Quán chữ

Truyện Ngộ Không Phí Ngọc Hùng

Khươm mươi niên trước, từ Hà Nội về nơi chôn nhau cắt rốn làng Thượng Tầm tỉnh Thái Bình. Qua bến phà Tân Đệ, dòm dỏ quán xá nghèo nàn hai bên đường treo nhăm bảng hiệu chữ viết nguệch ngọac: Phở cơm hay Phở móng bò.

Thế là hóng hớt tới phở cơm nguội ở Sài Gòn 50 năm trước:

“… Ngày đó, bà Dậu luôn luôn ân cần với những khách quen, đặc biệt là văn nhân nghệ sĩ. Biết cha đẻ tiểu thuyết Loan Mắt Nhung, Nguyễn Thụy Long, mỗi khi ăn phở ưa trộn thêm chén cơm nguội khi tô phở đã vơi, bà Dậu tự động mang chén cơm nguội, kèm thêm chén nước lèo cho nhà văn Trâu nước ăn khỏe này…”.

Còn phở móng bò, lọ mọ vào Đại Nam quốc âm tự vị, hay Việt Nam tự điển chưa có món này. Ngày là lá tháng là mây thả rong chữ nghĩa theo Trần Đăng Khoa bén mảng tới Chùa Đàn của cụ Nguyễn Tuân. Ông có tới chùa hay không nào ai hay biết. Nhưng qua lối mòn xưa cũ chùa phải có cây đa nên ông làm thơ Ngoài thềm rơi cái đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêngÔng bị cụ Nguyễn mắng chữ lỏng lại hay nói chữ: lá rơi nghiêng. Bởi nhẽ Chùa Đàn với cây bạch đàn, tác phẩm cuối cùng của cụ đâu có cây đa. Để lưu danh thiên cổ, cụ “bịa” ra chùa không thờ Phật, thờ thánh, chỉ thờ “cây đàn ma”. Cây bạch đàn cụ cũng “bịa” nốt vì chỉ có cây gạo. Mà cây gạo hoa đỏ, đỏ cay cú, do đạo diễn phim Mê Thảo dựng lên ở ấp Mê Thảo nên… không có thật.

Vào miền Nam, năm ngày bảy tật với tật sính chữ lại sa đà tới bánh không cẳng sao gọi… bánh bò? Vì ngại cụ Nguyễn mắng chữ lỏng, nên dựa dẫm vào Huỳnh Tịnh Của ghi trong từ điển: bánh đổ vào chén, trông giống vú con bò. Rút gọn thành bánh bò. Sau khi túm tó được chữ là nghĩa rồi nhưng vẫn bát nháo với… chữ lỏng là nghĩa lý gì. Chưa đến đường cao tốc Biên Hòa, xe chuyên chở chữ nghĩa bò lổm ngổm như cua bò. Hết phở cơm nguội, phở móng bò, tới chữ lỏng chữ đặc, đến cây bạch đàn, cây gạo… Và còn nơi chốn nào để cỏ hoa lạc lối với chữ nghĩa nữa đây.

***

Về Sài Gòn, nhè khi con tì con vị đang hâm hực với phở, va vào mắt bảng hiệu Phở xào Bắc Hải ở đường Nguyễn Du. Thế là ngộ chữ tôi són chữ đến cụ Ngộ Không qua Phở thiên biên cổ sự: “Phở xào Nghi Xuân ở phố Mã Vũ nay là phố Hàng Quạt”. Bèn lững thững bước vào. Tu chùa chẳng bằng tu nhà ăn ở thật thà mới là chân tu: Lý sự gì tôi dông dài với những chuyện bịa tạc trên? Lý do vì quán chữ có thật, vì quán nằm trên đường Nguyễn Du có hàng me, còn lá bay xiên hay không tôi không biết.

