Đẻ sách (kỳ 7)

Chương 4

Người từ lòng bàn tay mà ra

Rất khó kiểm chứng câu thơ đầu “Bàn tay ta làm nên tất cả”, nếu không có câu kế “Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Chúng ta nên đọc lời ai điếu cho hai chữ “tất cả”. Đáng lẽ câu thơ đầu, với hai chữ này đã trở thành lời thách đố mênh mang bất định cho nhân loại sau hậu, nếu không có câu thơ sau. Tiếc! Đây là hai câu thơ không nên vợ nên chồng nhất trong các cặp đôi thơ hay.

Tiếc thôi, tiếc cho chữ nghĩa thôi; đừng nên trách văn nhân, những thư ký viên cho một thời đại nhất định. Nhất là những thư ký viên chỉ định. Xứ sở của hai câu thơ lúc đó đang thiếu cơm, thừa sỏi đá. Do đó, phải công nhận câu thơ kế có tác dụng vĩ đại của nó, cái vĩ đại của một dân tộc xác định. Nhưng, trong rất nhiều trường hợp, vĩ đại của một dân tộc xác định không trùng với vĩ đại của cả nhân loại, cho dù dân tộc xác định đó vĩ đại hay không vĩ đại so với nhân loại. Mệnh đề sông cái này sinh ra nhiều kênh lạch. Về mặt vĩ đại mà xét, điều kiện để cái vĩ đại vi mô trùng lên cái vĩ đại vĩ mô là gì? Trong quan điểm toán học ở lý thuyết tập hợp, nói thế ổn không? Một cái vĩ là tập hợp con của vi lại ánh xạ với một vĩ của vĩ? Lại nữa, làng văn Việt Nam (và của nhiều nước chưa có văn sĩ Nobel) tất nhiên nhảy đông đổng lên hỏi, đại để: “Đấy có là điều văn giới chúng tôi cùng chính phủ và nhân dân chúng tôi quan tâm: ‘Cớ gì nước ta chưa có tác phẩm lớn mang tầm quốc tế (nói thẳng ra chưa ẵm về giải Nô Beo) trong khi bên mặt trận đá bóng đã soán ngôi Á quân Á châu U23?’”

Tuyền những bức xúc hơi bị ấn tượng! Nhưng thôi, pho tiểu thuyết Đẻ Sách còn dài, sẽ có các chương hồi sau hầu tiếp. Cứ để những câu hỏi đó mang hình dấu hỏi ở đây. Nhưng mà, lại còn những câu hỏi cố: Liệu các dấu hỏi để lâu có bị biến thể? Cái hỏi này thõng xuống những dấu chấm than ai oán? Cái hỏi kia kéo lê thành dấu ba chấm bất lực? Phải làm gì với sự hỏi trôi đi theo dấu phẩy vô trách nhiệm? Nguy hiểm làm sao, tệ hại dường nào khi biết bao lời vấn bị dồn tụ thành một dấu chấm kết thúc tất tưởi? Ô là la… Đến chết vì hỏi! Nếu chúng ta muốn Chương 4 Người Từ Lòng Bàn Tay Mà Ra tiếp tục, chỉ có thể bất khả nhượng. Dẫu những câu hỏi không chỉ hỏi cho chính nó – hỏi để hỏi – mà còn những câu hỏi cho sự hỏi – hỏi để sinh tử – thì chúng cũng nên nằm vào số phận Hỏi của nó: Chờ đáp. Hình như trên đời, trong văn chữ cùng ngoài cuộc sống, không một câu hỏi nào vượt qua được số phận Hỏi? (Kể cả câu hỏi chót này!). Là nói theo lý; còn về tình? Việc róng riết đặt các câu hỏi cố, nêu hàng loạt các vấn nạn kiểu “có tao không mầy” tại ngay mở đầu một chương tiểu thuyết hay một đoạn đời nhân mạng thì sẽ không thể được coi là lề lối văn chương, không thể được xem như cận nhân tình. Đó là sự khẳng định hoàn toàn chứ không còn tranh biện nữa; từ lâu lắm rồi, trước khi có Đẻ Sách. Những vấn nạn mang sắc màu văn chương, những câu hỏi ngào ngạt đắc nhân tâm – gọi giản dị là hỏi đẹp – thường không uốn lượn hình câu hỏi, đem vẻ ngoài của mình móc xóc câu chữ, siết họng người đời, trói buộc xã hội. Chân lý của Hỏi thường là chân chất và lương thiện, dù bị nằm trong những cái lắt léo hèn hạ, cái thách đố dơ dởm của chủ nghĩa hình thức. Có hỏi đẹp, mới sinh ra đáp hay. Đó, những câu trả lời một mất một còn, thời hiện đại đã số hóa thành dạng 0 – 1, Yes or No. “Tự do hay là chết?”, “Làm búa hay làm đe?”, “Ra đi hay ở lại?”, “Tháo nhẫn kia ra hay lãnh nhát dao này?”, “Yêu em hay thương mẹ của anh?”… Đó, còn là những cái hỏi suốt đời không chịu số hóa, như “Thơ đến từ đâu”, “Why I Am Not a Christian”… các câu hỏi thiền tới mức luôn luôn nói Không với dấu chấm hỏi. Từ khi mài tay trên bàn lớp học, thậm chí không ít lần tự nguyện xòe hai búp tay non ra lãnh phạt dưới những cây thước lim quyền lực và công lý, Đẻ Sách được dạy rằng, nếu không biết hỏi sẽ không nhận được lời đáp; và tệ hại hơn, sẽ không biết đáp. Có bé nọ bi bô hỏi: “Mẹ ơi, tới bây giờ thì con học nói được rồi, con phải nói cái gì trước hở mẹ?”. Không, không chỉ là câu hài hước, đó còn là triết lý của cái Học và của cái Hỏi. Ở đây, tiếng Việt hình như thú vị hơn tiếng Anh, Pháp, Đức, Úc, Mỹ, Canada, Nga, Tiệp, Hòa Lan – các nước mà Đẻ Sách từng kinh qua thai nghén – ở chỗ trong những chữ vệ tinh quanh chữ mặt trời Học có một chữ rất trái đất, rất con người: Học hỏi.

Ôi, những tháng năm không thể nào quên. Nghĩ lại, ứa nước mắt, bạn ạ! Đẻ Sách và các bạn học đầu đội mũ rơm vàng tươi ngực khăn quàng đỏ rực (dù quần áo vá rách, dẫu bùn dơ đất bẩn nhưng khăn quàng đỏ lúc nào cũng rực một màu nghiêm sạch) và chui xuống những hầm kèo tránh bom Mỹ, dưới ánh đèn dầu mà học mà hỏi. Trong vòng khoảng 40 năm sau, không ít người thuộc thế hệ Đẻ Sách (trong nước gọi tắt 5X) còn sống (để làm nhiều việc trong đó có việc) đến được Mỹ (bằng nhiều cách khác nhau, vô tình hay hữu ý) nghe bài giảng như sau (từng đã có khoảng 40 năm trước):

Điều cần biết đối với sinh viên năm thứ nhất Đại học Yale: Tò mò và thông tri

Con người không thích tò mò. Dân gian thường nói tò mò là tính xấu và thường mang lại hiểm nguy. Các bậc phụ huynh dùng mọi cách để ngăn chặn tính tò mò nơi con trẻ, bởi nó làm cho đời sống trở nên rối rắm, đối diện với hàng loạt những câu hỏi nan giải. Trẻ con – những kẻ đang nỗ lực trưởng thành, những kẻ mà tính tò mò của chúng khiến những lời răn đe của cha mẹ luôn cần tồn tại – được chào đón gia nhập Đại học Yale.

