Mấy kỷ niệm nhỏ với nhà thơ chân quê Nguyễn Bính

Hà Nhật

Lúc ấy tôi đang học lớp Đệ Nhị (cũng hơi tương đương lớp 11 bây giờ). Một buổi chiều, đang ngồi trên gác ngôi nhà ở phố Hàng Gà, tôi bỗng nghe cậu em từ dưới nhà chạy lên gọi: Anh xuống, có ông nào tìm “ông Lương Duy Cán”. Tôi khá ngạc nhiên, rồi càng ngạc nhiên hơn khi được trao một cái thư có in tiêu đề báo Trăm Hoa.

Nội dung của cái thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng đại khái “Mời anh thu xếp thời gian đến toà soạn báo để trao đổi về thơ”.

Thích quá.

Chiều hôm sau, tôi đạp xe đến ngay tòa soạn báo, trên phố Lê Văn Hưu.

Gặp ngay nhà thơ Nguyễn Bính. Tôi đã rất ngạc nhiên.

Từ lâu tôi đã đọc nhiều thơ Nguyễn Bính, mê những câu như từ gan ruột:

Em ơi em ở lại nhà

Vườn dâu em hái mẹ già em thương

Mẹ già một nắng hai sương

Chị đi một bước trăm đường xót xa

Chị giờ sống cũng bằng không

Coi như chị đã ngang sông đắm đò

Từ những câu thơ, tôi hình dung một Nguyễn Bính dong dỏng, khuôn mặt thư sinh trắng trẻo.

Ngược hẳn lại. Tuy vậy, tôi không thất vọng, bởi cảm giác gặp được một nhà thơ nổi tiếng mà mình yêu quý là quý giá lắm rồi.

(Có lần Nguyễn Bính kể với tôi, giọng hài hước như một chuyện đùa. Lúc ấy nhà thơ trẻ nổi tiếng, mới từ Bắc vào Sài Gòn, được mời đến thăm nhà một phụ nữ Sài Gòn. “Vừa nhìn thấy nhau, cả hai bên đều ngượng, bởi vì cả hai đều… xấu!”)

Rồi Trăm Hoa đăng thơ tôi.

Anh Bính còn chấm giải nhất cho tôi về bản dịch bài thơ Nguyên tiêu.

Quà tặng là một quyển sổ tay được anh chép nguyên văn vài thơ chữ Hán.

Thật ra lúc này tờ báo đã thoái trào, số báo phát hành không đủ nuôi sống nó.

Báo có lúc phải đình bản một thời gian. Rồi báo sống lại, không còn theo kiểu in thành quyển, mà là báo khổ lớn, cỡ giấy A1, nghĩa là bằng nửa tờ báo hàng ngày.

Mấy số đầu của tờ báo có số người mua cũng khá. Mặt mày Nguyễn Bính những ngày ấy khá rạng rỡ. Nhiều người đến toà soạn chuyện trò: Đoàn Giỏi, Phan Vũ, Trần Lê Văn, Hữu Loan, Yến Lan, Tô Hoài…

Nhà văn Trúc Đường (tức Nguyễn Mạnh Phác), anh ruột Nguyễn Bính đứng tên chủ nhiệm báo, hầu như ngày nào cũng ghé qua.

Sau này tình cờ tôi biết rằng, để góp phần cho tờ báo sống lại, một cô gái Hà Nội đã bán một thứ rất quý của mình: cây đàn violon.

Rồi cô gái ấy đến ở chung. Kết quả là sự ra đời của một cậu bé bụ bẫm, trắng trẻo.

Tôi nhớ một bữa ăn được dọn ngay tại toà báo, chỉ có mấy người: anh Trúc Đường cùng con gái, nhà thơ Trần Lê Văn, Nguyễn Cần Mẫn và tôi. Anh Bính coi bữa ăn như một tiệc cưới giản dị trong nhà.

Giờ vui ngắn chẳng tày gang.

Một cơn bão lớn đà tràn qua bầu trời của văn học nghệ thuật Việt Nam. Cùng với báo Nhân Văn và các thứ Giai phẩm, mọi thứ báo chí “phi vô sản” và “phản động” đều bị dẹp bỏ.

Anh Nguyễn Bính, từ một cán bộ miền Nam tập kết, đã không còn gì nữa, chỉ là một anh dân thường, không nhà, không lương! Không một khoản thu nhập nào.

Rồi người vợ tình cờ (người đã bán cây đàn violon) cũng lặng lẽ ra đi.

