cho một số đồng nghiệp của tôi nghĩ thêm một chút về bản chất của Liên Xô.
Hệ thống bầu cử
Những thay đổi chính trị lớn nào khác diễn ra sau nhiệm kì của Lopez Portillo và đạt đỉnh điểm trong nhiệm kì tổng thống của ông?
Còn có cuộc cải cách quan trọng dưới thời Tổng thống Miguel de la Madrid [1982-1988], khi số ghế trong Quốc hội do những người được bầu theo cơ chế đại diện theo tỉ lệ gia tăng, làm cho các nhóm thiểu số có nhiều đại diện hơn [1986]. Chúng tôi chuyển đến hệ thống đại diện theo tỉ lệ thông thường, và sau đó, dưới thời Tổng thống Carlos Salinas [1988-94], thì tiến hành thêm vài bước tiếp theo, đặc biệt là cách thức tổ chức bầu cử. Một cơ quan chuyên trách bầu cử được thành lập nhằm đảm bảo việc quản lí một cách chuyên nghiệp các cuộc bầu cử, và một số đặc điểm quan trọng khác cũng được đưa vào luật pháp. Nhưng theo quan điểm của tôi, vẫn còn những cơ hội tuyệt vời trong việc xây dựng hệ thống tốt hơn.
Vai trò của các lực lượng xã hội
Ở nhiều nước, giới quyền uy trong lĩnh vực trí tuệ – các giáo sư đại học, các nhà bình luận, những người viết tiểu luận, và Giáo hội Công giáo – thường là những người dẫn dắt và họ hiểu nhu cầu phải mở cửa hệ thống. Tuy nhiên, nhận xét rằng những nhà khoa bảng ở Mexico nói chung lại bảo vệ hệ thống cũ thì có đúng không?
Tôi có thể nói rằng, nói chung là như thế, nhưng cũng đúng khi nói rằng chúng tôi có (hay chúng tôi đã có) những nhà khoa bảng đã vượt lên trên mức trung bình. Rõ ràng nhất là Octavio Paz, từ những năm 1950 ông đã hiểu những sự kiện xảy ra ở Liên Xô, làm rõ quan điểm của mình, để cho nó chín và thể hiện nó. Trong những năm 1960, ông đã nhận xét một cách rõ ràng về nhu cầu và tính cấp bách của chế độ dân chủ thực sự ở đất nước này; trong những năm 1970 và 1980 ông còn tích cực hơn nữa.
Một số nhà khoa bảng có uy tín cao đã tỏ ra rụt rè hơn khi thể hiện đòi hỏi phải dân chủ hơn, họ quan tâm đến công bằng xã hội hơn. Họ phủ nhận chế độ độc tài, nhưng họ cần thời gian thì mới nói được rằng đấy là vấn đề xây dựng chế độ dân chủ thực sự.
Tôi sẽ không nói thay cho họ, nhưng tôi cho rằng vẫn có hi vọng là người ta có thể xây dựng được xã hội công bằng, không phụ thuộc vào việc đấy có là chế độ dân chủ hay không. Lúc đó mô hình Cuba có sức hấp dẫn đối với nhiều người. Tôi nghĩ đấy là một phần của vấn đề. Hôm nay khi chúng ta nói về Cuba, chí ít là những người đang cố gắng tìm hiểu đất nước này, thì đây là dự án không hiệu quả, theo nghĩa mang lại công bằng xã hội, tiến bộ và hạnh phúc cho nhân dân Cuba. Nhưng 40 năm trước, vẫn có ý kiến cho rằng một cái gì đó tích cực đang diễn ra, và không chỉ trong trường hợp của Cuba. Còn có những trường hợp khác; có những người cho rằng quan trọng nhất là công bằng xã hội chứ không phải là dân chủ, và tôi nghĩ rằng điều đó đã ngăn chặn một số người. Nhưng họ đã vượt qua và họ đã làm như thế một cách tích cực, và nhiều người trong số họ đã góp phần xây dựng nền tảng trí tuệ của nước Mexico ngày nay.
Thiết lập ưu tiên cho cải cách
Trong suốt nhiệm kì tổng thống của ông đã có một tập hợp nhất quán sáng kiến, trong đó có cải cách tư pháp, cải cách bầu cử, thay đổi đối với tòa án bầu cử, cải cách hiến pháp đối với cuộc bầu cử thống đốc Mexico City, củng cố nhánh lập pháp, và giảm quyền lực tùy tiện của tổng thống trong lĩnh vực tài chính. Một số người khẳng định rằng đây là một phần của xu hướng trong dài hạn và dù thế nào, cũng sẽ xảy ra thôi. Tuy nhiên, kinh nghiệm trên toàn thế giới cho thấy rằng nếu không có ban lãnh đạo thúc đẩy hành động, những cuộc cải cách quan trọng thường không xảy ra. Ông thích nghi dần với với từng vấn đề? Hay là đã có kế hoạch và phối hợp từ trước những cuộc cải cách nay?
Không cần phải là thiên tài mới hình dung được những bước tiếp theo, ngay sau khi giành chiến thắng trong cuộc bầu cử với hơn 50% phiếu bầu và với tổng số phiếu cao kỉ lục trong suốt nhiều năm. Vì ngay cả số cử tri gia tăng liên tục, ở Mexico, phải 18 năm sau mới có ứng cử viên giành được nhiều hơn số phiếu mà chúng tôi giành được trong năm 1994. Cho nên, tôi đã không gặp bất kì vấn đề nào về tính chính danh và không có ai nói cuộc bầu cử này là không hợp pháp hay bất cứ điều gì tương tự như thế. Tuy nhiên, rõ ràng là có ít nhất ba vấn đề, một số là thực sự và số khác thuộc về nhận thức. Vấn đề đầu tiên là công bằng về điều kiện trong cạnh tranh chính trị. Nếu phân tích các cuộc cải cách trước năm 1996, thì rõ ràng là các đảng có chân trong chính phủ đã có lợi thế lớn so với các đảng khác về tài chính, về tiếp cận với các phương tiện truyền thông đại chúng và sự minh bạch về nguồn lực được sử dụng trong các chiến dịch chính trị. Đây là vấn đề mà lúc đó vẫn chưa được giải quyết trong chế độ dân chủ Mexico.
Chắc chắn là trong Đảng có PRI phe đối lập chống lại thay đổi.
Vâng, chắc chắn là có đối lập, nhưng đối lập không bao giờ đủ mạnh để có thể khiến cho chúng tôi không thể đạt được thỏa thuận, hay để một người nào đó, trong những ngày tháng đó, đứng lên nói rằng, với cách làm như thế, chúng ta sẽ không tiến lên được. Quốc hội có đa số là đảng viên PRI, còn PRI thì ủng hộ cải cách, vì vậy tôi biết rằng nhiều người nói có lẽ PRI có những đảng viên không có thái độ tích cực đối với vấn đề này. Nhưng đa số đã ủng hộ và cuộc các cải cách được ủng hộ, đã được thông qua năm 1996. Không phải mọi thứ cùng một lúc. Một số bước đã được thực hiện, và nhiều bước nữa phải được thực hiện. Chúng ta có thể tranh luận là liệu những bước đó có thể được thực hiện trước hay không; tôi thích nếu chúng được thực hiện trước đó 20 năm, nhưng nếu trước đó chưa thực hiện thì bây giờ phải thực hiện.
Hệ thống bầu cử
Yếu tố khác là: Làm sao chúng tôi có thể biết rằng chúng tôi đã đếm chính xác số phiếu bầu? Lúc đó chúng tôi đã có hệ thống bầu cử chắc chắn, đó là một trong những cải cách được thực hiện trước khi chính quyền của tôi được thành lập. Tuy nhiên, hệ thống đó có một khiếm khuyết căn bản, đó là cơ quan bầu cử tiếp tục nằm dưới quyền của hành pháp. Ở một đất nước có quá trình lịch sử với đầy rẫy những mối nghi ngờ về bầu cử, với một đảng đã nắm quyền trong nhiều năm, lại có tổ chức bầu cử là cơ quan chính thức của nhánh hành pháp liên bang, vâng, rõ ràng là chúng tôi có nguy cơ sẽ không bao giờ thoát được nghi ngờ và bất tín nhiệm. Không cần phải là thiên tài mới thấy rằng cái chúng tôi cần là lập ra một cơ quan của nhà nước Mexico, không phải là tổ chức của công dân tách khỏi nhà nước, cơ quan này được bảo đảm là không phụ thuộc vào cả hành pháp lẫn lập pháp. Cơ quan này phải bao gồm những người, một mặt, được các đảng ủng hộ và mặt khác, có uy tín vững chắc vì liêm khiết. Điều đó sẽ làm giảm nguy cơ là hành động của họ sẽ bị nghi ngờ. Và điều này cũng sẽ giúp đảm bảo rằng cơ quan này sẽ được nhà nước cung cấp đủ tiền để có thể thực hiện các chức năng của mình.
Vấn đề khác là: Ai xác định tính hợp pháp của quá trình này? Hơn nữa, nếu có tranh chấp thì ai giải quyết? Theo hệ thống trước đó, quốc hội phân xử các cuộc bầu cử. Nhưng rõ ràng đấy là xung đột lợi ích, vì bạn có các đảng đại diện trong quốc hội, ở đấy bạn sẽ thấy các đảng lớn thể hiện tối đa quyền đại diện và cạnh tranh về chương trình nghị sự của họ. Vì vậy, yêu cầu quốc hội quyết định về các cuộc bầu cử, theo tôi, là hoàn toàn vô nghĩa.