Tại đây, chúng tiếp tục hỏi và cố gắng tìm ra lời đáp cho câu hỏi của chính mình. Dưới đôi mắt của người học, đó chính là lý do người ta cần phải có ngôi trường đại học, nơi mọi thái độ thù nghịch đối với tính tò mò sẽ bị từ khước. (…) Tôi đã nói tò mò là hành động nguy hiểm. Không chỉ vì các hệ quả ngẫu nhiên như bom nguyên tử, mà còn vì nó thực sự là nỗi khát khao chân lý.

Trên thực tế, sự khao khát chân lý xem chừng như là một tình cảm được tôn trọng. Vì có nhiều người đáng kính quả quyết với ta rằng họ đã tìm thấy chân lý; điều ấy nghe như chân lý không có vẻ gì là nguy hiểm. Nhưng trái lại, nó thực sự là điều hiểm nguy. Truy tìm chân lý luôn phải đối diện và đánh đổ các định chế và niềm tin tồn tại lâu đời trong các lãnh vực khoa học, tôn giáo và chính trị. Và người học đã ý thức rằng không thể nào tham gia vào hoạt động ấy nếu đôi khi thiếu vắng sự tranh đấu.

Đối với người học, đặc tính thứ hai tưởng như không liên quan gì đến đặc tính thứ nhất – tính tò mò – nhưng lại gắn bó một cách mật thiết với nó. Đó là sự thúc bách thông tri. Người học bị chi phối bởi một thế lực mạnh mẽ không kém tính tò mò, và thế lực ấy buộc anh ta phải kể lại cho mọi người nghe những gì anh ta đã học được. Tinh thần học hỏi khởi đầu bằng tính tò mò, nhưng kết thúc bằng sự thông tri.

Trong bốn năm học, chúng tôi mong muốn các bạn cùng tham gia hành trình truy tìm chân lý, và chúng tôi sẽ đòi hỏi ở các bạn những gì mà chúng tôi đòi hỏi cho chính bản thân mình, đó là: tính tò mò và sự thông tri. Chúng tôi không muốn đặt các bạn vào khóa học rèn luyện trí tuệ. Chúng tôi chỉ muốn các bạn không được ưng thuận với bất cứ điều gì ngoài toàn bộ sự thật về đề tài khiến bạn quan tâm. Chúng tôi muốn các bạn dồn chúng tôi vào chân tường, vạch mặt và buộc chúng tôi phải thú nhận rằng chúng tôi không biết. Điều này có ghê gớm lắm không? Xin thưa: Không.

Thông tri là một tiến trình hai chiều, và đại học là nơi mà câu hỏi được hỏi và lời đáp được thông tri.” [1]

Trở lại câu thơ suýt thành vĩ đại của nhân loại. Nó chính là lý do thúc đẩy một số người cầm bút vương vào nghiệp ăn tay trong quá trình đẻ ra tác phẩm của mình. “Bàn tay ta mà đã “làm nên tất cả”, thì những bàn tay người ắt cũng vậy. Những tay viết ưa ăn máu thịt nơi tay của đồng loại hồ hởi phấn khởi lao vào công cuộc này, với cao vọng bằng phương tiện tiếp cận lý thú và hợp khẩu vị được Trời phú, sẽ có những đứa con tinh thần chào đời từ họ.

“Thế nào là ‘tất cả’ trong câu thơ ‘Bàn tay ta làm nên tất cả’?”. Lại hỏi! Chạy trời không tránh được những cơn nắng gắt gao của cái hỏi. Đành tạm nhân nhượng một cái hỏi này thôi, vì làm tiêu đề cho hai Hội thảo khoa học văn chương dành cho các nhà văn ăn tay sinh sách của các nước thuộc Thế giới thứ ba. Văn giới những nước thuộc Thế giới thứ nhất và thứ hai ứ chịu ngồi chung hội thảo. Họ xin lỗi: “Dù sao đấy cũng biểu lộ sự kỳ thị vô hại và có phần dễ thương. Chúng tôi bị sốc bởi câu thơ kế. Bài toán cơm áo đã được giải quyết ở các quốc gia chúng tôi từ hai phần ba thế kỷ nay!”. Nhưng sự vắng mặt của các văn sĩ “không cơm áo” chỉ ước lệ. Họ vẫn gởi tham luận, theo dõi bàn thảo của các đồng nghiệp “sỏi đá”. Như vậy, giới nhà văn toàn cầu chính thức hay bán chính thức – vốn tính bản thiện văn nghệ sĩ rỗi hơi hễ thấy cái gì hay thì xen vào – đã bàn đến các đề tài nhằm tìm lời đáp cho các câu hỏi: Bàn tay loài người làm được những điều gì; Liệu có phải “tất cả” hay không? v.v…

Có thể nói, trong giới ăn thịt người viết lách, cánh ăn tay là đoàn kết nhất. Đoàn kết viết. Đoàn kết lách. Đoàn kết vừa viết vừa lách. Viết lách xong xuôi, văn ai người ấy giữ, họ biết bảo nhau để tay… ngồi xuống, “xòe bàn tay, đếm ngón tay” cùng tìm cách ăn tay sao có lợi nhất.

Cũng vì nhiều nguyên nhân… “Tay là nơi dễ xòe khoe, dễ đo đếm nhất. Không khó như với tụi tôi. Ừ thì tất nhiên, các tai nạn xiêm áo trong chữ nghĩa thường xảy ra; và tụi tôi cũng có những trang văn bị phơi ngực trái kiểu Janet Jackson, những bài thơ mặc váy hổng cần quần kiểu Britney Spears.” – Đại diện nhóm văn sĩ ăn bộ phận sinh dục nhanh nhảu tuyên bố, vừa nói vừa ẹo nửa người, môi trên liếm môi dưới. Nghe xong cái điều con nít cũng biết nếu chúng học xong môn giới tính, cả làng văn thiên địa cười xòa. Chê thì ít mà cảm thông cho đám nhà văn gần gụi những cơ phận dễ nhậy cảm và khó xòe khó đếm. Phân hội nhà văn ăn “những cái ấy” đâu như có được hai lần hội thảo. Lần đầu tại một bãi tắm khỏa thân FKK tại Hòa Lan. (Khổ, thì chính Hà Lan đấy ạ; cậu đánh máy nhà cháu có lỗi là lỗi các chỗ khác chứ không ở chữ nhậy cảm như thế trên thân thể chữ nghĩa Việt hải ngoại ta.) Rồi lần sau cả đám tồng ngồng kéo đến một FKK của nước Đức. (Vưng, biết phải gọi là Đức quốc mới đúng đường lối phe ta mà cháu phá lệ chơi xem sao… Hi hi). Nhưng đều bất thành. Lỗi thuộc về các tham dự viên đến từ các nước chậm phát triển, tức các nhà văn “sỏi đá”. Không đủ ăn, thế mà khi đến hiện trường hội thảo, dù quen xơi xực các cái của nợ đó rồi, nhưng nhìn đám ong bướm mông ngực trắng hồng phơi phới nở tưng bừng hoa lá dưới trời hạ nắng đẹp bên dòng sông xanh rờn, “sỏi đá” của các nhà văn “sỏi đá” – dù nam dẫu nữ – cứ triển khai lai láng cả ra. Phần vì ngượng – nhà văn là giống mắc bệnh sĩ diện cao nhất – phần vì “sỏi đá” mải mê làm việc thì mần răng miệng lưỡi, tinh thần đọ lại được. “Không thành công, cũng thành… chim bướm”. Các hội thảo viên an ủi nhau khi ra về. Đẻ Sách kể lại vậy không hề mang ý chê cười các nhà văn thuộc thế giới chậm tiến (nhưng cu hĩm họ khi cần vẫn cứ tiến, lại còn tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc nữa cơ!), mà chỉ để độc giả hiểu cho một điều: tổ chức được một buổi hội thảo đâu có dễ. Thì đấy! Diễn Đàn Tóc, ở Chương 3, đang ngon lành cành đào thế mà sập tiệm cái rụp. Đến chương này, có tóc lông nào hó hé ra đâu. Cái đám văn học èo uột đã rắc rối tơ lại lắm điều tiếng, hễ thò ló ra là toàn văn đàn im lặng, đâu đến lượt thứ văn chương tay chỉ biết múa may.