Mới bước vào, quán có vẻ vắng như chùa bà Đanh vì bàn ghế lọng cọng, khép nép, ngượng nghịu sao ấy. Như ở đất tạm dung, đến giờ trưa, loáng một cái đã thấy chật mắt, vì vậy quán vắng người nhưng lại đông khách, vì chỉ có dăm bàn. Tôi tự hỏi chẳng biết quán chán người hay người chán quán, có lẽ cùng chán nhau chăng…

Một chút e dè len lén chui vào não trạng hay là quán không ngon. Khi không ngộ chữ tôi trơ mắt ếch làm như dòm dỏ thấy cụ Tản Đà ngồi đâu đó trong quán, cụ đang dài hơi dày chữ tụng: “Đồ ăn ngon, chỗ ngồi ăn không ngon, người ngồi ăn không ngon. Không ngon! Đồ ăn ngon, chỗ ngồi ăn ngon, người ngồi ăn không ngon. Không ngon! Đồ ăn ngon, người ngồi ăn ngon, chỗ ngồi ăn không ngon. Không ngon”.

Vừa lúc có ông khách dáng người phẳng lặng, hẻo mọn, trang diện hầm hố thò đầu vào quán, khách mắt đảo tít như lạc rang nhìn quanh, bàn tôi còn dư một chỗ, cậu phục vụ nhìn tôi ra ý dò hỏi. Mới gọi đĩa phở áp chảo 20 ngàn còn để đó. Tôi dòm ông khách kỹ hơn, trông cũng ngon lành, đeo kính trắng, mắt tinh quái, dáng đi lụ khụ kỳ cổ, lại có tạng “làm ít ly” y một lít in hịt cụ Ngộ nào đấy, bụng thầm bảo dạ: Một là tôi đang ngồi đồng kiểu “Tôi một bữa ngồi yên như bàn ghế” (thơ Cao Đông Khánh). Hai là “Đồ ăn ngon, người ngồi ăn ngon, chỗ ngồi ăn không ngon. Không ngon”. Bèn gật

Khách gật gù, lừng khừng ngồi xuống. Tôi ngộ ra ngay người Bắc hôm nay thiếu vắng hai chữ “cám ơn”. Từ lâu hai chữ cám ơn là tử ngữ của người Hà Nội. Qua khuôn mặt phong trần quán có góc cạnh nham cổ, với cung cách ngồi dai quai nát để kiếm chuyện (xem tr 6). Tôi nhẩm chừng khách là kẻ sĩ Bắc Hà hóa kiếp thành Bắc kỳ 54 như tôi đây. Y như rằng, khách liếc thực đơn, buông xả một mảng chữ trời ơi đất hỡi để thành chuyện, để ngộ chữ tôi có bài tạp bút Quán chữ này:

– Cho tôi một đĩa chữ xào giòn.

Tôi ngớ ra, hay nghe chữ tác đánh chữ tộ. Thế nhưng không, vì cũng như tôi, cậu phục vụ nghe rồi mặt đụt thấy rõ. Khách lặp lại câu nói. Lần này thong thả từng chữ một. “Cho-tôi-một-đĩa-chữ-xào-giòn”. Làm như sợ ai nghe thấy, cậu ta hỏi nhỏ: “Đĩa gì ạ”. “Cho tôi một đĩa chữ xào giòn”. “Đĩa chữ?”, cậu hỏi tiếp. “Cho. Tôi. Một. Đĩa. Chữ. Xào. Giòn”. Ông dằn từng chữ (với từng dấu chấm). Đến đây, ông nhỏ nhẹ hơn: “Tôi nói tiếng Việt chứ có nói tiếng Ma-rốc đâu”. Tiếp, ông khách giọng ngao ngán. “Tôi biết quán cậu làm quái gì có món chữ xào giòn”. Và ông Bắc kỳ 54 thở ra như tiếng thở dài.

– Thôi, cho tôi bát phở tái chần với hành chần vậy.

Cậu phục vụ vừa quay đi, ông gọi giật trở lại:

– Tái chần với hành chần. Không phải tái trần, hành trần.