Cải cách tư pháp
Bạn nhắc tới cải cách tư pháp. Ngày thứ hai, sau khi tôi nhậm chức, tôi đã đi ra ngoài và phát biểu với toàn dân rằng nếu chúng ta muốn có sự cân bằng giữa các nhánh của chính phủ và nếu chúng tôi muốn có công lí ở Mexico, thì chúng ta sẽ phải thực hiện cuộc cải cách ngành tư pháp một cách sâu rộng hơn, để làm cho nó trở thành độc lập thật sự. Đó không phải là tất cả những thứ chúng ta cần, tôi nói, nhưng đó là phần rất quan trọng.
Cuộc cải cách này đã được thực hiện ngay trong những tháng đầu tiên của chính quyền của tôi và đã được thông qua với sự đồng thuận của tất cả các đảng. Chỉ vài tuần sau khi sáng kiến này được đưa ra, chúng tôi đã củng cố các cơ quan tư pháp liên bang, nhằm phục vụ các công dân và còn – người ta phải đánh giá cao tiến bộ này – để ngành tư pháp tự cai quản và tự sửa chữa. Chúng tôi cũng cần xác định tính chính danh của các cuộc bầu cử và đưa cho tư pháp giải quyết thông qua tòa án chuyên trách. Vì vậy, tôi cảm thấy rằng quan trọng là tiến theo hướng đó. Đây không phải là những hành động rời rạc; tất cả đều xuất hiện từ rất sớm, không chỉ theo sáng kiến của Tổng thống nước Cộng hòa mà cả theo sáng kiến của các đảng nữa.
Xây dựng liên minh ủng hộ cải cách
Những khát vọng lớn và đường lối chung của cải cách đã được đặt ra ngay từ đầu. Chúng tôi đã trải qua 18 tháng đầy gian khổ, với nhiều gián đoạn, vì trong lúc đang có những nỗ lực cải cách chính trị thì chúng tôi phải chiến đấu với cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, và chúng tôi tiếp tục tổ chức bầu cử theo hệ thống cũ. Vì vậy, rất dễ hiểu nhưng rất tiếc là bất kì lí do gì cũng có thể bị các đảng chính trị viện đến để đứng lên và rời bàn đàm phán. Vì vậy, chúng tôi đã mất 18 tháng để đàm phán thay đổi này, thay đổi dường như là quá rõ ràng, vì tình hình của đất nước khó khăn và quá trình đàm phán cải cách chính trị thường bị giữ làm con tin cho nhiều quyền lợi khác, mà đấy lại là những lợi ích nhỏ hoặc không quan trọng so với những cuộc cải cách chính trị to lớn. Vì vậy, tôi đã phải chiến đấu quyết liệt để tiếp tục tạo được tiến bộ trong cải cách chính trị.
Tôi nhớ rằng, một lần, một trong các đảng quan trọng nhất bước ra khỏi bàn đàm phán, vì có cuộc tranh cãi về cuộc bầu cử trong chính quyền đô thị ở bang Puebla. Họ cáo buộc rằng, vị thống đốc ở đấy đã can thiệp vào cuộc bầu cử và nói rằng nếu chúng tôi đàm phán về cải cách chính trị to lớn, thì đây là vấn đề cần giải quyết trước tiên, nhằm ngăn chặn tình hình như vậy hay phải giải quyết một rõ ràng và công khai. Nếu bạn bỏ đi chỉ vì những cuộc tranh luận kiểu như thế – thì chúng ta sẽ không bao giờ có thể giải quyết những vấn đề này. Và họ đã trở lại bàn đàm phán. Cuối cùng, một năm rưỡi sau đó, một thỏa thuận chính trị lớn đã được kí kết, thỏa thuận này sau đó đã được chuyển tải vào cải cách hiến pháp và luật pháp, tạo cho chúng tôi khuôn khổ pháp lí và thiết chế để tiến hành những cuộc bầu cử trong các năm 1997 và 2000.
Quan trọng là phải có một cơ chế giám sát bầu cử để đảm bảo rằng các cuộc bầu cử không bị người ta nghi ngờ. Tuy nhiên, còn có một vấn đề khác: Muốn có chế độ dân chủ thì phải có những người dân chủ, và đấy là cái mà tôi tin rằng chúng tôi vẫn đang xây dựng ở Mexico. Mặc dù chúng tôi đã có những thiết chế rất vững chắc để tổ chức, quan sát và đánh giá các cuộc bầu cử, đã và đang có những cuộc tranh cãi lớn ở Mexico. Vì vậy, khi người ta nói “Cái gì thế? Thiết chế có trục trặc à?” Tôi nói “Không, ngược lại”. Nếu không có những thiết chế này, hậu quả của các hành vi sai trái của các nhà hoạt động chính trị, tức là những người tuyên bố chiến thắng mà họ không giành được trong cuộc bầu cử thì sẽ gây ra những hậu quả thảm khốc cho đất nước. Các thiết chế có thể hoạt động, nhưng nếu một số nhà hoạt động chính trị không muốn hành xử như những người dân chủ, thì những người khác cũng sẽ làm như thế.
Phân chia quyền lực
Sau khi cuộc bầu cử năm 2000 tạo ra được sự chuyển giao quyền lực, một số nhà quan sát người Mexico tỏ ra mâu thuẫn. Họ muốn dân chủ, nhưng họ còn tỏ ra thiếu kiên nhẫn đối với tiến trình chính trị và cảm thấy rằng chế độ dân cử theo lối dân chủ phải hiệu quả trong việc giải quyết vấn đề khi chính phủ quyết định những việc cần phải làm, mà không tính đến việc cần phải thương lượng bao lâu thì mới quản trị được trong hệ thống với sự phân chia quyền lực. Quan điểm của ông về việc thiếu kiên nhẫn này?
Có rất nhiều người – không chỉ ở Mexico – nói rằng nếu chúng ta có hệ thống, trong đó, tổng thống có thể làm mọi thứ nhanh hơn, thì nhiều vấn đề sẽ được giải quyết. Tôi nghĩ rằng họ lầm. Tôi cũng nghe những người bạn châu Á của tôi nói như thế, họ bảo rằng, vấn đề của chúng tôi là chúng tôi muốn bắt chước chế độ dân chủ ở Mỹ hay theo phong cách châu Âu và chúng tôi sẽ không thoát khỏi tình trạng kém phát triển theo cách đó. Vì vậy, câu trả lời của tôi là, trong gần 200 năm qua chúng tôi đã cố gắng làm những việc mà các bạn đã và đang làm và chúng tôi luôn luôn thất bại; bất cứ khi nào có tập trung quyền lực, nhưng thiếu kiểm soát và đối trọng lẫn nhau, thì thất bại là chắc chắn, cả về kinh tế lẫn chính trị, và trên hết là thất bại về con người.
Ở Mỹ Latin, chúng tôi là những người hiểu rõ kiểu thất bại đó. Ở Mỹ Latin, tập trung quyền lực không mang lại bất kì điều gì tốt đẹp hết và chúng tôi có thể tính số người và thậm chí phần trăm của GDP mà chúng tôi phải trả giá. Vì vậy, con đường đó phải được loại bỏ; chúng tôi không có con đường nào khác ngoài dân chủ, con đường của kiểm soát và đối trọng giữa các nhánh khác nhau của chính phủ, và học tập để làm cho nó hoạt động. Octavio Paz nói rằng dân chủ là công bộc của phát triển và công bằng xã hội. Dân chủ không tự động mang lại kết quả tốt; nó mang lại cho bạn hình thức chính phủ mà các công dân, các đảng phái, và các nhà lãnh đạo phải sử dụng để phát triển. Nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy chắc chắn bằng lúc này rằng, mỗi khi không thiết lập được cơ chế kiểm soát và đối trọng và trách nhiệm giải trình ở châu Mỹ Latinh, để quyền lực quá tập trung, thì chúng tôi thất bại. Chúng ta có những ví dụ từ ngày xưa, gần đây và cả hiện nay nữa.
Dân chủ là phù hợp với Mỹ Latin. Chúng tôi sẽ chứng minh trong tương lai – cần một ít năm nữa – rằng trong chế độ dân chủ, chúng tôi năng động hơn là trong chế độ độc tài. Chúng tôi không nghĩ sẽ hoạt động tốt trong chế độ tài; nó chống lại mã di truyền của chúng tôi, chống lại nhiều thứ thuộc bản chất của chúng tôi. Đáng tiếc là, chúng tôi đã không có cơ hội để làm như thế ngay sau ngày giành được độc lập. Nếu chúng tôi làm được như thế lúc đó, thì hiện nay chúng tôi đã là khu vực phát triển đầy đủ hơn rồi.
Xung đột dân sự
Phong trào Zapatista [phong trào ở bang Chiapas, miền nam Mexico, tuyên chiến với chính phủ Mexico vào tháng 1 năm 1994, sử dụng ngôn từ đao to búa lớn xã hội chủ nghĩa, nhưng chẳng bao lâu sau đã chuyển sang nhấn mạnh quyền của người bản địa] có ảnh hưởng như thế nào đối với các cuộc cải cách chính trị và tiến trình dân chủ hóa ở Mexico? Ảnh hưởng của phong trào này đối với xã hội nói chung và với các đảng chính trị là gì?