Hội Văn học Ăn Tay Toàn cầu đáng được vinh danh vì thế! Một nguyên nhân khác đem lại thành công cho giới văn sĩ ăn tay; đó là không hiểu bàn tay nào (chửa chắc CIA đâu nhá!) đưa họ đến với các tổ chức chính trị, cộng đồng và tôn giáo Việt hải ngoại, nhất là Hội người Việt Tỵ nạn tại các thành phố lớn ở Mỹ, Canada, Pháp, Đức quốc, Hòa Lan và Úc, để học hỏi kinh nghiệm tạo dựng, khuyếch trương những buổi hội thảo, mà đáng phục nhứt là biến tí tị tì ti khói hội thảo thành lửa chuyển về quê hương.

Cũng có cách giải thích thế vầy: Vì trong văn hóa dân gian Việt, như ca dao tục ngữ, và trong văn học Việt vấn đề tay, bàn tay, ngón tay được nhắc đến nhiều nhứt. Ừ nhỉ? Thuở Hà Thành đẹp gái tân thời đã có Nguyễn Bính đứng đó tả “Dịu dàng đôi ngón tay tiên / Giữ hờ mép áo làm duyên qua đường”. Hòa bình khai hoang: thơ Hoàng Trung Thông dẫn thượng, khai mở chương sách này. Thơ uýnh Mẽo leo thang ra miền Bắc thảy bom có Lưu Quang Vũ với “Phút chia tay ta chỉ nắm tay mình – Hẳn nhiên! Trai gái Bắc thời đó dứ kẹo cũng đét dám nắm “cái ấy” của nhau! – Điều chưa nói mà bàn tay đã nói / Mình đi rồi hơi ấm còn ở lại / Còn bồi hồi trong những ngón tay ta”. Chia tay nắm tay xong như vậy là để “đi B” (cách gọi BEM của Nam tiến thời đó í mà) chớ không thật phí tay. Đến B rồi, lẹ nhứt là các con ngựa sắt Nga trong đó che chở những chiến binh Việt lâm trận máu sôi lên thịt trào ra mà Hữu Thỉnh vẫn vô tư tâng tẩng “Năm anh em trên một chiếc xe tăng (…) / Như năm ngón tay trên một bàn tay / Đã xung trận cả năm người như một”. Nghe thơ nổ rền hơn pháo tăng, các “năm anh em” bên phía kia chạy re khói có ngòi là phải: Họ sợ thơ chớ chưa hẳn sợ tăng! “Thơ có thép” – thép tăng. Còn ở miền Nam trước 1975 cùng là thơ da vàng văn mũi tẹt tay tí toáy chữ quốc ngữ cả thôi, nay có kể ra e nhiều độc giả nhí hổng biết. Sao? 8X, 9X mà cũng biết thơ bàn tay, thơ ngón tay đến từ các thi sĩ miền Nam à? “Người trở về trên năm ngón chân / Tôi buồn, người bảo có tay nâng / Bàn tay người có đầy năm ngón” – “Không Trung niên Thi sĩ thì ai viết nổi!”“Giỏi! Thế “Bình minh trên những búp tay hồng” là của…” – “Của Đinh Hùng, có treo trên Cây Nêu Thơ Văn Miếu Ngày Thơ Việt Nam lần thứ V Nguyên Tiêu Tết Đinh Hợi 2007 chứ gì!” – “Quá giỏi! Quốc nội giỏi thế, hơn cả hải ngoại rồi!” – “Thưa còn “Ai nhớ ngàn năm một ngón tay” nữa ạ?” – Cái của “Ngựa Trời” K.H. Bùi mới ấn tượng: “một, hai, ba, bốn, năm / người đàn ông đếm đi đếm lại / sao bàn tay thiếu đâu một ngón (chuyên dùng để chỉ trăng)” – “Thế thì cháu cũng tiến cử câu “Chủ nhật làm tay thừa thãi” mà tác giả trẻ Đường Hải Yến là người cùng phố với anh trai của bạn gái người em họ xa bên chồng cháu.” – “Ừ ừ… Thôi đủ rồi.” Sẽ còn nhiều cái tay nữa, khác. Cũng như còn nhiều cái tay khác nữa.

Đặc biệt, khi giao tiếp, Phan Ngọc thường gọi tôi bằng một từ rất thân mật là “ông”. Mỗi khi hứng lên, bàn tay ông lại đập nhẹ vào đùi tôi rồi nói một cụm từ gần như điểm xuyết trong cả buổi nói chuyện: “Thế mới thú ông ạ”. Còn bàn tay ông, thú thật tôi chưa nhìn thấy một bàn tay người đàn ông nào đẹp đến thế. Tất cả các ngón đều thon thả, hình tháp bút, nhỏ nhắn, trắng trẻo. Nội chỉ nhìn bàn tay cũng thấy là quí tướng, nho nhã hơn người. (…) Tôi trộm ngắm hai bàn tay đẹp như tháp bút của ông. Tôi thấy ngón trỏ và ngón tay cái trên bàn tay trái ông mỗi ngày một cháy vàng khè. Ông nói chuyện mà vẫn đốt thuốc liên tục. Qua hình ảnh của ông, tôi thấy người dính đến “vụ án Nhân Văn” cũng không có gì đáng gớm cả.” [2]

Nếu trong chương ăn tay chưa ăn xuể thì ở các chương sau ăn gì bất kể thế nào vẫn có những cánh tay, những bàn tay, những ngón tay thơ thân thương và bất thần rẽ lối câu xé hàng chữ chạy ra chào đón quý bạn. Nói sẵn vậy để quý bạn đỡ bất ngờ trước Tay – cái vật thể năng động nhất, “hồ hởi phấn khởi” nhất của thân thể. Lưỡi miệng, chim bướm gì cũng thua!