Có lẽ cũng nên nhớ lại: trước khi làm báo Trăm Hoa, thơ Nguyễn Bính thường được đăng báo Nhân Dân, trong đó có một bài thơ khá dài: Gửi người vợ Miền Nam.

Nhớ có một lần, cùng Nguyễn Bính đạp xe qua một cửa hàng mậu dịch, tôi nói với anh Bính:

– Em có một tứ thơ hay: một người cha, đang sống ở Hà Nội, đi ngang qua một cửa hàng, nhìn thấy bán áo trẻ con, muốn mua một cái áo, không biết làm sao để gửi cho con đang ở miền Nam…

Mặt anh Bính tươi lên:

– Tứ thơ hay, nhưng cậu chưa vợ, chưa con, làm sao viết được. Để đó cho tớ.

Thế là sau đó, Nguyễn Bính có bài thơ:

Ngày chủ nhật ba thường đi dạo

Ngắm những hàng bán áo trẻ con

Lòng ba không khỏi u buồn

Ngắm từng chiếc áo nhớ con vô cùng

Lũ chúng nó ngăn sông cản núi

Sau đó, thấy bài thơ của Nguyễn Bính trên báo, tôi rất vui, thấy anh nói đúng.

Phải nói rằng, quan hệ với Nguyễn Bính, không phải ai cũng hoàn toàn thoải mái. Nhiều người không thích anh. Tôi biết vậy nhưng kệ, không gì phải băn khoăn.

Có lẽ tôi cũng cần kể khổ một chút về mình. Trong thời gian gắn bó với anh Nguyễn Bính, rồi sau đó còn quen thân Lê Đạt, Trần Dần, nhất là bạn “nối khố” với Phùng Quán, tôi bị nhà trường đột ngột cắt học bổng! (Trong khi học bổng được cấp trăm phần trăm cho mọi người)

Tôi biết anh Nguyễn Bính có những ngày đúng là khốn đốn.

Nhưng tôi cũng đang rất khốn đốn. May mà tôi qua được nhờ lòng tốt của bạn bè. Tôi nhớ những chiều cuối tuần, tôi với Quán hai thằng mua đĩa cơm lao động, một đĩa dưa cải chua, còn nước mắm thì… vô tư!

Tôi về dạy học ở Nghệ An, rồi Quảng Bình.

Từ xa tôi chỉ nghe nói Nguyễn Bính đã về quê ở Nam Định. Anh về đó là phải. Hà Nội không còn có chỗ cho anh.

Đến năm 1966 thì tôi nghe tin Nguyễn Bính mất, mà mất đúng vào một chiều cuối năm, ngay trước Tết Nguyên đán!

Đúng như anh Trần Lê Văn nói, sau anh Nguyễn Bính là “còn nguyên vẹn cả mùa xuân”.

Chắc có những chuyện rất buồn, rất đau! Tôi có biết nhưng không thể nói, không muốn nói, không dám nói.

Cho đến nay tôi cứ nghĩ: trong nền thơ Việt Nam, có nhà thơ nào như Nguyễn Bính không nhỉ? Không! Ông không chỉ là một nhà thơ Việt Nam, ông còn là một người nhà quê Việt Nam làm thơ. Thơ Nguyễn Bính không thể lẫn với thơ ai. Không ai có thể có được thứ thơ như thơ Nguyễn Bính. Thơ Nguyễn Bính là thơ của người nhà quê Việt Nam, người nhà quê của vùng đất Sơn Nam Hạ.

Học không hết bậc tiểu học, mẹ mất sớm, phải ở nhờ nhà cậu, được cậu (thân phụ nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn) nuôi và dạy chữ Hán, Nguyễn Bính đã làm và in đến mười mấy tập thơ: Lỡ bước sang ngang, Mười hai bến nước, Mây Tần, Người con gái ở lầu hoa

Có ai được thế không?

Có ai viết được những câu thơ như thế này:

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi

Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn

Hai người sống giữa cô đơn

Hình như nàng có nỗi buồn giống tôi

Bảo rằng cách trở đò giang

Không sang vì chẳng đường sang đã đành

Nhưng đây chỉ một đầu đình

Có xa xôi mấy mà tình xa xôi

Anh đi đó anh về đâu

Cánh buồm nâu cánh buồm nâu cánh buồm

Hôm qua em đi tỉnh về

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều

Nhưng, nhà thơ Nguyễn Du đã nói:

Có tài mà cậy chi tài

Chữ tài liền với chữ tai một vần

Đúng thế chăng?

Comments are closed.