Vấn đề của Chiapas là quan trọng; các đảng cũng đã xem xét, nhưng những việc chúng tôi làm không phải vì tình hình ở Chiapas. Chúng tôi đã thỏa thuận về cái mà tôi nghĩ là chẩn đoán đúng tình hình ở đó. Trước hết, phong trào ở Chiapas căn bản không phải là cuộc khởi nghĩa vũ trang, mà là bất mãn của xã hội. Mặc dù, đúng là những người này tiến lên với diễn ngôn mang tính cách mạng, kể cả bằng bạo lực, trong giai đoạn đầu, nhưng hiển nhiên rằng đó không phải là vấn đề quân sự. Đó là bất mãn xã hội, và tôi nghĩ rằng chính phủ hiểu rằng điều tốt nhất có thể làm là tìm cách giải quyết các vấn đề xã hội ở Chiapas.
Nhưng không rõ là sẽ phải nói chuyện với ai, vì những người này được cho là hoạt động bí mật. Một khi nguồn gốc và bản chất của phong trào trở nên rõ ràng, thì đã có một cuộc đối thoại nghiêm túc. Đáng tiếc là, việc hòa nhập về phương diện chính trị để nhóm người này tham gia vào đời sống chính trị chính thức của đất nước chưa bao giờ được thực hiện một cách trọn vẹn. Nhưng tôi thấy rõ là, sau sáu năm, tình hình xã hội ở Chiapas đã khác hẳn, vì chúng tôi đã làm được rất nhiều việc. Khi làm tổng thống, đó là một trong những nơi tôi đã dành nhiều thời gian hơn để giải quyết vấn đề xã hội của bang, trong những điều kiện bình thường và trong những điều kiện đặc biệt. Ngoài những thứ khác, chúng tôi đã gặp ít nhất hai thảm họa thiên nhiên rất nghiêm trọng ở Chiapas, và phải giải quyết ngay, tương tự như tôi đã cố gắng giải quyết những thảm họa thiên tai khác, trong nhiệm kỳ của tôi xảy ra khá nhiều vụ như thế.
Nhưng tôi xin nói với bạn rằng, khát vọng thi hành cải cách chính trị của tôi vẫn thế, dù có hay không có Chiapas; hay, nói theo cách khác, Chiapas là vấn đề riêng, phải có cách xử lí và chiến lược riêng, còn cải cách chính trị cũng thế, cũng là vấn đề riêng biệt và đó là lí do vì sao nó đã được thực hiện.
Phản ứng với khủng hoảng kinh tế
Ở Mexico, cải cách chính trị được thực hiện trong khi đang xảy ra khủng hoảng kinh tế. Nếu phải nói về kinh nghiệm của Mexico, theo nghĩa quan hệ giữa thay đổi về chính trị và chính sách kinh tế, ông có thể rút ra những bài học nào?
Mexico có thể là trường hợp đặc biệt, vì trước khi nhậm chức, chúng tôi đã nói rằng chúng tôi sẽ làm việc với các đảng chính trị nhằm thực hiện cải cách chính trị. Khi nói điều đó, chúng tôi không biết – tôi không biết – rằng chúng tôi sẽ đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế mà sau đó chúng tôi đã phải đối mặt.
Giai đoạn đầu chính quyền của Tổng thống Salinas, tôi là bộ trưởng ngân sách và kế hoạch hóa, và năm 1992, tôi là bộ trưởng giáo dục.
Nhưng trong suốt chiến dịch tranh cử, khi ông là ứng cử viên tổng thống, ông và các cố vấn của ông không nghi ngờ gì rằng một cuộc khủng hoảng lớn như thế có thể xảy ra sau đó?
Không- vâng, nếu chúng tôi nghĩ về nó, thì nó đã không xảy ra. Đấy là lí do vì sao các cuộc khủng hoảng lại xảy ra, vì không ai nghĩ là chúng sẽ xảy ra, ít nhất là không lớn như cuộc khủng hoảng Mexico. Xin trích dẫn ví dụ thời hiện đại, không có ai dự đoán được rằng cuộc khủng hoảng sẽ nổ ra vào năm 2008 với mức độ mà hiện nay chúng ta tiếp tục cảm thấy ảnh hưởng tiêu cực của nó. Đúng là, như một số người nói, hệ thống ngân hàng rất dễ bị tổn thương; một số người khác nói rằng sự mất cân đối của kinh tế vĩ mô trên toàn thế giới có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính. Nhưng sẽ là sai khi nói rằng một người nào đó có thể dự đoán được quy mô và mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng mà chúng tôi đã trải qua từ năm 2008, thực ra là từ năm 2007, khi thị trường thế chấp dưới chuẩn nổ tung.
Cuộc khủng hoảng ở Mexico cũng tương tự như thế. Không ai dự đoán được, bởi vì nếu chúng tôi có thể nhận ra rằng nó đang tới, cả những người trong chính phủ lẫn những người trong số chúng tôi đã rời khỏi chính phủ lúc đó – vâng, thì đã có thể làm được cái gì đó để ngăn chặn nó rồi.
Cuộc khủng hoảng ở Mexico là cuộc khủng hoảng tài chính lớn đầu tiên trong thời đại mới, thời đại toàn cầu hóa về tài chính và thị trường mới nổi. Khác hẳn với cuộc khủng hoảng nợ năm 1982. Chúng tôi là vật thí nghiệm đầu tiên của toàn cầu hóa về tài chính. Tôi không phê phán hay ủng hộ toàn cầu hóa về tài chính; nó là như thế, khi lịch sử của toàn cầu hóa về tài chính đương đại được khởi thảo, cần nói rằng cuộc khủng hoảng đầu tiên của nó xảy ra khi có sự thay đổi đột ngột luồng vốn và làm cho đất nước Mexico suy sụp vào cuối năm 1994-1995. Chưa có trường hợp nào như thế trước đó, vì cuộc khủng hoảng ở châu Á, cuộc khủng hoảng ở Nga và cuộc khủng hoảng ở Brazil diễn ra sau cuộc khủng hoảng của chúng tôi.
Chúng tôi quyết tâm và đã đặt ra mục tiêu cho cải cách chính trị. Chính quyền vừa bắt đầu, thì xảy ra khủng hoảng kinh tế và tài chính lớn, và quyết định cực kì quan trọng đã được đưa ra: Cuộc khủng hoảng kinh tế buộc chúng tôi phải đợi một thời gian mới tiến hành cải cách chính trị, để chúng ta có điều kiện tập trung vào các vấn đề kinh tế?
Một số người nói rằng chúng ta không thể làm gì hơn ngoài các vấn đề kinh tế. Tôi không đồng ý. Tôi nói, chúng ta đã phải tìm cách làm cả hai việc cùng một lúc, vì hai lí do. Thứ nhất, vì đó là cái mà chúng ta đã tự cam kết làm và đấy cũng là cái đất nước cần; nó còn là một phần của chiến lược phát triển của đất nước. Và thứ hai, tôi phải thừa nhận, đấy là lí do chiến thuật, vì tôi nghĩ rằng chỉ riêng vấn đề kinh tế thì sẽ rất khó lôi kéo những lực lượng chính trị khác ủng hộ.
Mặc dù ban đầu tình hình rất phức tạp, tôi nghĩ rằng tôi sẽ có nhiều khả năng thành công hơn trong việc quản lí nền kinh tế bằng cách mở ra những cuộc đàm phán về chính trị. Giải thích của tôi là nó xảy ra đúng như thế. Tôi cảm thấy, một lần nữa, rằng không cần phải là thiên tài mới nhìn thấy được vì sao nó là quan trọng. Nếu các đảng trong phe đối lập biết rằng vì bất bình đẳng trong luật lệ bầu cử mà họ phải chịu mãi số kiếp là đối lập, thì vì sao họ cảm thấy trách nhiệm trong việc giúp đỡ để giải quyết vấn đề, xin nói, đấy là những vấn đề cấp bách? Họ sẽ có thái độ tiêu cực. Do đó, quan trọng là nói với họ: “Xin hay xem, chúng ta cần đảm bảo phục hồi kinh tế. Đây là cuộc khủng hoảng cực kì nghiêm trọng, nhưng là cuộc khủng hoảng có giải pháp chữa trị. Chúng ta có thể phục hồi. Và thông qua các biện pháp dân chủ, chúng ta sẽ quyết định ai sẽ là người chăm sóc ngôi nhà của chúng ta trong ba năm làm nghị sĩ quốc hội và sáu năm làm tổng thống”.
Thậm chí có người ở phe đối lập còn nói rằng chúng ta không nên thảo luận cải cách chính trị vào lúc đó bởi vì sẽ có rất nhiều lời hăm dọa, nhưng sẽ thực hiện được cải cách vì nó là quyền lợi của tất cả mọi người. Chính phủ có lợi ích chiến thuật, nhưng để phê chuẩn chiến lược phục hồi kinh tế thì còn có lợi ích chiến lược nữa, hoặc là phải có, đấy là nói về phía các đảng chính trị khác.