Suỵt! Có thích nghe một câu chuyện nội bộ trong dân viết lách ăn thịt người không? Mà thôi, kể ra mang tiếng lắm điều. Không kể thì tiếc, nào có cuốn Đẻ Sách thứ hai mà kể! Có nên hay không nên? Shakespeare ơi ời, to kể or not to kể? Nhưng not to kể, sao thành tiểu thuyết? Nguyên thủy và đương đại, bản chất tiểu thuyết là kể. Hình như Lỗ Tấn bảo vậy! Mà hà tất phải họ Lỗ bảo, tiểu thuyết vẫn cứ là kể. Và còn hơn thế nữa: Là cách kể. Kể cái gì, xét cho cùng, không là trọng. Chuyện đời chỉ ba bảy hai mươi mốt điều thôi, và có tới ba vạn tám ngàn lối kể. Vậy thì kể này…

Trong giới viết xơi thịt người, phe nhà văn ăn lưỡi coi các đồng nghiệp ăn tay là tử thù. Và ngược lại. Tình thế tệ hơn Việt-Mỹ trước khi bỏ cấm vận. Càng hơn cả Hồi giáo và Mỹ xưa và nay và muôn đời sau. Theo quy chế cơ thể học của tạo hóa, đúng ra đấy phải là hai cái đinh ốc liên đới khít khao nhất trong guồng máy người. Nhưng đời đâu chiều lòng Trời. Đời cứ để lời nói đào mả cha việc làm, việc làm chửi ông cố nội lời nói. Trong vô số ngôn ngữ và phương ngữ loài người thì tục ngữ Việt là mợ xăng xái nhất trong việc minh họa, lý giải rồi lại vừa hòa giải vừa gây rối cho mối tương quan bất khả tranh Lưỡi-Tay, Lời nói-Hành động.

Đang ngon lành Miệng nói tay làm”, “Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ”, bỗng trở mặt “Mồm miệng đỡ chân tay”, “Miệng hỏi, tay rứt đùa”. Đểu nhất là kiểu khích bác thầy dùi chui qua lỗ trôn Cái miệng làm khổ cái thân.” Sao, bạn thấy rõ tục ngữ Việt Nam nhà mình hèn chưa: Sợ cái tay nó đục hay sao mà không nói thẳng, phải nói vòng qua cái thân! Hèn hết chỗ nói, khi đem cả kỹ năng đối lập và so sánh của dòng văn học dân gian truyền khẩu ra cúi xuống nâng tay lên làm cha thiên hạ: nào “Vỏ quít dày, móng tay nhọn”, nào “Trăm hay không bằng tay quen”… Thiệt tình, nhân viên thời Bao cấp ở Việt Nam thế kỷ trước cũng không nịnh thủ trưởng đến vậy! Khen riêng tay chân thôi chưa đủ, lại kéo cái miệng cái lưỡi ra một nơi, vùi đạp cho mồm miệng hết đường sống: này là Há miệng chờ sung”; kia là “Miệng quan trôn trẻ” nữa. Ối toàn cầu ơi coi kìa: “Lưỡi không xương nhiều điều lắt léo”. Ngẫm lại, mấy trự lâm nạn Nhân văn – Giai phẩm hay Cách mạng Văn hóa cũng còn sướng chán, đâu có bị đì dí dì dị như bè lũ miệng lưỡi dưới ách đè nén của tục ngữ Việt! Đã hết đâu… Nhãn quan xuề xòa chủ nghĩa, thế giới quan ngắn dài mặc bay của tục ngữ Việt lồ lộ trong câu “Bàn tay có ngón dài ngón ngắn”. Đừng đùa! Không muốn nâng quan điểm hại nhau đâu, nhưng khách quan, lịch sử và biện chứng mà nói câu tục ngữ trên cực phản động. Không nghi ngờ gì, các ngón tay của người Việt Nam chúng mình chính vì nghe câu tục ngữ mà ỷ lại, không chịu phấn đấu vươn lên trong 4.000 năm nay. Đáng trách nữa, chính ngay trong tục ngữ, phương ngữ, ngôn ngữ Việt các mâu thuẫn chất đầy ra đấy, sao không lo suôn sẻ phận mình đi rồi hẵng mong dùng mình trau chuốt chuyện nhân gian. Một bài học đau đớn từ ngôn ngữ truyền thống Việt khiến không ít ngôn ngữ khác nhanh nhẹn học được! Chúng ta nên đồng thanh kiến nghị: Chừng nào tiếng Việt còn chưa viết được chặt chẽ, chính xác và logic một cái đơn kiện cấp huyện tầm cỡ trâu nhà ông ăn cỏ vườn nhà bà, chừng đó chưa thể làm các chuyện vác ngà voi như vụ hòa giải Lưỡi-Tay tày trời mà đến cả tháp Babel cũng phải cúi xuống nhận là nan giải.

À, nói cho công bằng, trong tranh chấp hành động và việc làm có cả chân cẳng dự phần. Nhưng tay phản ứng lẹ hơn chân 4,7 lần trở lên, theo đánh giá của giới văn sĩ ăn tay và ăn chân. Cánh khoa học gia và y khoa thấy vậy đành tuyên bố: Công cuộc nghiên cứu sự khác nhau giữa tốc độ phản xạ của tay và chân con người từ nay thuộc về ngành văn học. Không lạ! Từ khoảng 450 năm nay, khoa học luôn là nơi không bao giờ muốn lộ ra sự mù quáng cực đoan của mình, nhất là sau hai vụ khẳng định hớ hênh có tính lịch sử rằng, mặt trời quay và rằng, chỉ một phần nhỏ (mười phần trăm ngay cả ở những vĩ nhân, hào kiệt) của não người là được dùng đến. Vụ mặt trời quay đã lâu quá lâu, ai mà nhớ nổi trừ lũ chắt chút chít chìn chịt nhà Copernicus. Nhưng vụ đa phần diện tích não vẫn đang ngái ngủ thì các cơ phận khác không thể quên. Miệng lưỡi của giới ngoại giao và đám quan tham nhũng cùng dân buôn nước bọt, chân của những người tỵ nạn chính trị và tỵ nạn không chính trị, tim của bao kẻ yêu nhau chết trong tức tưởi như vợ chồng Lưu Trầm Tư, cặp đôi nhà văn ăn tim – ăn chân, O’Donovan – McAmmond, mớ tóc giả của Nhà thơ-tự-ăn tóc, rồi dương vật âm hộ âm đạo điểm G của những kẻ hủ hóa đồi trụy, v.v… luôn gào lên: “Trừ những cơ phận trên đất Pháp lè phè với 35 tiếng một tuần là trường hợp cá biệt giữa nhân loại hiện đại, tất cả chúng tôi đều phải làm việc vất vả, thời xã hội chủ nghĩa là tám giờ vàng ngọc, thời tư bản là overtime! Không thể nào Tạo hóa bất công đến độ để cả một đống não nằm chơi xơi máu trong suốt mấy trăm ngàn năm tiến hóa của loài người. Hãy chọn đi, một trong hai thành ngữ: Hoặc là ‘Bất công như Tạo hóa!’, hoặc là ‘Mù quáng như khoa học thực nghiệm!’ Không lẽ cả hai?”