Buổi sáng bỗng dưng trở nên bí rị bởi câu nói của ông. Vẫn chưa xong, ông nhìn quanh, mắt dừng lại ở mấy món ăn kèm theo hình ảnh, chữ nghĩa “khuyến mãi” treo trên tường: phở xào giòn, xào mềm, phở áp chảo khô, áp chảo nước… Ông lậu bậu: “Món gì cũng có, chỉ món chữ không tìm đâu ra”. Tôi gắp tim gan phổi phèo như gắp cả Hà Nội và Sài Gòn bỏ vào miệng nhai và gọ gạy: Món chữ. Lạ thật. Chưa bao giờ nghe. món chữ xào giòn. Sau cùng, với nho táo bất sĩ hạ vấn, là không mất sĩ diện gì mà không hỏi. Bèn hỏi: “Bác nói chữ phải không bác?”. “Chữ gì?”. “Món chữ xào giòn bác gọi ấy”. Ông khách à một tiếng rõ to: “Món chữ xào giòn! Ai mà chả biết”

Đợi tôi nuốt hết chữ nghĩa của ông và ruột già, ruột non trong đĩa phở áp chảo vào bao tử và tống táng những trầm kha xuống dạ dày, ông cười hậc một cái: “Món chữ. Chữ bác dùng để viết chữ đó”. Thấy tôi ngay thòng thõng, ông ngay đơ: “Chữ ấy mà. Tôi muốn món chữ ấy xào giòn mà không đâu có”.

Tôi vẫn mài óc ra nghĩ không ra. Một đĩa chữ xào giòn. Làm cách nào để xào giòn những con chữ đang giẫy nẩy lên vì dầu mỡ xì xèo. “Thiên hạ bây giờ không xào nấu chữ nữa”, ông tiếp. “Con người phải ăn mới sống được. Mà thức ăn có bánh giò nhưng chẳng thấy giò chả đâu, đến bánh ít, bánh nhiều. À mà này, bác ngó chừng xem. Tìm đỏ con mắt chẳng gặp ai xào nấu chữ nghĩa nữa. Vậy mà người ta vẫn sống nhăn răng cạp đất. Cũng hay”.

Trộm thấy ông đây dày chữ quá thể, ngộ chữ tôi tậm tịt với ông về “tái chần” và “tái trần” lý sự thế nào. Ông chắc như bắp luộc theo Tự điển Khai Trí Tiến Đức “chần” là luộc sơ bằng nước sôi. Vì vậy chần chứ chả phải là trần nghĩa “trần trụi”. Ông tầm chương trích cú: vua Lê Thái Tông vì mẹ là Phạm Thị Ngọc Trần nên ra lệnh ai họ Trầnphải đổi ra họ Trình. Một số họ Trần không đổi ra Trình mà họ Bùi. Vì Bùi do chữ “phi” và “y” ghép lại nghĩa “không áo” là …“ở trần”, lại trở về với họ Trần, thưa bác.

Làm như ông là cụ Ngộ nào đó đi tìm thời gian đã mất qua chữ nghĩa với chữ còn chữ mất. Cụ đây lừ đừ như ông Từ vào đền nhảy chuyện này sang chuyện kia. Cụ đong chữ như đong thóc, hay vén mồm sáo cuội câu “lọt vào tai chui ra mồm”, hoặc “sàng chữ ra câu, sảy câu ra chữ” nhưng chả sàng chữ “mồm” với “miệng”. Nói “miệng” sang hơn nói “mồm” (theo Tô Hòai). Vừa nói xong, bát phở của ông ra tới, ông gật đầu tắp lự thiên hạ sự hồi này ngộ thật: “Đã gọi phở tái chần lại bê phở tái trần ra”.

Như cụ Nguyễn Tuân, đi ngược gió ngửi mùi phở bốc lên là phở ngon, tôi lỳ lịt hết nhà văn Trần Dõan Nho: “Chữ đuổi bắt nhau, vật lộn nhau ngay trước mắt nhưng ta không hề thấy. Ngược lại, ta nghe, ta ngửi. Y như những con chữ có thể bốc lên, tỏa ra. Nghe có hơi. Tôi gọi là hơi chữ”. Đến Phùng Nguyễn: “Nếu chữ là yếu tố của câu. Câu ngắn câu dài, hay chữ đẹp chữ đắt. Câu quánh lại tạo ra hơi chữ bốc lên hăng hăng và cay không kém gì mùi ớt hiểm để những câu tạo nên hơi văn”.