Các thiết chế độc lập
Ngay từ lúc nắm chính quyền, ông đã bổ nhiệm một người thuộc đảng đối lập, Đảng PAN, làm Bộ trưởng tư pháp của nước cộng hòa. Một số người coi động thái này là nhằm mục đích làm đảng của ông suy yếu thêm. Ông có thể giải thích cách thức cơ cấu nội cách của mình?
Bổ nhiệm Bộ trưởng tư pháp là quyết định được cân nhắc rất kĩ và là một trong những quyết định mà người ta thường không quan tâm một cách đầy đủ. Bộ trưởng tư pháp đầu tiên của tôi không phải là người tôi quen biết, tôi cũng chưa từng nói chuyện với ông ta, cho đến khi tôi gọi điện đề nghị ông suy nghĩ về chức vụ này. Ông là nhà lãnh đạo các nghị sĩ của PAN trong Hạ nghị viện. Khi tôi bổ nhiệm, tôi nói với ông: “Ông là Bộ trưởng tư pháp hoàn toàn độc lập. Tôi sẽ chỉ tương tác với ông trên hai phương diện chính: tôi bổ nhiệm ông và nếu ông không có đủ khả năng, theo quan niệm của tôi, thì tôi có thể sẽ sa thải ông. Ông có quyền tự do thực hiện các chức năng của mình”. Khi ông rời nhiệm sở, tôi bổ nhiệm một người mà tôi đã gặp từ trước, nhưng tôi chưa bao giờ gần gũi với ông ấy, ông này được người tiền nhiệm của tôi cử làm chủ tịch Ủy ban Quyền con người, nhưng tôi không có bất kì quan hệ gắn bó nào với ông ta. Ông là một luật sư cực kì nổi tiếng và cực kì trung thực và khi Bộ trưởng tư pháp đầu tiên của tôi rời nhiệm sở, tôi đã đề nghị ông giữ chức vụ này. Vì vậy, trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của tôi, lúc nào tôi cũng có Bộ trưởng tư pháp độc lập, đấy cũng là điều quan trọng, vì đấy là vấn đề tôn trọng nhánh tư pháp. Một số người phê bình nói rằng, tôi tự trói chân trói tay mình – ngoài việc tìm kiếm sự độc lập của nhánh tư pháp, tôi còn bổ nhiệm một Bộ trưởng tư pháp độc lập.
Tôi cảm thấy, do tình hình bi đát mà đất nước đang trải qua lúc đó, rằng đấy là hai việc quan trọng, cả về chiến lược lẫn chiến thuật, cần phải làm. Tôi nói thế vì cùng với thời gian, một số người cực kì thiển cận đã chỉ trích. Hệ thống tư pháp độc lập và Bộ trưởng tư pháp độc lập, và đấy là điều tôi rất tự hào vì tôi nghĩ rằng về mặt chiến thuật đấy là việc cần làm. Nhưng tôi cũng tin rằng quyền lực của tổng thống phải bị giới hạn, rằng tổng thống không được nắm quyền lực của đế chế lâu hơn nữa, rằng quyền lực tổng thống phải bị giới hạn theo những điều khoản được ghi trong hiến pháp. Trong trường hợp Bộ trưởng tư pháp, tôi đã đi một bước xa hơn hiến pháp, đấy là khi tôi hành động, theo quan điểm của tôi, là Bộ trưởng tư pháp phải được hưởng quyền tự do tất yếu để có thể thực hiện các chức năng của mình.
Một số người khẳng định rằng năm 1994, khi một đảng viên PAN điều tra vụ ám sát Luis Donaldo Colosio [ứng cử viên tổng thống PRI] thì người đó có quyền tự chủ cao hơn. Đấy có phải ý kiến của ông?
Vâng, tôi muốn có một Bộ trưởng tư pháp độc lập. Tôi không muốn có bất kỳ sự thiên vị nào; tôi không cử một người hoạt động vô tổ chức. Tôi bổ nhiệm luật sư, có tiếng là nghiêm túc; nhiều người cũng giới thiệu ông. Một lần nữa, đây là vấn đề tín nhiệm: Làm sao chúng ta có thể tái lập sự tín nhiệm vào tổ chức? Việc thực thi pháp luật và hệ thống tư pháp đã hoàn toàn mất tín nhiệm, vì vậy, tôi muốn tìm xem làm cách nào mình có thể một bước về phía trước để bắt đầu xây dựng lại lòng tin vào việc thực thi pháp luật và cho mọi người thấy hệ thống tư pháp đang hoạt động.
Có nhiều cách giải thích quyết định của ông trong việc thông báo kết quả cuộc bầu cử năm 2000, quyết định này vẫn chưa được công bố – theo tôi hiểu – bởi IFE (Viện Bầu cử Liên Bang) cho nhân dân Mexico.
Không, kết quả đã được IFE công bố trước tiên. Người đầu tiên công bố là chủ tịch IFE. Đối với tôi, đây là việc rất rõ ràng, bởi vì đó là quyết định mang tính thiết chế. Chủ tịch IFE – trong đời tôi mới nói chuyện với ông có ba lần – không làm ở IFE vì là bạn của tôi, mà vì ông là người có uy tín đến mức không ai dám nghi ngờ. Và một trong số vài lần chúng tôi nói chuyện với nhau chính là đêm hôm đó. Ông nói với tôi: “Thưa Tổng thống, việc kiểm phiếu [tức chương trình kiểm phiếu nhanh của IFE] cho thấy ứng cử viên của PAN, [Vicente] Fox, đã thắng và IFE cho rằng có một cơ sở vững chắc để công bố kết quả bầu cử”.
Tôi nói với ông: “IFE phải làm những việc phải làm theo luật, vì vậy tôi hoàn toàn tôn trọng quyết định công bố của ông”. Vài phút sau thông báo của IFE, tôi nói với ông như thế, tôi sẽ tuyên bố ủng hộ việc công bố của IFE vì tôi tin tưởng vào thiết chế mà ông là người đại diện, và cuộc thăm dò dư luận những người vừa bỏ phiếu xong mà người ta cho tôi xem cũng cho thấy như thế.
Và đấy là việc tôi đã làm. Jose Woldenberg [Chủ tịch IFE, 1996-2003] nói, và vài phút sau thì tôi xuất hiện để nói những điều tôi phải nói. Nghĩa là, tôi đã không cầm đèn chạy trước ô tô vì như thế sẽ là sai lầm. Nó sẽ phủ nhận toàn bộ ý nghĩa của cải cách, với yêu cầu tôn trọng sự độc lập của IFE trong việc nói những điều nó phải nói. Tôi chúc mừng tổng thống mới đắc cử; đó là lí do vì sao mọi người nhớ đến nó nhiều hơn. Nhưng chủ tịch IFE đã thông báo trước tôi.
Nhưng việc ông làm đã bị hiểu lầm, không phải thế ư?
Vâng, vì một số người đã biến thông báo đó thành cả một huyền thoại. Và họ quên rằng, một lần nữa, bạn không cần phải là thiên tài. Những việc đã làm là rõ ràng; đó là những gì có ý nghĩa. Nếu chúng ta có cơ quan bầu cử có thể công bố kết quả cuộc bầu cử tổng thống với mức độ khả tín cực kì cao, với sự tự tin cực kì lớn, tại sao tổng thống lại không được xuất hiện để chúc mừng vị tổng thống tiếp theo của chúng tôi?
Ông không sợ rằng PRI sẽ gặp khó khăn trong việc chấp nhận kết quả? PRI có muốn trì hoãn thông báo hay không?
Vâng, tôi tin rằng tất cả các đảng muốn đảm bảo họ không thua, và đương nhiên là họ muốn nói – do áp lực của thời điểm đó – rằng, có lẽ là kết quả sẽ khác khi quá trình kiểm phiếu còn tiếp tục. Tuy nhiên, những người nhìn vào các sự kiện với cái đầu lạnh, biết phương pháp luận của thống kê và họ biết không thể nào thay đổi được; thay đổi hẳn kết quả là điều không thể nào tin được.
Vì vậy, không đúng khi nói rằng trong PRI có những người phản đối, không muốn tôi thông báo, và đấy là sự kiện thực tế; ứng cử viên của PRI cư xử rất tốt trong đêm đó. Tôi hiểu rằng một số người có thể muốn đợi cho đến khi có thêm dữ liệu, thêm nhiều kết quả hơn, đợi thêm chút thời gian nữa, nhưng lúc đó cũng đã rất rõ ràng rồi.
Có nhiều huyền thoại về đêm đó và trong một số huyền thoại, tôi được ca ngợi nhiều hơn hay bị chỉ trích nhiều hơn là mình đáng được hưởng; dường như tôi chẳng có hành động kỳ diệu nào.
Chúng tôi đã làm việc với tất cả các đảng chính trị trong suốt sáu năm, do đó, cho dù PRI, PRD, hay PAN chiến thắng thì mọi thứ vẫn sẽ tốt; đó là sự bình thường của dân chủ. Sự bình thường của dân chủ là cuộc bầu cử diễn ra mà hôm sau không có đánh nhau trên đường phố vì kết quả. Và đã xảy ra chuyện gì? Chúng tôi đã đạt được tình trạng bình thường. Tôi đã sử dụng thuật ngữ “tình trạng bình thường của dân chủ” ngày 01 tháng 12 năm 1994, và trong các cuộc bầu cử gần sáu năm sau đó, chúng tôi có kết quả như thế nào? Tình trạng bình thường của dân chủ. Không chỉ cho tôi, mà cho tất cả mọi người.