Chà, đi hơi bị xa rồi, chúng ta quay về vụ tử thù tử thủ. Hãy nghe các nhà văn ăn lưỡi nói về văn sĩ ăn tay:

“Đã đành như cái lưỡi không xương dễ nhiều đường lắt léo sắc sắc không không – Lạy Chúa, nhầm qua kinh Phật rồi! – nói có nói không. Nhưng cứng cáp uyển chuyển như tay, xương cốt gân thịt da mỡ móng đủ cả thì sự tráo trở từ những cú trở bàn tay lại thành bão tố. Một quả thụi đo ván? Một cái bắt tay nồng ấm? Một cú chém sống tay? Một cái vuốt ve? Ôi kể sao hết tính thời tiết, sự thất thường, mặt giảo hoạt, chất đĩ điếm của bàn tay! (Ngón tay lắm khi đĩ điếm hơn cả đĩ điếm! Đọc chương Ăn Tóc, bạn thấy đấy…). Các tác giả ăn tay, tất nhiên họ phải biết đồng hóa và dị hóa nó bằng tài năng của mình. Ăn gio ăn phân vẫn có thể sinh ra các câu thơ hoa sen, các kịch bản bông hồng. Vấn đề là tài năng. Chúng tôi tôn trọng tay của họ – cũng như lưỡi chúng tôi, như đầu như đít với các đồng nghiệp ăn đầu ăn đít. Tất cả đều là đối tượng văn học. Không có đối tượng xấu đẹp, cũng chẳng có chủ đề hèn sang. (Khổ thân những văn sĩ chứng nhân trong các thời đại bỗng cao to vọt lên, còn chứng nhân thì không sao rặn ra được các sáng tác mang tầm vóc cao to vọt lên ấy!). Chỉ có cách phản ánh, lối sáng tác hèn sang, xấu đẹp. Cuối cùng vẫn là tác phẩm. Cho chúng tôi được dành quyền nghi ngờ tài năng nơi các đồng nghiệp tay. Tại sao không? Có tài năng nào không bị nghi ngờ? Hãy để chúng tôi không phải nâng niu các tác phẩm sinh ra từ thứ tài năng bị nghi ngờ.”

Cuối cùng, thế nào cũng có những độc giả muốn liên hệ Chủ nghĩa Mút (đã bàn kỹ ở cuối Chương 2) với mâu thuẫn Lưỡi-Tay.

Vâng, nhiều kẻ cực đoan và lười nhác tay luôn lăm le nón cối dành cho chủ nghĩa Mút rằng, mi là nguyên nhân thảm họa mà bất kỳ người nào cũng phải chịu: Mối tranh chấp giữa miệng lưỡi và tay chân, giữa ngôn ngữ và hành vi. Sai! Về tiến trình, chủ nghĩa Mút chỉ mới có gần đây với biểu hiện cao vót ở vụ bàn tay Này-bàn tay Kia của nhà văn O’Donovan, và nó chỉ ảnh hưởng trong khoảng thời gian nhất định ở vài lãnh thổ nào đó cho dù thời gian ấy, các lãnh thổ ấy từng làm nên khúc quành kỳ vĩ của cơ thể người. Trong khi đó, mâu thuẫn Lưỡi-Tay, Lời nói-Việc làm đã thuộc về tương hỗ nhị nguyên của nguồn gốc loài người. Khi Chúa phán “Khởi thủy là lời”, Người đã chính thức châm ngòi cho cuộc chiến vĩnh cửu, ngoạn mục và bi hài nhất của nội tạng ở một con người cũng như ở cả loài người. Khoảng 45 ngàn năm trước, lúc chú (hay thím, nhưng chắc là thím) người tiền sử, người hiện đại homo sapiens đầu tiên cất lên một từ, một mệnh đề, một câu nói đầu tiên, chú (thím) đó đã – thay mặt, à không, thay miệng lưỡi và thay tay chân của toàn thể giống loài, không phân biệt nam phụ lão ấu Phi Á Âu Úc Mỹ – chính thức tự đặt tâm hồn và trí tuệ của mình làm mồi cho khối lửa mâu thuẫn lớn nhất đời sống.

“Nguồn gốc ý thức trong cuộc tiến hóa của hệ thần kinh

Ăng-ghen nói trong cuốn Lút-vích Phơi-ơ bác: ‘Vấn đề chủ yếu và căn bản của tất cả các triết lý, đặc biệt là triết lý cận đại, là vấn đề quan hệ giữa tư tưởng và thực tại.’ (…) Ai cũng biết rằng điều kiện ăn, ngủ, hoạt động cơ thể nói chung có ảnh hưởng sâu sắc đến ý thức tư tưởng. Trái lại, tình hình tư tưởng tác động vào khả năng và trạng thái của cơ thể. Nhưng vấn đề là nhân tố nào là nguồn gốc và căn bản. Đó là nội dung chia rẽ các nhà triết học. Một bên thì không phủ định cái ảnh hưởng của vật chất, nhưng lại cho rằng đấy là hiện tượng nông cạn, và xét tới cùng thì tinh thần là nhân tố nguyên thủy và quyết định. Bên kia thì cũng nhận thấy những hiện tượng tinh thần, nhưng vẫn quả quyết rằng vật chất là nguồn gốc và xét tới cùng thì quyết định đời sống tư tưởng. Sau những cuộc tranh luận cực kỳ phức tạp giữa hai phe, kéo dài đến 25 thế kỷ, chủ nghĩa Mác đã đề ra giải pháp khoa học vững chắc (…): Tư tưởng là sản phẩm của vật chất đã đạt tới trình độ tối cao của nó, tức là bộ óc của người ta phản ánh đời sống xã hội của loài người.

Ngôn ngữ là một khí cụ truyền đạt, phát sinh trong những quan hệ công tác, tổ chức, truyền thuật, giữa những người sản xuất. Với cái khí cụ đó, loài người đã có năng lực tạo nên một thế giới ý tưởng phản ánh thế giới thực tại. (…)

Vậy hệ thần kinh không phải là một cái máy giống như những máy mà chúng ta làm. Đặc tính của nó là giữ lại trong cơ cấu hiện tại hình thái tự phát của những cử động trong giai đoạn trước. Nghĩa là quá trình xây dựng hệ thần kinh không phải chỉ là một hiện tượng sắp xếp một số tế bào trong không gian, nó là một quá trình biện chứng lịch sử, trong đó có những bước vọt ‘tổng kết’ những giai đoạn tự phát. Chính tính chất biện chứng đó là cơ sở để giải quyết vấn đề ý thức.” [3]

Trước khi vấn đề Mút được xâu theo chuỗi lý luận trong một hệ tư tưởng, nó đã có vô số thể hiện, đa phần là ngoại hình, cho khối mâu thuẫn Lưỡi-Tay, Lời nói-Việc làm, Ngôn ngữ-Hành vi. Nửa thế kỷ qua, sau vô số thất bại hiện thực, ngôn hành bất hợp tác, chủ nghĩa Mút – thôi mệt quá, úp úp mở mở, đến lúc này xin độc giả cho cởi phăng tấm áo ẩn dụ: chủ nghĩa Marx – đã bị phê phán, nguyền rủa đã đời dưới các vực thẳm của nó và bị lờ tịt đi, phủ nhận sạch trơn về các đỉnh cao của nó. Sự bất vô tư này có ba tên gọi: các triết gia, như Giáo sư Nguyễn Văn Giữa chẳng hạn, thích nói là Cái tếu của chính trị; các chiến sĩ trong phong trào Cánh Phải gọi thẳng là Sự đểu của chính trị; đám đàn ông chơi bời và thẳng ruột dê kêu là Tính điếm của chính trị.