Một câu nói ngay bằng ăn chay cả tháng, tôi ngay tình có nghe hơi nồi chõ tích ai đó với hơi văn, hơi chữ. Ông khủng khẳng cọ đít nồi ba mớ chữ theo tích xưa…

“…Kê Khang (223-262) hay khoe mẽ chứa sách trong bụng, hôm nào trời nắng thì khoe bụng, bảo rằng phơi chữ, hong sách cho khô. Kê Khang nghe truyền miệng về tài ngửi mùi sách đoán hơi văn của ông thầy bói mù nọ. Bèn tìm tới. Ông lôi trong cái bị cói “năng nhặt chặt bị” quyển sách đưa cho thầỵ

Ông thầy bói giương cặp mắt trắng dã, hít hít mũi, dạy:

– Sách sực nức mùi son phấn, chắc chắn đây là Hồng Lâu Mộng.

Kê Khang đưa tiếp quyển khác, ông thầy bói lại khịt khịt mũi:

– Sách toát toàn mùi sắt thép loảng xoảng của binh khí. Ắt là Tam Quốc Chí.

Kê Khang đưa tập giấy hoa tiên của mình vừa cảo mực đề văn còn nực màu giấy mực, ông thầy bói mù đưa qua mũi, không cần ngửi, nói không do dự:

– Đây đúng là kim cổ kỳ thư vì ta nghe thoang thoảng mùi… cóc chết”.

Từ mùi hồi bốc lên của bát phở, tôi “bốc” ông một tấc giời: “Món chữ xào giòn nếu được chiên cháy cạnh như bánh bột chiên hột gà ở Sài Gòn chắc ngon ăn và nghe thơm điếc mũi”. Nghe thủng rồi, ông ăn chữ mẻ bát rằng ta có vô số chữ liên quan tới “ăn” như “ăn không”, tiếng Sài Gòn cùng nghĩa với “ăn vã” của Hà Nội là không ăn cơm. Đi với “ngồi rồi”, thành “ăn không ngồi rồi” là rỗi việc. “Ăn xổi” là ăn tàm tạm như cà pháo muối xổi. Còn ăn bậy ăn bạ như “ăn hôi”, “ăn quịt” chỉ có nước… ăn tát. “Ăn bạc” đi với “ăn gian” là… ăn đòn, chắc như cua đinh là bị… “đinh” cái một.

Xong, ông triết lý củ khoai tận cùng của ăn là… “ăn xôi nghe kèn”. Tiếp, ông ăn không ngồi rồi bèn tụng “Bụt chẳng nhẽ ăn mày ma” nên tha ma mộ địa một chữ “chết” có bao nhiều chữ cùng nghĩa: tạ thế, chầu giời, về quê, đi rồi, ngoẻo, tử, héo, tỏi, thẳng cẳng, ngẳng, toi, mất, khuất núi, bán muối… và còn biết bao chữ nữa.

Từ “về quê, đi, tỏi, toi, mất, còn…”, ông vong gia thất thổ…

Năm 1954, người ta nói đến cuộc di cư người, thật ra còn có cuộc di cư chữ nghĩa nữa. Người đi, chữ cũng đi theo. Chữ nghĩa miền Bắc cũng lềnh kềnh, lếch thếch nối đuôi nhau lên tàu há mồm như bác và tôi. Chuyến đi gian nan của người di cư của bác và tôi thế nào chữ nghĩa cũng vậy. Chữ ở lại, chữ ra đi, chữ nào còn, chữ nào mất. Chữ di cư vào miền Nam, chở đi rồi, bao nhiêu chữ đã rơi rụng, vung vãi dọc đường. Bao nhiêu chữ đã sống còn sau khi đã hội nhập với chữ bản địa.