Chính sách xã hội
PROGRESA (Chương trình Giáo dục, Y tế và Dinh dưỡng) là chương trình xã hội đầy sáng tạo, chương trình đầu tiên thuộc loại này ở châu Mỹ Latin, nhằm giảm bớt các tác động xã hội của những điều chỉnh kinh tế vĩ mô và xóa đói giảm nghèo. Ông có thể giải thích mục đích và kết quả của nó?
PROGRESA có một lịch sử rất thú vị. Khi tôi vận động bầu cử, tôi nói rằng chúng ta cần bắt đầu suy nghĩ về toàn bộ vấn đề nghèo đói và giáo dục một cách nghiêm túc hơn, mang tính khoa học hơn. Cái khó là làm sao để các nhóm dân cư trong nước có trường học, có giáo viên, đôi khi có sách giáo khoa, có những khoản hỗ trợ đặc biệt cho các thày cô giáo và có đủ tất cả những thứ đó cho trẻ em để chúng học hết tiểu học và trung học. Tuy nhiên, đã không có chuyện như thế.
Tôi hỏi: “Ai đã nghĩ về việc nghiên cứu mối quan hệ giữa giáo dục và nghèo đói?”. Người ta bảo tôi Santiago Levy, và tôi gọi điện cho một người bạn rất thông minh của mình, tiến sĩ về nhân khẩu học, José Gómez de León, và tôi đề nghị từng người bắt đầu làm việc với một số ý tưởng. Đã tiến hành một số thí điểm. Chúng tôi đã chi tương đương với 10 triệu USD cho nghiên cứu và thí nghiệm, để có thể đưa ra những đặc điểm cơ bản của chương trình.
Cái lợi của việc đưa José Gómez de León vào nhóm nghiên cứu là ông thiết kế cách ứng dụng chương trình tiên phong trong lĩnh vực khoa học xã hội. Có nhóm người giữ làm tiêu chuẩn so sánh và nhóm thí nghiệm để sau một thời gian có thể kiểm tra xem việc can thiệp có tạo ra tác động đáng mong muốn hay không.
Các ứng cử viên của các đảng, trừ PRI, đều chỉ trích PROGRESA và nói rằng họ hủy bỏ nó nếu họ nắm được chính phủ, rằng đó là chương trình với mục đích chính trị. Nhưng ngay trước khi nhiệm kì của tôi kết thúc, chúng tôi mời các nhà khoa học xã hội nổi tiếng đánh giá PROGRESA. Họ kết luận rằng chương trình này mang lại kết quả: Cải thiện sức khỏe của trẻ em, giảm tỉ lệ học sinh bỏ học, và những điều kiện ưu đãi mà chúng tôi dành cho các trẻ em gái đang có tác dụng tích cực. Trên cơ sở phân tích này, chương trình được chính phủ sau tiếp tục thực hiện.
Lãnh đạo
Trước cuộc bầu cử năm 1994, người ta chưa hẳn đã nghĩ ông là nhà lãnh đạo chính trị mà là một nhà kĩ trị tài ba. Nếu nghĩ rằng lãnh đạo chính trị là có thể hiểu các lực lượng và xu hướng ngầm và cách chúng thể hiện ra, với một tầm nhìn về biện pháp cải thiện các điều kiện, có ý chí và khả năng tạo điều kiện cho những thay đổi tích cực, ông rõ ràng là người có vai trò quan trọng trong lãnh đạo chính trị. Điều gì đã tạo cho ông khả năng lãnh đạo chính trị như thế?
Trước hết, tôi không chắc rằng tôi đã là một nhà lãnh đạo chính trị quan trọng. Tôi chỉ là Tổng thống Mexico mà thôi, còn trước đó tôi đã nhận những trách nhiệm quan trọng khác ở trong chính phủ nước tôi. Nhưng, trước hết, để tôi nói vài điều về sự khác biệt này, đấy là sự khác biệt hơi giả tạo, giữa các chính trị gia và các nhà kĩ trị. Khi người ta nói về các chính trị gia, tôi thực sự không biết người ta nói về những đặc điểm gì. Nếu người ta nói với tôi rằng chính trị gia là ám chỉ những người rất thích quyền lực và thể hiện quyền lực thì bạn có thể đưa tôi ra khỏi khỏi danh sách này, vì tôi không bao giờ có bất cứ ham thích hay nhu cầu quyền lực hay uy quyền nào. Nếu dùng từ chính trị gia là bạn muốn ám chỉ người bị hấp dẫn bởi khía cạnh bên ngoài của việc có quyền lực chính trị, có bộ máy, có cơ quan, có những người bên cạnh bạn, những người lúc nào cũng đồng ý với bạn, thì tôi không phải là chính trị gia.
Còn nếu bạn nói về người luôn luôn tương tác với nhiều người trong xã hội – vâng, tôi là người bẩm sinh nhút nhát, vì vậy đấy là việc rất khó khăn đối với tôi, nhưng tôi làm việc đó, và thực sự, hiện tôi kiếm sống từ việc đó, từ việc nói chuyện với mọi người.
Bây giờ, nếu bạn nói với tôi rằng chính trị gia là người có thiên hướng phục vụ xã hội, thì tôi là người như thế. Nếu một chính trị gia là người nghĩ nhiều hơn về quyền lợi chung, thì tôi là chính trị gia; nếu đó là người thích cạnh tranh trong lĩnh vực chính trị, vâng, tôi thích cạnh tranh.
Tôi cảm thấy rằng sự phân biệt giữa chính trị gia và nhà kĩ trị là sự phân biệt giả tạo, hơn nữa, nó không đứng vững được trước sự xem xét của lịch sử. Một số chính trị gia vĩ đại có thể đã có thành tích chẳng ra gì, còn một số người khác dường như không có đặc tính của các chính trị gia nhưng hóa ra là những nhà lãnh đạo chính trị vĩ đại. Tôi nghĩ đó là Carlos Solchaga, bộ trưởng tài chính dưới thời Felipe Gonzalez [đứng đầu chính phủ Tây Ban Nha, giai đoạn 1982-1996], ông này đã đưa ra định nghĩa về nhà kĩ trị – một chính trị gia biết một cái gì đó, một người có đi học.
Có lẽ lúc đó tôi là một trong những nhà kĩ trị đó. Bây giờ, tôi đã không còn là kĩ trị gia cũng chẳng phải là chính trị gia trong suốt 12 năm qua. Tôi đã là một nhà kĩ trị và nó không làm tôi khó chịu, cũng như tôi không cảm thấy khó chịu khi có người nói rằng tất cả các chính trị gia đều là người xấu, và có người nói với tôi: “Vấn đề là, ông là một chính trị gia”. Và tôi nói với họ, vâng, vì chính trị là một trong những phát minh vĩ đại của loài người. Có hai cái giúp chúng ta không còn là người man rợ: thứ nhất là chính trị và, thứ hai, ngoại giao bắt nguồn từ chính trị. Nếu không có chính trị hay ngoại giao, chúng ta có lẽ vẫn đang sống trong các hang động, và giết hại lẫn nhau.
Nhà kĩ trị là người hiểu được bản chất của vấn đề và những việc cần phải làm, nhưng không nhất thiết phải có các kĩ năng hay các vai trò xã hội là đưa các lực lượng khác nhau lại với nhau để ủng hộ một tầm nhìn chung. Đấy chính là cái mà nhà lãnh đạo chính trị làm. Đấy là những phẩm chất khác nhau. Giỏi ở một trong hai lĩnh vực đã khó, nhưng là nhà lãnh đạo chính trị giỏi còn đặc biệt khó hơn. Ông có thể nói với thanh niên, những người mong muốn đóng góp cho chuyển hóa dân chủ, về phẩm chất, năng lực, hay thái độ, tức là những thứ cần và là những thứ mà người ta phải rèn luyện nếu muốn trở nhà lãnh đạo chính trị?
Hầu như học kì nào tôi cũng đứng lớp, một hoặc hai lớp, đôi khi ba, các thanh niên đến gặp tôi và nói với tôi rằng khi ra trường họ muốn cống hiến cho chính trị, và họ hỏi tôi nghĩ sao. tôi nói với họ rằng, trước hết, họ đang đi theo hướng tốt, bởi vì họ đang nhận được một nền giáo dục tốt. Nhưng phải nhớ rằng đấy là điều cần nhưng chưa đủ.
Thứ hai, cùng với học vấn, bạn cần xác tín rằng bạn muốn phục vụ nhân dân, mà không mong nhận lại bất cứ thứ gì, vì đó là chính trị. Nếu bạn là một chính trị gia trung thực, bạn có thể nhận được hay không nhận được đồng lương mà bạn đáng lẽ phải có, nhưng bạn phải có xác tín rằng sẽ phục vụ tận tâm và phục vụ sự thật. Vì, ví dụ, ngân hàng phục vụ nhưng phải trả phí và phí khá cao. Người làm trong chính quyền phải mong muốn phục vụ chỉ để phục vụ, để làm việc thiện cho tập thể. Nếu tham vọng của bạn là được nổi danh, được công nhận, thì nên tham gia vào lĩnh vực hoạt động khác. Thiên chức phục vụ xã hội là cơ bản.