Nhưng để sửa sai cho sự bất vô tư, nếu độc giả nào toan làm ngón tay thứ tư cho bàn tay ba ngón chính trị, thì chớ khờ mà làm ngón tay dư về vấn đề chủ nghĩa Marx ngay giờ cao điểm của mùa hè đỏ lửa Quận Quít trong khi ngót nửa ngàn dân Mít đang bước sang tuần thứ sáu đứng ngồi trước tòa soạn AnNam Weekly đòi tẩy chay bổn báo can tội thân Cộng. Đó là đệ nhị cao trào tại đây, đệ nhất hẳn là vụ mầu kỳ sắc xí bởi ông Trần Lớp chủ tiệm sách phố Polsa mươi năm trước đưa đến cuộc biểu tình vĩ đại suốt 55 ngày đêm (Thua 1 ngày đêm so với các chiến sĩ Điện Biên năm xưa “56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt”), nhưng chắc là thắng về tỷ lệ tham chiến: Có đêm số chiến sĩ Quận Quít lên tới chừng 10 ngàn người, trong khi phía đối phương chỉ là 2 mạng: Trần Lớp và vợ chưa cưới! Nói “chắc là” cho chắc ăn, vì ngay cả Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt chỉ biết

“(…) lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam (Việt Minh) lúc đầu có 48.000, sau tăng cường thêm khoảng 4 đến 10.000 người”; “Quân đội Liên hiệp Pháp (Pháp, Quốc gia Việt Nam, Người Thái và Hmông) là 10.814 người. Sau được tăng viện 4.291 người. Chưa kể khoảng 3.000 PIM (culi).”

chớ hổng có rành số quân lớn nhất trực tiếp xung trận của hai bên trong một đêm ở Điện Biên Phủ là bao nhiêu chục ngàn. Đã có nhiều cách lý giải các cao trào biểu tình đó, nhưng hầu hết chỉ là “ní dải” thôi. Đây mới là lý giải. Lý: Định nghĩa của biểu tình? Biểu tình là một cơ hội dân chủ cho một tập hợp những bàn tay tự do cùng đào một cái hố chung để một tập hợp những cái lưỡi tự do cùng hô vào cái hố đó những ý tưởng, quan niệm bị dồn nén và bất tiện nếu hô ở các chỗ khác hố đó; Giải: Các cuộc biểu tình của dân Mít Quận Quít cốt để hô “Cộng sản có sừng!”

Thôi dẹp, Đẻ Sách đề nghị chúng ta nên tự ra khỏi vụ bàn tay chính trị ba ngón. Không phải bởi cái mặc cảm sợ chính trị chính em. Mà bởi vấn đề ba ngón trên một bàn tay đâu phải là sản phẩm Tạo hóa. Nó nhân tạo. Nên nó phi nhân tính. Vì thế nó ba que xỏ lá. Chẳng thà cứ sáu ngón là một nhẽ. Có tên khoa học và định nghĩa chuyên môn hẳn hoi, lại được Hollywood bảo đảm:

Khi mỗi bàn tay hay bàn chân có 6 ngón thì được gọi là sexdactyly, hexadactyly, hay hexadactylism. Mặc dù thường không đe dọa gì đến đời sống, hay thậm chí đặc biệt ảnh hưởng, đa số người phương Tây phẫu thuật cắt bỏ ngón thừa. Ngón thừa thường là một mô nhỏ; đa phần là có xương mà không có khớp; hiếm khi hoàn thiện đẩy đủ chức năng của một ngón. Hrithik Roshan, một ngôi sao Hollywood, là một ví dụ. Ông có thêm một ngón cái ở bàn tay phải. [4]

Như vậy, cộng đồng người sáu ngón cũng có tiếng nói, có văn học của mình…

Trong truyện ngắn “Nàng Kim Chi sáu ngón” có câu: “Một bàn tay trắng mịn, thuôn dài, đầy đặn, trên có ngón thứ sáu mọc ra, cong queo, vẹo vọ…”, mang một lời nguyền bí ẩn, và luôn bị xa lánh, kỳ thị. (…) Ngón tay ấy đã co giật và teo lại, rụng đi vào cái đêm Nhật – “người con trai đầu tiên và duy nhất đã âu yếm nó và hình như cả thèm khát nó”. Tôi nhớ cái kết nghiệt ngã trong truyện ngắn “Trò chơi tiếp tục” của Đà Linh. Nghiệt ngã không phải ở chỗ có những thứ trò chơi trải qua thời gian, sẽ không còn là trò chơi nữa. Mà là sự cô độc, trơ trọi và trả giá của con người khi quyết sống đúng với mình. Bởi, rất nhiều khi, không phải ngón tay thứ sáu nào cũng có thể co giật và teo lại, rụng đi… [5]

Người ta thường nói “Nhỏ là đẹp”. Chưa hẳn: To cũng là đẹp. Trung Hoa, một ví dụ to đẹp cho chủ nghĩa Mút. Với ví dụ nhỏ và đẹp là văn sĩ ăn tay ưa mút tay David O’Donovan, bạn chỉ biết về mút tay. Người Trung Hoa nâng chủ nghĩa Mút lên mức thượng thừa: Mút chân. Bạn sẽ vỗ đùi tiếc sao trong chương Ăn Chân không bàn đến thuật bó chân của người Tàu cũng như tác dụng từ các búp chân mềm mũm trong lãnh vực làm tình. Đừng, đừng vỗ! Cứ vậy có ngày đùi bạn cũng teo tí tẹo như phụ nữ Trung Hoa xưa. Không! Từ Chương 1, đã có một nhân vật tuyên ngôn rằng, Đẻ Sách không khi nào bó buộc độc giả trong hiệu ứng lồng sắt bởi chủ nghĩa máy móc. Đấy, tại chương ăn tay này đây, bạn vẫn thấy lục phủ ngũ tạng hiển hiện rất bình đẳng, không hề phân biệt kỳ thị, còn hơn ở những cường quốc đa sắc tộc như Mỹ, Canada, Đức, Úc mà phần cường của họ có được nhờ dân di cư và phần quốc thì – tất nhiên! – nhờ dân bản xứ. Hỡi bạn đọc, đừng giấu lòng mình nữa! Những ai hồi hộp đón đọc chương “ăn bộ phận sinh dục” thì giơ tay giơ chân lên xem nào? Ha ha! Nhiều thế, đợi đấy! Tay còn đang te tua ăn chưa xong đây nè, ở đó mà sinh với chả dục…