Phải đợi đến sau ngày 30 tháng tư 1975, người ta mới có thể biết được sự còn mất này một phần nhờ so sánh chữ nghĩa giữa hai miền. Hình như cũng ít ai để ý đến cái mất, cái còn của chữ nghĩa sau năm 1954. Chữ mòn theo thời gian, vì cho là dù không có cuộc di cư, chữ nghĩa cũng cách này cách khác bị xói mòn. Sự mất còn này trước hết là do sự xói mòn của thời gian. Chữ nghĩa như một vật dùng nhiều lần thì mòn. Như chiếc liềm cắt cỏ mãi cũng cùn. Dao bầu băm mãi cũng lụt đi. Ngữ nghĩa trên chỉ ra một điều: Thời gian và sự lặp đi lặp lại có thể làm mòn chữ nghĩa. Nói như thế thì chữ mòn hay nghĩa mòn. Vậy thì tôi hỏi bác chứ… chứ cái nào mòn trước, cái nào mòn sau.

Tôi cắp nắp ông đây hay chữ vậy đấy mà chỉ đồng bái quê mùa với con dao bầu, cái liềm. Vì chả phải đợi năm 1954, từ thời chúa Nguyễn Hòang di dân vào miền Nam, người Nam vẫn giữ những tíếng từ quê cha đất tổ xa xưa cho đến thập niên 1920, 1930 còn rơi rớt lại… Như con dao bầu, dao to bản, phần giữa bầu ra, dùng để chọc tiết lợn, mổ trâu mổ bò… Con dao bầu được người Nam gọi là dao yếm, dao to bản, hình dáng gần giống với dao bầu, nhưng dùng cho việc bếp núc. Còn chiếc liềm cán dài cắt cỏ được họ gọi là cù nèo, tiếng của đất Sơn Tây xưa gọi là cù lèo, nay không còn nữa. Hay cái âu (cái liễn), cái thạp (cái vại), cái trách (cái niêu kho cá, thịt), cái chõ (nồi có lỗ dưới đáy để đồ xôi- chõ xôi). Người Nam còn giữ “cái chõ” ba chân đã mất dấu tích ở miền Bắc, họ để trên bàn thờ để thờ cửu huyền thất tổ, tức cụ tổ thứ bảy của họ đã đưa con cháu từ Bắc vào Nam. (vì lệ triều đình nhà Nguyễn chỉ thờ đến lục tổ).

Từ Bắc vào Nam, với con dao bầu chọc tiết lợn, tôi nói vấy với ông…

– Sao người Nam không “gọi” bánh da heo mà là bánh da lợn.

Chả như mấy anh phóng viên Bắc kỳ 1975 vào Nam làm như đi khai phá vùng đất “trâu đeo mõ, chó leo thang”. Về lại Hà Nội ngàn năm văn vật, họ viết lên báo khoe um lên những khai phá mới lạ, một trong khám phá quá mới mẻ ấy là “phương ngữ” của người Nam như “Mèng ơi, nghe, hén” nghe…“hết biết”, “biết chết liền”.

Trong khi ông Bắc kỳ năm 1954 đây ăn vẹt ở mòn với tiếng nói của người Nam:

– Mắc mớ chi Bắc kỳ không “kêu”… nói toạc móng lợn mà lại nói toạc móng heo.

Bởi “bí ngô bí khoai” nên tôi nói dín với ông theo Paulus Của giải thích “lợn” là “heo”. Vì người Trung di dân từ bắc vào, tiếng của họ pha lẫn tiếng Chàm nên họ giọng nặng, không như người ở Thanh Hóa (Tây Đô) hay thanh cảnh như người Thăng Long. Vì vậy khi bẩm trình với quan lớn, họ kêu “quan lợn”. Quan cho là vô phép sai lính đánh 10 hèo nên họ gọi mỉa con lợn là “con hèo”, sau bỏ dấu huyền là… con heo. Con lợn từ miền Bắc xuống miền Nam thành con heo là thế.