Và thứ ba, khi sống trong chế độ dân chủ ở đất nước này và nhiều nước khác, người ta phải hiểu rằng chính trị giống như bánh xe số phận: có lúc bạn lên, có lúc bạn xuống; lúc lên thì bạn nằm trong chính quyền, còn lúc xuống thì bạn thuộc phe đối lập. Vì vậy, bạn cần phải phân tích dù bạn muốn xuống hay lên, và không phải ai cũng phân tích như thế. Có những người thích sự chắc chắn, ổn định, dự báo được và được tưởng thưởng ngay lập tức; và trong chính trị, trong đời sống công cộng, không phải lúc nào bạn cũng tìm được những thứ đó.
Tuy nhiên, chuẩn bị là rất quan trọng; ngày nay có những thiên tài, những người có thể hoạt động hữu hiệu trong lĩnh vực chính trị, và trong chính phủ họ có năng khiếu hay khôn ngoan để hoạt động hữu hiệu, và có kinh nghiệm giúp chúng tôi làm tốt. Nhưng rủi ro sẽ rất, lớn nếu đưa những người không có nền tảng trí tuệ tốt vào những vị trí có trách nhiệm. Đấy sẽ là nguy cơ rất lớn, cho người đó và cho nhân dân, và vì vậy, chúng tôi đã gặp những trường hợp đáng buồn và thảm cảnh.
Bối cảnh quốc tế
Ở Mỹ Latin, lúc đó có nhiều cuộc chuyển tiếp đang kết thúc. Đấy có phải là những kinh nghiệm được Mexico nghiên cứu không?
Không, về khía cạnh này tôi nghĩ rằng, một lần nữa, Mexico là trường hợp đặc biệt. Đúng là, dựa vào hoàn cảnh của những năm cuối thập niên 1980 và đầu những năm 1990, người ta có thể nói rằng chế độ dân chủ ở Mexico tiến bộ hơn so với chế độ dân chủ Brazil, dân chủ Argentina. Sự thật là chúng tôi không bao giờ so sánh với Brazil hay Argentina, vì, về mặt hình thức, chúng tôi chưa bao giờ mất chế độ dân chủ, các cuộc bầu cử và chuyển giao quyền lực diễn ra theo chu kì. Ngoài ra, đây là điều cực kì quan trọng trong lương tâm Mexico: mỗi lần một nước Mỹ Latin nào đó phải chịu đựng chế độ độc tài quân sự, thì Mexico là nơi người dân có thể tìm được đất sống và tự thể hiện. Không chỉ những nước khác ở Mỹ Latin, mà cả Tây Ban Nha nữa. Vì vậy, chúng tôi không bao giờ cảm thấy mình đang sống trong cùng hoàn cảnh với những người anh em của chúng tôi ở Argentina, Brazil và Chile; thực ra, đúng là đau khổ đối với họ, vì chúng tôi được hưởng nhiều quyền tự do mà những người anh em ở phía nam của chúng tôi không được hưởng, và đúng là đôi khi ở Mexico cũng có những hạn chế, lừa phỉnh, những hình thức kiểm soát, nhưng hoàn toàn không thể so sánh với những bi kịch ở Nam Mỹ.
Vì vậy, nếu năm 1990 có người muốn so sánh chế độ dân chủ Mexico với chế độ dân chủ Brazil, họ sẽ nói về Brazil: “Các vị vẫn còn mang tã”, vì ở Mexico chúng tôi có sự chuyển giao chính phủ, các cuộc bầu cử… được tiến hành một cách trật tự, thường xuyên, và theo định kì; báo chí của chúng tôi rất tự do; nói cách khác, những thứ, mà thật đáng buồn là, mãi gần đây Nam Mỹ vẫn chưa có. Lúc đó, chúng tôi vẫn không biết những việc đang diễn ra ở Chile – bây giờ chúng tôi biết rằng đấy là trường hợp đặc biệt. Sau 20 năm, đã đạt được tình trạng dân chủ bình thường, nhưng sự thật là, chúng tôi nói: “Sẽ xảy ra chuyện gì nếu ông Pinochet quyết định rằng ngày kia ông không [ông sẽ không từ chức tổng thống]”, và ông ta có những cơ chế nếu ông tìm cách làm như vậy. Vì vậy, họ không phải là điểm tham chiếu.
Những cuộc chuyền hóa thời hiện đại
Trong những cuộc chuyển hóa đang diễn ra hiện nay, người ta thấy rằng công nghệ truyền thông, tầng lớp trung lưu đông hơn, và trình độ giáo dục cao hơn, tất cả đều có ảnh hưởng tới tiến trình dân chủ hóa. Ông nghĩ như thế nào về quá trình dân chủ hóa trong tương lai?
Nhiều nơi trên thế giới vẫn đang trong quá trình chuyển hóa và có những mối nghi ngờ cực kì lớn là liệu những quá trình này có hoàn thành, chí ít nhất là trong một thời gian hợp lí nào đó. Trong 10 năm qua, một phần, nhờ vào sự cải thiện trong lĩnh vực thương mại ở nhiều nước châu Phi và cũng do vai trò ngày càng gia tăng của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới, các nước châu Phi đang chứng kiến thành tích kinh tế được cải thiện và trong một số trường hợp, song hành với hệ thống chính trị tốt hơn. Tuy nhiên, có mối nghi ngờ lớn là liệu có thể để duy trì được xu hướng này trong những nước với khuôn khổ thiết chế vô cùng yếu. Nếu nói đến bài học từ Mỹ Latin cho các nước này thì đấy là phải bắt đầu bằng việc xây dựng khung thiết chế, đấy là ưu tiên cao nhất, vì không có một khuôn khổ thiết chế vững chắc, thì có nguy cơ là những chính sách không đúng hoặc chính sách đúng có thể bị lật ngược, là rất cao. Ở một mức độ nào đó, đây cũng là vấn đề ở Mỹ Latin. Chúng ta không thể phủ nhận rằng đã có những bước thụt lùi, rằng trong một số nước đã có sự tập trung quyền lực, loại bỏ một cách hiệu quả cơ chế kiểm soát và đối trọng, với những hạn chế có lẽ tinh vi, chứ không quá trắng trợn, đối với tự do ngôn luận. Cho nên còn quá sớm để tuyên bố chiến thắng.
Tôi nghĩ rằng chúng ta vẫn còn đang đi trên con đường đầy chông gai và chúng ta không được mất cảnh giác. Tuy nhiên, tôi tin rằng những điều đã đạt được, theo nghĩa sự thức tỉnh của công dân – rằng nhân dân không chỉ biết cách thực hiện các quyền của họ, mà còn biết cả cách hưởng thụ những quyền đó và nhân dân đã có tiến bộ trong việc học chơi trò chơi này, trong khi tôn trọng luật lệ – khó có thể quay trở lại với các những hình thức chính phủ độc đoán hơn hay ít dân chủ hơn, nhưng cám dỗ thì bao giờ cũng có.
Khủng hoảng dân chủ
Trong các chế độ dân chủ tiên tiến, cũng có những vấn đề rất nghiêm trọng. Trong lịch sử, lí tưởng dân chủ, tôi xin nói, chưa bao giờ mạnh như hiện nay. Nhưng nếu bạn hỏi tôi liệu mô hình để vươn tới lí tưởng dân chủ đã đủ mạnh chưa, thì tôi sẽ nói chưa; chưa được như thế, ngay cả ở các nước phát triển. Nhìn xung quanh, ngay cả trong chế độ dân chủ ở Mỹ, tôi thấy có những vấn đề nghiêm trọng; tôi thấy những khu vực ngoại vi, nơi các lí tưởng dân chủ có thể lép vế trước những quyền lợi cá nhân hay ngành nào đối với việc định hình quyền lực chính trị và phá hủy cơ chế ra quyết định. Đây là điều rất đáng lo ngại, và tôi nghĩ rằng cách chế độ dân chủ đang vận hành ở Mỹ hiện nay không tương ứng với lí tưởng dân chủ.
Tư tưởng là có chính quyền của nhân dân, và vì nhân dân. Hiện nay, ai là nhân dân? Đấy là những người có thể gây ảnh hưởng tới kết quả bầu cử bằng cách đóng góp tiền cho các quá trình chính trị ư? Ở Mỹ, đây là việc làm hợp pháp; ở các nước khác, là bất hợp pháp, nhưng ở nước nào thì người ta cũng đóng góp. Đối với tôi, không quan trọng là nó còn hợp pháp ở Mỹ trong bao lâu nữa, đơn giản là tôi cảm thấy rằng nó có hại cho sự lành mạnh của chế độ dân chủ Mỹ, cũng như tôi cảm thấy rằng đấy là hiện tượng tệ hại, như nó đang xảy ra, một cách bất hợp pháp, ở nhiều nước khác trên thế giới, trong đó có Mỹ Latin.
Giúp đỡ quốc tế
Ông có muốn nói thêm về mối quan hệ của ông với Tổng thống Bill Clinton khi ông ta ủng hộ về mặt tài chính để giúp Mexico vượt qua cuộc khủng hoảng giai đoạn 1994-1995?