Trong đấu trường nhị nguyên, cái cặp đôi thường được các triết gia Tây phương, như ông Engels vừa nêu trên, tôn lên tầm đại ca hạng voi là Tinh thần-Vật chất. Bàn tay Này-Bàn tay Kia kiểu nhà văn ăn tim O’Donovan chắc chỉ cỡ hạng gà trống choai. Thế còn cặp Âm-Dương của Đông phương phe ta? Hổ báo chứ chả chơi! “Xơi tái ngay bọn voi Tây trắng nhởn hôi như chuột cống lộp xộp không được tô nước xáo!” – Độc giả nào có máu bài Tây sẽ nhao lên vậy, như một dịp trả thù dân tộc. Này, bạn mà có cung cách tranh luận kiểu sấn sổ vậy là không nắm được thần thái tư duy tao nhã từ cha ông ta rồi. Còn nữa, các triết gia Đông phương đều lấy thuyết khách làm cần câu cơm. Nói mỏi lưỡi mỏi tay giữa đám đông ngồi xếp chân vòng tròn nghển cổ cò hóng từng câu thì họ okay salem; chứ ngồi một mình viết mỏi tay nhăn trán không là phong cách và phương châm của họ. Học trò cửa Khổng sân Trình chỉ rành đấu lưỡi với thầy với bạn thôi. Thế nên, eo ôi, các thuyết Đông phương khó xếp vào mặt bằng văn minh Tây phương lắm lắm! Thế nào cũng có độ vênh. Con gái Trung Hoa, Ấn Độ vẫn thi hoa hậu toàn cầu thế kỷ 21 ngon ơ; triết thuyết Đông phương – cho đến tận lúc hàng chữ này đang chạy ro ro đến tay độc giả – vẫn như các bí hiểm với học giả Tây phương. Nể, mà không phục. Ấy là triết lý ứng xử của Tây đối với Đông. Ngược lại, Đông đối với Tây phục, mà không nể.

Suýt quên! Có cặp đôi Đông-Tây gặp nhau về căn bản nội dung, tuy hình thức khác nhau, thậm chí trái ngược nhau: Nam-Nữ. Một mâu thuẫn nhị nguyên giằng xé nhất và nhân bản nhất con người vừa chịu đựng vừa hân hưởng. Nữ quyền, Đồng tính luyến ái chính là hai đứa con – một đứa nam, một đứa nữ – được ra đời khi xung đột Nam-Nữ vụt nảy sinh và cọ xát kịch liệt. Công cuộc lựa chọn bản thân là đàn ông hay đàn bà, thực ra, mang tính chất sinh tử nhưng rất ôn hòa, và nó không hề giản đơn như bộ môn giới tính ở các đại học vẫn rao giảng. Sự giằng xé làm búa (Nam) hay làm đe (Nữ) thường được thực hiện trong giấc mơ. Lucien Morgan cho rằng, ngay ở những người “thẳng” trong sinh lý chỉ thuộc về một trong hai đối tượng, nhưng về tâm lý thì… cong queo: không thuộc về búa cũng chả là đe. Mà kết hợp cả hai; và một trong hai đối tượng búa-đe vượt trội lên. Điều thú vị, sự tương đồng giữa búa-đe lại khống chế được sự khác biệt. Dích dắc ở chỗ nếu ai có tâm lý trưởng thành về giới tính sẽ tự phân biệt được sự giống nhau và khác nhau của đe và búa. Sao? Độc giả Đẻ Sách nghe chắc thấy mệt, muốn vỡ cả đe/búa của mình? Hí hí… Đã hết đâu! Ấy là với người “thẳng” đó. Với ai có búa-đe “nghiêng” hoặc “queo” thì mệt nữa. Búa-đe ở nhiều vị còn không hình thù, vị trí và cấu tạo riêng biệt. Nhiều búa thích đe choảng lên. Lại có đe-búa là một khối luôn, rèn dập nội tại. Vân vân và vân vân… Ô là la… Sợ quá, qua gam khác cho rồi!

Đồng tính luyến ái không phải là một sự tự lựa chọn

Không ai chọn sở thích tình dục của họ, hoặc chọn phái tính đối tượng thương yêu và quan hệ tình dục. Khuynh hướng tình dục của tất cả mọi người được sinh học ấn định qua di truyền và biểu sinh (genetics và epigenetics). Trong vài tuần đầu tiên của sự phát triển, tất cả những bào thai là nữ, đó là lý do chúng ta đều sinh ra với những mô vú và núm vú. Phải đến khoảng tuần thứ 6, bào thai với nhiễm sắc thể (chromosome) nam Y mới thành hình tinh hoàn, sản xuất hormone testosterone. Khoảng tuần thứ 8 là khi testosterone được phát hành, nó nam tính hóa cơ thể, gồm một phần của não gọi là hypothalamus, đây là vùng kiểm soát một phần khuynh hướng phái tính nào chúng ta sẽ bị thu hút về tình dục. Hypothalamus tiếp xúc với testosterone càng nhiều bao nhiêu, người (nam) sẽ càng hướng sang phái đối lập (phụ nữ) để bị thu hút càng nhiều. Đôi khi một thai nhi nam chỉ sản xuất đủ testosterone để nam tính hóa cơ thể, nhưng không đủ để tác động vào não như trên; hoặc não của nó không hấp thụ đủ testosterone để làm cho nó hoàn toàn sẽ có khuynh hướng tình dục hướng tới người khác giới (heterosexual).

Quá trình phát triển của thai nhi thì không bao giờ chính xác trăm phần trăm; thế nên đồng tính luyến ái và lưỡng tính có thể xảy ra, và chỉ đơn giản có nguyên nhân là sự phát triển nói trên không xảy ra chính xác như thế. [6]

Có những con người cụ thể nào đó vượt thắng được lò lửa chiến tranh Lưỡi-Tay không? Có. Một chữ Có hơi rụt rè, không dấu chấm than đi sau. (Rụt rè là bởi số lượng ít ỏi đến mức lân cận số 0 về cả hai phía âm dương. Không dấu chấm than là nói lên đức khiêm cung của các nhân vật liên hệ.) Đó là các bậc chân tu, những vị hóa thánh. Đừng nhầm rằng ở các quý nhân đó Lưỡi miệng và Chân tay không cãi lộn? Ngược lại, ở họ tranh luận, bàn cãi còn dữ dằn dằng dai hơn chúng ta tưởng. Nhưng khác người thường, với giới tu thánh, mâu thuẫn Lưỡi-Tay được xử lý bằng Ngôn ngữ, và chỉ bằng Ngôn ngữ mà thôi. Những gì ngoài Ngôn ngữ đều phải đi chỗ khác chơi để bậc chân tu thành chí thánh. Cuộc chiến của Ngôn ngữ nhờ thế hóa thành một cuộc chiến đẹp nhất, nhân đạo nhất và cũng thần thánh nhất mà con người có thể vươn tới. Ôi, đẹp sao khi loài người chỉ có duy nhất một thứ vũ khí: Ngôn ngữ!

Giải lãnh thổ hóa và ngôn ngữ và miệng, lưỡi và răng!

Giải lãnh thổ hóa (deterritorialization) là khái niệm gắn liền với xu hướng toàn cầu hóa được các nhà văn hóa cũng như văn học bàn luận rất nhiều trong một, hai thập niên qua. Nhưng giải lãnh thổ hóa là gì? N. G. Canclini đưa ra một định nghĩa rộng và được đồng tình: đó là “sự đánh mất mối quan hệ tự nhiên giữa văn hóa và lãnh thổ địa lý cũng như xã hội”. Người đầu tiên nêu lên khái niệm giải lãnh thổ hóa là hai triết gia Pháp G. Deleuze và F. Guattari trong cuốn Anti-Oedipus, 1972 và đặc biệt trong cuốn Kafka: Tiến tới một nền văn học nhỏ/phụ (Kafka: Pour une littérature mineure), 1975. Ở khía cạnh nào đó, giải lãnh thổ hóa là số mệnh của con người: hầu như không ai là không giải lãnh thổ hoá ngôn ngữ và không bị ngôn ngữ giải lãnh thổ hóa.