Thế là ông khẽ khọt …

– Con lợn tiếng Việt cổ gọi là “con heo” (hay con cúi) qua câu “nói toạc móng heo”. Di dân vào miền Nam, con lợn được người Nam kêu lại với tiếng Việt xưa là con heo.

Đột dưng ông đùn chữ:

– Tôi hỏi bác chứ… Chứ con lợn khác con heo ở khổ nào?

Đợi tôi trớ phở ra rồi ông mới phăm phở…

– Con heo ăn bắp, con lợn ăn ngô

Ngó mặt tôi trông cũng ra ngô ra khoai đấy mà không biết bắp ngô khác nhau ra sao. Ông rị mọ: tiếng Việt cổ ở Bắc gọi là bông, là trái vì thành ngữ xưa có câu: “Tháng Tám nắng rám trái bưởi”. Bởi ảnh hưởng hoa quả  từ tiếng Hán nên người Bắc gọi là hoa,quả. Vào Nam, người Nam vẫn giữ tiếng Bắc cổ bông, trái.

Ngộ chữ tôi ngộ chữ với ông chữ “vô” từ thời chúa Nguyễn Hoàng di dân “vào” miền Nam. Tiếng vào của người miền Bắc cổ được kêu là “vô” như câu ca dao “Thương em anh cũng muốn vô, sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang”. Vì tiếng “vô” là thổ ngữ của người Mường thượng du Bắc Việt, người Bắc vay mượn chữ này một thời gian rồi trả lại người Mường. Nhưng người Việt khi vào miền Nam khai khẩn khẩn đất hoang, chữ “vô” theo chân người đi mở cõi nên họ vẫn giữ lại chữ vô.

Ông trở lại Nam kỳ rặt “Con cá gô, bỏ dô gổ, nó nhảy gột gột”. Như cụ Ngộ hay “nhảy” chuyện này sang chuyện kia, từ con cá rô ông nhảy ngay sang concái.

Theo ông thu vén chữ nghĩa con có vú bốn chân, có con cái con đực như chó cái, bò đực. Con có lông hai chân, có con mái con trống, như gà mái, gà trống. Vây mà “con” người cũng có hai chân, cũng có lông lại không có… thằng trống, con mái. Với “trống mái”, ngộ chữ tôi lây rây qua chuyện anh Vọi cô Hiền thăm Đồ Sơn có hòn Trống, hòn Mái. Vì ngôi ở quán hết phùng trường tác hí với cụ núi Tản sông Đà nay gặp ông Trần Khánh Giư. Để chẳng quên tác phẩm cuối cùng của cụ Nguyễn là Chùa Đàn thì tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Khái Hưng là truyện Trống Mái có hòn Trống hòn Mái là tên hai hòn đá với ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau. (TCS)

Đến đây ông góp nhóp: “Vì vậy tôi bịa tạc ra món chữ xào giòn là thế”. Thế thì như bác biết đấy: cụ Trần Dần vặn vẹo trong bài thơ Thằng thịt: Tôi là một cột thịt lực đực, vũm vĩm, đưa đẩy, thồn thỗn ao thịt, nun nút, nún xút. Những lực đực, vũm vĩm… khó bề gặp được trong tự điển. Xưa nay, trong quá trình tiến hóa của chữ có bao nhiêu chữ xấu số tàn rụi? Tử ngữ la liệt. Trong khi ấy, bao nhiêu chữ dùng đã mấy nghìn năm vẫn còn mới mẻ, vẫn còn sức sống. Mang trên đầu mấy nghìn tuổi thọ mà vẫn sinh động, vẫn mắn con, sinh nở những đứa trẻ kháu khỉnh, vũm vĩm. (theo Võ Phiến)

Thấy người ta trồng khoai cũng vác mai đi đào, tôi đào xới với ông, những bài tạp bút bấy lâu nay, tôi lùi chữ như lùi khoai với chữ của các cụ ta xưa như nhà văn Lê Minh Hà: “Những ngõi, nhảo, nhuôm nhuôm, tôi học từ các bà các chị ở quê tôi. To hó, từ này tôi mượn của ông Tô Hoài trước năm 45. Ngẫn ngẫn tôi học được từ mấy anh chị miền Nam. Chỉn chu thì có trong tự điển. Chúng ta phải tự làm giàu vốn từ cho mình bằng cách đọc và học. Mỗi từ có những nét nghĩa riêng trong từng văn cảnh. Nếu người đọc không nắm bắt được những từ đó, có thể tôi không biết cách khi chọn từ”.