Tôi được hưởng lợi khi có một người thông minh với tầm nhìn xa trông rộng như Tổng thống Clinton là đối tác của tôi ở Mỹ. Lần đầu tiên, khi tôi nói với ông ta rằng, chúng tôi gặp vấn đề nghiêm trọng, tôi tin rằng cuộc khủng hoảng này không giống như những cuộc khủng hoàng khác. Tôi nói với ông rằng đây không chỉ là vấn đề điều chỉnh tài chính hay tiền tệ; mà có yếu tố hoảng loạn, nhưng nó có thể là một cái gì đó lớn hơn hẳn, nó có thể là khủng hoảng mang tính hệ thống. Ông không có đủ thông tin và ông chưa đưa ra kết luận Ông nói sẽ thảo luận với cố vấn của ông, Bộ trưởng Tài chính Robert Rubin và thứ trưởng, Larry Summers, về vấn đề này. Hai hoặc ba ngày sau ông gọi lại và nói với tôi: “Họ nói rằng ông có thể đúng, và tôi nghĩ ông đúng. Lần này khác. Ông phải làm công việc của mình. Nhưng ông cũng cần sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, bắt đầu với những đối tác chính của ông”. Trong hai ngày, theo nghĩa đen của từ này, ông Clinton đã hiểu chuyện đó và đã sẵn sàng giúp đỡ. Vì thế, có một người như ông làm đối tác là may mắn cực kì to lớn.
Các tác nhân quốc tế có thể góp phần xây dựng nền quản trị dân chủ hay không?
Rõ ràng là, những cú sốc trong lĩnh vực địa chính trị trên thế giới và các sự kiện quốc tế có ảnh hưởng đối với việc dân chủ có thăng tiến hay là không. Không thể phủ nhận rằng công nghệ thông tin có ảnh hưởng đến tốc độ tìm kiếm những sự kiện đang xảy ra trên thế giới; cần phải tính đến điều này và nó có ảnh hưởng đối với diễn biến của các sự kiện. Còn về việc các tổ chức hay thiết chế thúc đẩy dân chủ trên thế giới có thể có một số ảnh hưởng, tôi xin nói, có thể, nhưng nói thẳng là không lớn. Nếu các điều kiện, nguyện vọng, phong trào và ban lãnh đạo ủng hộ dân chủ chưa có, thì chẳng có gì từ bên ngoài có thể tạo ra được thay đổi. Còn nếu điều kiện bên trong có xu hướng kết hợp lại với nhau thì chắc chắn là cộng đồng quốc tế có thể có vai trò tích cực. Tuy nhiên, quan điểm của tôi là vai trò này bao giờ cũng là phụ và thứ yếu, có tính chất bổ sung. Ngoài ra, phải rất thận trọng, bởi vì đôi khi các nỗ lực can thiệp có thể đi ngược lại mục đích của sự nghiệp xây dựng chế độ dân chủ.
Không bao giờ được đánh giá thấp tinh thần dân tộc của bất cứ nước nào. Không phải là tôi quá tin vào chủ nghĩa dân tộc, nhưng nó là thực tế. Chủ nghĩa dân tộc đã được tạo ra trong một số trường hợp vì lí do chính trị hay văn hóa, trong một số trường hợp khác là giả tạo, nhưng là yếu tố thực tế. Tuy nhiên, ngoài ra còn có lịch sử của chủ nghĩa đế quốc, của chủ nghĩa can thiệp, tiêu chuẩn kép, của các chính phủ, một mặt, nói rằng họ đang can thiệp để ủng hộ dân chủ, nhưng đồng thời họ lại giúp đỡ các chế độ độc tài, vì vậy, phải rất thận trọng đối với vấn đề này. Đối với tôi, quan điểm chính là cái gì không được sinh ra từ bên trong thì sẽ không phát triển được. Vì vậy, tôi tin tưởng vào chủ nghĩa quốc tế và hợp tác. Tôi tin rằng phải giúp những nước đang tìm cách làm việc vì tương lai tươi sáng hơn, nhưng không được giúp đỡ trái với nguyện vọng của họ; nhân dân trong nước phải tìm con đường tiến tới dân chủ của riêng mình.
Những mốc chính
Tháng 2 năm 1917: Hiến pháp Mexico, được ban hành trong cuộc Cách mạng Mexico, tạo ra chế độ dân chủ và các quyền xã hội khá rộng lớn.
Tháng 3 năm 1929: Tổng thống mãn nhiệm Plutarco Elias Calles thành lập Partido Nacional Revolucionario (Đảng Cách mạng Quốc gia, hay PNR), một liên minh rộng rãi của các nhà cách mạng, giữ thế thượng phong trong tất cả các cuộc bầu cử ở tất cả các cấp chính quyền. Năm 1946, PNR được thay thế bằng Partido Revolucionario Institucional (Đảng Cách mạng Thể chế hay PRI).
Tháng 9 năm 1939: Những người bảo thủ, phản đối chính sách tả khuynh, bài Công giáo của PRI, thành lập Partido de Accion Nacional (Đảng Hành động Quốc gia hay PAN). Mặc dù, ban đầu PAN chỉ thắng được trong một vài cuộc bầu cử, nhưng nó đã trở thành đảng đối lập lớn nhất trong những thập kỉ sau đó.
Tháng 10 năm 1968: Sau hai tháng diễn ra các cuộc biểu tình của sinh viên đòi tự do ngôn luận và trách nhiệm giải trình của chính phủ, quân đội bắn vào đoàn biểu tình và giết chết một số người biểu tình ở Mexico City.
Tháng 7 năm 1976: Khi sự thù hận trong nội bộ PAN ngăn chặn, không cho đảng này đề cử ứng viên tổng thống, Jose Lopez Portillo của PRI được bầu làm tổng thống mà không gặp trở ngại nào.
Tháng 12 năm 1977: Đảng PRI tiến hành cải cách bầu cử, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc đăng kí của phe đối lập và áp dụng hệ thống đại diện theo tỉ lệ, mang lại nhiều thuận lợi hơn cho các đảng nhỏ.
Tháng 9 năm 1982: Lopez Portillo quốc hữu hóa các ngân hàng, tầng lớp trung lưu kiên quyết phản đối quyết định này.
Tháng 9 năm 1985: Một trận động đất lớn làm rung chuyển Mexico City. Nhiều người chỉ trích phản ứng của chính phủ của đảng PRI vì họ cho là chậm trễ; nhiều tổ chức dân sự mới xuất hiện, họ tiến hành công tác cứu trợ và dịch vụ xã hội.
Tháng 7 năm 1986: Các bằng chứng cho thấy PAN đã thắng trong cuộc bầu cử thống đốc bang Chihuahua, nhưng PRI đã xuyên tạc kết quả. PAN bắt đầu lên tiếng mạnh mẽ, đòi phải tiến hành các cuộc bầu cử một cách công bằng.
Tháng 3 năm 1987: Cuauhtemoc Cardenas, một chính gia tả khuynh thuộc đảng PRI và là con trai của cựu Tổng thống Lazaro Cardenas, kêu gọi dân chủ trong nội bộ đảng nhằm chống lại phái theo đường lối kinh tế tân-tự do trong PRI.
Tháng 10 năm 1987: Cardenas bị loại, Carlos Salinas de Gortari, một nhà kinh tế được đào tạo ở Harvard và là cựu bộ trưởng tài chính và kế hoạch hóa được đề cử làm ứng cử viên tổng thống. Cardenas tung ra chiến dịch tranh tổng thống bên ngoài đảng PRI và chỉ trích chế độ độc tài và chính sách kinh tế tân-tự do của PRI.
Tháng 7 năm 1988: Kết quả bầu cử ban đầu cho thấy PRI có thể bị thua và Cardenas có thể giành được ghế tổng thống, nhưng PRI duy trì kiểm soát sau vụ mất điện trên toàn quốc buộc phải đếm phiếu theo lối thủ công. Mặc dù gian lận là rõ ràng, số phiếu mà ứng viên tổng thống PRI chính thức nhận được đã giảm từ 74% xuống còn 51%; đảng này chỉ giành được 260 trong số 500 ghế ở Hạ viện.
Tháng 12 năm 1988: Salinas nhậm chức tổng thống. Sau khi nhậm chức, ông thúc đẩy những cuộc cải cách kinh tế tự do và các chương trình phúc lợi xã hội. Một số cải cách cần có sự ủng hộ của phe đối lập thì mới tu chính được hiến pháp. Salinas khởi động các cuộc cải cách chính trị hạn chế trong khi đàm phán với PAN: thành lập Ủy ban Bầu cử độc lập, quyền tiếp cận công bằng hơn với các phương tiện truyền thông đại chúng và công nhận Giáo Hội.
Tháng 5 năm 1989: Cardenas và các đồng minh của ông thành lập Partido de la Revolucion Democratica (Đảng Cách mạng Dân chủ, hoặc PRD) cánh tả. Họ bị chính phủ sách nhiễu liên tục trong nhiều năm sau đó.
Tháng 7 năm 1989: PAN giành thắng lợi trong cuộc bầu cử thống đốc bang Baja California Norte, lần đầu tiên đảng đối lập giành được chính quyền bang từ tay PRI.
Tháng 6 năm 1990: Bắt đầu những cuộc đàm phán về Hiệp định Tự do Thương mại khu vực Bắc Mỹ (NAFTA) mà Salinas cổ vũ. Một số nhà lãnh đạo Mỹ khẳng định rằng Hiệp định này phải yêu cầu cải thiện các quyền chính trị và quyền lao động ở Mexico.