Deleuze và Guattari viết: “Giàu hay nghèo, ngôn ngữ nào cũng ám chỉ một sự giải lãnh thổ hóa của miệng, lưỡi và răng. Miệng, lưỡi và răng tìm thấy lãnh thổ đầu tiên của chúng ở thực phẩm. Để phát âm, miệng, lưỡi và răng giải lãnh thổ hóa. Như vậy, đã có khúc gãy giữa ăn và nói, hơn nữa, dưới mọi hình thức, giữa ăn và viết. Không còn hoài nghi gì nữa, viết trong khi ăn vẫn dễ hơn là nói trong khi ăn nhiều, nhưng viết lại có thể đi xa hơn trong việc chuyển hoá chữ vào những điều có thể cạnh tranh với thực phẩm. Một khúc gãy giữa nội dung và sự diễn tả. Để nói, và nhất là, để viết, là nhịn đói.” Một số nhà phân tâm học cũng đồng ý vậy. [7]

[Mở ngoặc vuông: Báo chí Việt Nam và thế giới ba, bốn chục năm trước thì thôi cho qua, khỏi đính chính, nhưng ngay bây giờ báo chí thế giới – hên quá dường như rất hiếm báo Việt Nam trừ các ngày lễ lớn – làm ơn ngưng xài các chữ “chiến tranh thần thánh” với những chuyện gây lộn giữa Hoa Kỳ và Trung Đông cho Đẻ Sách được nhờ. Giời cao đất dày ơi! Lạy thánh Allah, vái Ngài Bồ Tát! Không có trận chiến nào với sự hiện diện của súng đạn gươm giáo – tính luôn cả cuốc thuổng gậy gộc – được coi là thần thánh, dầu từ phe nào mặc lòng. Kể luôn cả chống ngoại xâm. Ừa thì chống ngoại xâm có cái chánh nghĩa của nó. Nhưng chánh nghĩa là chánh nghĩa. Chánh nghĩa không là thần thánh. (Mở ngoặc cong: Còn thần thánh có là chánh nghĩa hay không, đó là chuyện không nhỏ. Chắc phải qua Đẻ Sách tập 2 mới bàn nổi. Nhưng không dám hứa ẩu, vì chưa biết vụ “Thần thánh có là chánh nghĩa hay không?” cần cho vào chương ăn gì mới xứng. Ăn những chỗ nhạy cảm hay dơ dáy ư, nhất định không được. Phạm thượng chết! Động đến chánh nghĩa đâu có đơn giản; quốc gia hay cộng sản, Hồi giáo hay Kitô ai ai cũng lăm le giành nó về mình như đàn bà đòi phần thực. Dính đến thần thánh càng không giản đơn. Cả thân thể có mỗi một cái trái tim ăn kiểu gì cũng trúng thì bị xơi ngay từ chương đầu mất rồi. A, chắc sẽ phải ăn gan quá! May ra đúng. Thánh nhơn, chánh nghĩa đâu cần tài ba đức độ hơn người? Hình như cứ kiên gan, nhẫn nại là thành thánh, là chánh danh? Mà thôi, đến Tập 2 hẵng hay! Đang ăn tay chưa xong nổi đây nè! Gạo – ý lộn – gan không ăn còn đó. Đóng ngoặc cong.) Cẩn tắc bà phú nông đi tiểu đêm đông tháng củ mật, đóng luôn cả ngoặc vuông].

Bằng cách đó, các bậc thánh nhân đã an tọa trong hạt nhân của cấu trúc xã hội, và giữ cho loài người chỉ có thể bị chao đảo bởi các cuộc chiến Cơ bắp mà vẫn còn nhân tính, không bị văng ra ngoài quỹ đạo người đến mức trở về với muôn thú hoang dã, thời kỳ chưa có Ngôn ngữ.

(Lại thích mở thêm cái ngoặc cong nữa… Nhanh thôi, đá đểu chàng cao bồi Yankee một cú, lâu chưa có dịp uýnh Mỹ chơi. Bất đáo chửi Mẽo phi trí thức (Tây phương). Chửi này: Huê Kỳ đận ấy phải nói là quá cao ngạo khi răn đe và rồi thực thi hỏa lực không quân B52 hòng đưa miền Bắc Việt Nam về thời kỳ đồ đá. Thêm nữa họ bị thua trận còn tại bởi ứ biết dùng vũ khí từ ngữ. Nếu như tổng thống Johnson rành văn chương, thay các chữ “thời kỳ đồ đá” bằng “thời kỳ chưa có ngôn ngữ” ắt đã chưa thể khiến đồng bào và chiến sĩ cả nước ta dạo đó điên tiết đến vậy. Nào, tưởng tượng lại xem: “Sức mạnh vô song của Không lực Huê Kỳ sẽ dễ dàng chuyển hóa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ chưa có ngôn ngữ!”. Ô hô! Hay, hay đến thế là cùng! Tiên sư anh Johnson! Thế nào cũng khối vị thuộc phe chủ hòa trong nội bộ Đảng ta, kéo theo nhiều bác quần chúng ấu trĩ, thêm gần hết mấy chú thím giới văn nghệ sĩ cùng cả tập đoàn Xét lại chống Đảng tha hồ khó hiểu và lăn tăn trong khi bảo vệ lập trường ứ dám uýnh Mẽo đến cùng của mình.)

“Nhà nước vô sản phải nuôi lớn hàng ngàn ‘thợ máy văn hóa’ ưu tú, các ‘kỹ sư tâm hồn’” – J. Stalin nói với một số nhà văn Liên Xô, được M. Gorky trích dẫn tại Đại hội Nhà văn, 1934.

“Trong một xã hội tự do, nghệ thuật không phải là một thứ vũ khí. Nghệ sĩ không phải là kỹ sư tâm hồn.” – John F. Kennedy, diễn văn, Amherst College (Massachusetts) 26/10/1963 [8]

[1] Co rút từ Edmund S. Morgan; Cao Hùng Lynh dịch, Saturday Review 23/1/1960, talawas.org 6/3/2007

[2] Rút gọn Hữu Đạt; “Phó giáo sư Phan Ngọc: Sự uyên bác và tài hoa”, vanhoanghean.vn 23/4/2013

[3] Trần Đức Thảo; Tập San Đại Học Sư Phạm số 1 – 1955, diendan.org

[4] Xem vi.wikipedia.org, mục Polydactyly

[5] Trần Tuấn; “Đà Linh, trò chơi tiếp tục…”, báo Tiền Phong cuối tuần, phongdiep.net 14/10/2008

[6] Lê Dọn Bàn; Chú thích trong bản dịch “Tại sao tôi không là người Kitô?”, Bertrand Russell, chuyendaudau.blogspot.ca 28/5/2009

[7] Rút ngắn theo Nguyễn Hưng Quốc; “Giải lãnh thổ hoá trong văn học Việt Nam”, tienve.org 26/9/2008

[8] Xem vanviet.info 20/6/2017

Comments are closed.