Bởi bỗng không đâu, ông bị tôi đàm hoa lạc khứ về thời gian, không gian ảo. Lại nữa bởi ông chỉ nhai văn nhá chữ với chữ “ăn” từ ăn vạ đến ăn xôi nghe kèn. Tôi đành đưa ông trở lại hiện thực qua bài Ăn và đọc của ông nhà văn Bình Định…

“…Từ chỗ biết ăn phở đến am hiểu phở bò, phở gà, phở tái, phở chín, phở nạm, phở gầu, phở sụn… còn nhiều cách biệt. Người Bình Định ăn phở Bắc có hơi hững hờ. Người miền Nam chỉ à ơi ví dầu sau khi trút vào tô phở non nửa dĩa giá sống  Người Huế ăn phở phải có ớt, họ không chỉ yêu vì vị cay mà còn vì cái tiếng kêu, đưa lên mồm cắn kêu đánh bụp. Món ăn còn quan hệ đến lịch sử: Người Việt đời Trần dùng món thịt chó không đối mặt với dĩa rau thơm giống dĩa rau thơm chúng ta có trước mặt ngày nay. Không phải tự lúc đầu lá mơ đã đi với thịt chó. Tôi chắc thế. Tổ tiên ta phải có một thời mò mẫm, đã thử dùng lá chanh, rau răm, rau om, sau cùng là lá mơ…”.

Bỗng không ông gật đầu tắp lự: “Lá mơ là lá… thúi địt đấy, thưa bác”. Với thúi địt, tôi dẫu mồm với ông qua một nhà làm văn học: “Không có chữ thanh hay chữ tục, chữ hay hoặc chữ dở, chữ cũ hay chữ mới: Chỉ có chữ dùng đắc địa hay không thôi và sẽ không còn là những cái xác nằm bẹp dí trên trang sách, như chúng vốn nằm vậy, trong các cuốn từ điển, mà chúng trở thành những sinh vật biết ngọ nguậy hay biết nhảy múa, khiến người đọc có hình tượngnào đấy. Mỗi bài chỉ cần vài ba hình tượng chính. Ít. Nhưng thật ấn tượng. Như một cú đấm. Nhanh, gọn, dứt khoát. Và mạnh”.

Cùng tục, thanh qua nhà văn ti hí mắt lươn: “Chữ Việt ta có chữ “ăn nằm” rất hay, tránh nói thô. Với “ăn ngủ”, ông nhà văn hóm hỉnh khi tả cảnh mà ông gọi là “ngủ bụi”. Họ là những người từ quê ra Hà Nội làm nghề rửa bát, khiêng bàn, khiêng ghế, bưng bê cho các quán cơm, quán phở. Xong việc xoa “hai đập” là ngồi đập chân mấy cái lăn ra ngủ, sáng dậy đưa tay lên xoa mặt, như con mèo giơ chân rửa mặt khan. Ông nhà văn này còn dí dỏm: Đêm về, ngủ ở mấy quán trọ rẻ tiền ở ngoại ô, “nằm úp thìa”, đầu đàn ông, đàn bà chổng ngược nhau, chân hai bên thò ra mép chiếu” (Ngủ bụi).