Tháng 8 năm 1991: Salinas buộc một số đảng viên PRI giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử thống đốc bang bị cáo buộc là gian lận phải từ chức. Salinas bổ nhiệm người kế bị bằng cách đàm phán với PAN. Người ta tiếp tục làm như thế trong suốt một thập kỉ, tạo điều kiện cho PAN kiểm soát một số bang, nhưng PRI không chịu đàm phán với PRD.
Tháng 1 năm 1994: NAFTA có hiệu lực. Quân đội Giải phóng Dân tộc hay phong trào du kích Zapatista của người bản địa (Ejercito Zapatista de Liberacion Nacional hay EZLN), thường gọi là phong trào Zapatista xuất hiện. Salinas hứa tiến hành cải cách việc tài trợ cho chiến dịch tranh cử và hệ thống bầu cử để đổi lấy việc phe đối lập lên án EZLN.
Tháng 3 năm 1994: Ứng cử viên tổng thống Luis Donaldo Colosio của PRI bị ám sát trong khi đang tiến hành chiến dịch vận động tranh cử. Rất ít nhà lãnh đạo khác của PRI có đủ điều kiện tranh cử; Salinas đưa bộ trưởng ngân sách và kế hoạch hóa và giáo dục, Ernesto Zedillo (đang là người quản lí chiến dịch tranh cử của Colosio) lên làm ứng cử viên mới.
Tháng 8 năm 1994: Zedillo được bầu với 49% số phiếu, trong cuộc bầu cử với tỉ lệ cử tri đi bầu cao chưa từng có. PAN giành được 26% phiếu bầu, còn đảng PRD của Cardenas giành được 17%. Các cuộc bầu cử nói chung được coi là sạch sẽ, mặc dù PRI được nhiều nguồn lực của nhà nước hỗ trợ.
Tháng 9 năm 1994: Tổng thư kí PRI, Jose Francisco Ruiz Massieu, bị ám sát. Cuộc điều tra sau đó cho thấy vụ ám sát là do Raul, em trai của Carlos Salinas, chủ mưu; bản án dành cho Raul đã phá vỡ tiền lệ là các nhân vật quan trọng của PRI bao giờ cũng được miễn tố.
Tháng 12 năm 1994: Khi nhậm chức, Zedillo hứa hẹn sẽ tiến hành cải cách hệ thống bầu cử, sẽ tu chính hiến pháp nhằm tăng cường sự độc lập của ngành tư pháp và bổ nhiệm Fernando Antonio Lozano Gracia của đảng PAN làm Bộ trưởng Tư pháp. Ba tuần sau, giá trị của đồng Peso tuột dốc không phanh, dự trữ ngoại tệ giảm, và chính phủ buộc phải cắt giảm mạnh ngân sách.
Tháng 2 năm 1995: Chính quyền Clinton thu xếp được khoản cho vay là 50 tỉ USD nhằm ổn định nền kinh tế Mexico.
Tháng 3 năm 1995: Quốc hội thành lập ủy ban đa đảng, trong đó có PAN và PRD vốn bị đưa ra rìa, để thương lượng với EZLN.
Tháng 11 năm 1996: Đàm phán về những cuộc cải cách được hứa hẹn trong cuộc bầu cử năm 1994. PRI đơn phương đưa ra nhiều đề xuất cải cách: các đạo luật về phương tiện truyền thông công bằng hơn và luật về tài chính cho các chiến dịch tranh cử, một ủy ban bầu cử độc lập hơn, và bầu cử trực tiếp thị trưởng Mexico City.
Tháng 7 năm 1997: Trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ nói chung là công bằng, PRD và PAN kết hợp với nhau và giành được đa số trong quốc hội, cũng có nghĩa là họ giành được quyền kiểm soát chính sách và chi tiêu. Zedillo mở rộng hợp tác với cả hai đảng. Cuauhtemoc Cardenas được bầu làm thị trưởng Mexico City.
Tháng 8 năm 1997: Chính quyền Zedillo tung ra chương trình xóa đói giảm nghèo lớn, có tên là Chương trình giáo dục, Y tế, và Dinh dưỡng (PROGRESA). Chương trình này được quản lí một cách độc lập, lựa chọn người nhận tài trợ một cách minh bạch và thường xuyên được đem ra đánh giá, khó có thể lèo lái vì mục đích chính trị.
Tháng 7 năm 1998: PRI giành lại chức thống đốc bang Chihuahua từ tay PAN sau khi chọn ứng cử viên thông qua cuộc bầu cử sơ bộ lần đầu tiên được tổ chức ở nước này, giúp cho những người có tư tưởng cải cách trong PRI thuyết phục đảng này tổ chức bầu cử sơ bộ tổng thống vào năm sau.
Tháng 7 năm 2000: ứng cử viên tổng thống của PAN và là thống đốc bang Guanajuato, Vicente Fox đánh bại Cardenas và Francisco Labastida của PRI để trở thành Tổng thống đầu tiên không phải là đảng viên PRI và tổ chức tiền bối của đảng này trong suốt hơn 70 năm qua. Andres Manuel Lopez Obrador, đảng viên ORD được bầu làm thị trưởng Mexico City.
Tháng 8 năm 2000: Tòa án tối cao ban hành giới hạn mang tính bước ngoặt đối với quyền lực của nhánh hành pháp.
Tháng 7 năm 2006: Felipe Calderon đảng viên của PAN thắng sít sao Lopez Obrador trong cuộc bầu tổng thống; PRI đứng thứ ba. Lopez Obrador không chấp nhận kết quả, vì cho là gian lận.
Tháng 7 năm 2012: Enrique Pena Nieto đảng viên PRI được bầu làm tổng thống, đánh bại Lopez Obrador. PAN đứng thứ ba.
Đọc thêm
Aguayo Quezada, Sergio. “Electoral Observation and Democracy in Mexico.” In Electoral Observation and Democratic Transition in Latin America, edited by Kevin J. Middlebrook. Boulder, Colo.: Lynne Rienner, 1998.
Aristegui, Carmen, and Ricardo Trabulsi, eds. Transicion: Conversaciones y Retratos de lo Que se Hizo y se Dejo de Hacer por la Democracia en Mexico [Transition: Conversations and portraits of what was done and what was not done for Mexican democracy]. Mexico City: Random House Mondadori, 2010.
Becerra, Ricardo, Pedro Salazar, and Jose Woldenberg, eds. La Mecanica del Cambio Politico en Mexico: Elecciones, Partidos y Reformas [The mechanics of political change in Mexico: Elections, parties and reforms]. Mexico City: Editorial Aguilar, 2000.
Bruhn, Kathleen, Daniel C. Levy, and Emilio Zebadua. Mexico: The Struggle for Democratic Development. Berkeley: University of California Press, 2006.
Centeno, Miguel Angel. Democracy within Reason: Technocratic Revolution in Mexico. University Park: Pennsylvania State University Press, 1994.
Eisenstadt, Todd A. Courting Democracy in Mexico: Party Strategies and Electoral Institutions. New York: Cambridge University Press, 2004.
Fox, Jonathan. “The Difficult Transition from Clientelism to Citizenship: Lessons from Mexico.” World Politics 46, no. 2 (1994): 151–84.
Greene, Kenneth F. Why Dominant Parties Lose: Mexico’s Democratization in Comparative Perspective. New York: Cambridge University Press, 2007.
Loaeza, Soledad. El Partido Accion Nacional: La Larga Marcha, 1939–1994: Oposicion Leal y Partido de Protesta [The National Action Party: The long march, 1939-1994. Loyal opposition and party of protest]. Mexico City: Fondo de Cultura Economica, 1999.
Lujambio, Alonso. El Poder Compartido: Un Ensayo Sobre la Democratizacion Mexicana [Power shared: An essay on Mexican democratization]. Mexico City: Oceano, 2000.
Magaloni, Beatriz. Voting for Autocracy: Hegemonic Party Survival and Its Demise in Mexico.
Stanford, Calif.: Stanford University Press, 2008.
Mazza, Jacqueline. Don’t Disturb the Neighbors: The United States and Democracy in Mexico, 1980–1995. New York: Routledge, 2002.
Middlebrook, Kevin J., ed. Dilemmas of Political Change in Mexico. Washington, D.C.: Brookings Institution Press, 2004. See especially Ai Camp on the military and Lawson on the media.
Preston, Julia, and Samuel Dillon. Opening Mexico: The Making of a Democracy. New York: Farrar, Straus and Giroux, 2004.
Rios-Figueroa, Julio. “Fragmentation of Power and the Emergence of an Effective Judiciary in Mexico, 1994–2002.” Latin American Politics and Society 49, no. 1 (2007): 31–57.
Selee, Andrew, and Jacqueline Peschard, eds. Mexico’s Democratic Challenges: Politics, Government, and Society. Washington, D.C.: Woodrow Wilson International Center for Scholars; Stanford, Calif.: Stanford University Press, 2010.
Shirk, David A. Mexico’s New Politics: The PAN and Democratic Change. Boulder, Colo.: Lynne Rienner, 2005.
Trejo, Guillermo. Popular Movements in Autocracies: Religion, Repression, and Indigenous Collective Action in Mexico. New York: Cambridge University Press, 2012.