Nhưng nghĩ sao tôi lại thôi vì đang ngồi ở quán “Phở xào Bắc Hải” chả nhẽ lại nói chữ với “chữ tục, chữ thanh”. Thêm nữa qua nhà thơ Lê Đạt: Chữ là nghĩa, ngộ chữ tôi vì hẻo chữ nên mót chữ “nằm úp thìa” là hai cái thìa úp khít khít khịt lên nhau, đầu với đầu, chân với chân. Ai lại “đầu đàn ông, đàn bà chổng ngược nhau” là khỉ mốc gì. Một công đôi chuyện với nhà văn, tôi vắt qua Vũ Bằng: xa Hà Nội ít lâu, thèm phở, ghé quán phở quen hai vợ chồng bạn làm chủ, thấy vợ bạn đeo khăn tang, hỏi mới hay bạn mình đã bốn tấm dài hai tấm ngắn. Trong lúc chờ đợi nồi phở lửa tắt nồi khô nước, sẵn có máu lãng đãng trong người cùng “gái đọan tang, gà mái ghẹ” ông thở khẽ câu đối phở rất tình và cũng rất… phở: Nạc mà chi, mỡ mà chi / Sao cứ ỡm ờ không tái giá.

Nhân câu đối, trở lại nhà văn Trâu nước ở quán bà Dậu với phở cơm nguội để có người rỗi hơi chán ăn cơm nguội đành… ăn phở để có nhiễu nhương: Sáng đèo cơm đi ăn phở, trưa hăm hở rước phở đi ăn cơm, chiều cơm về nhà cơm, phở về nhà phở, tối nằm với cơm, nghe thơm mùi phở. Để có nhiễu sự thê bất như thiếp, thiếp bất như tì, tì bất như đạo, đạo như đạo bất đạo. Từ “cơm nguội” và “phở” mới có câu đối thuộc thể lọai khó nhai da trắng võ bì bạch: Vợ cả, vợ hai, cả hai đều là… vợ cả.

Làm như không nghe chuyện ruồi bu với cơm phở, ông đụng đũa đụng bát món chữ của ông. “Tôi tìm khắp nơi, mà chẳng ma nào biết làm món ấy. Món chữ người ta không thèm ăn nữa tôi đành đi tìm món chữ xào lăn, chữ xào dòn, chữ nấu chao, chữ luộc, chữ hấp… May ra người ta ăn thấy lạ, sẽ trở về với chữ nghĩa”. Vì vậy tôi đi tìm khắp nơi từ Hà Nội vào Sài Gòn một người bị đày đọa chữ như tôi đây.

Ông vãi chữ đến đây, trong cái đầu đất của tôi có những vụn vặt về ông và cụ Ngộ gì ấy lạ lắm. Làm như họ đi tìm nhau như trong truyện thần thoai cổ Hy La với Lý thuyết tiến hóa nguồn gốc lòai người: Từ trên đỉnh núi có tảng đá thô lăn xuống chân núi thành hòn đá tròn xoay. Hòn đá tách làm thành hai cục thịt, nửa cục thịt này đi tìm nửa cục thịt kia từ từ thuở hồng hoang. Cũng vậy, ông đi tìm cụ Ngộ đến thiên niên kỷ 21 thì gặp cụ ở Quán chữ. Ngồi trong quán, ông chỉ thấy cụ dáng người thô mộc, chữ nghĩa chọn cụ để đày đọa văn chương, hành hạ văn sử, cụ hành ngôn hành tỏi “mổ câu, họan chữ” như mổ trâu, họan lợn từ thuở nào trong lũy tre làng nay đã đi vào quá vãng.

Thêm nhiễu chuyện, ông và tôi cũng lạ lẫm không kém, từ trưa ngả sang chiêu, cả hai nhập thế tục bất khả vô văn tự và nhập vào nhau làm một làm như bất khả phân: Dường như ấy là bệnh chứng Ferma ở Canada, bởi cái xứ vật chất lạnh lẽo này đã nuốt chửng thằng người nên cái đầu hư cấu của thằng người thật là tôi bịa ra thằng người ảo để nói chuyện. Y sì vậy, cả hai nói chuyện rất ư tương đắc tương bần cho đến khi bát phở của ông “nguội ngắt, bánh trương lềnh bềnh, mỡ nguội đóng váng”. Đó là lời cô ả đào về già than thân trách phận trong truyện Anh hàng phở lấy vợ cô đầu.

Vồ được anh hàng phở ở Khâm Thiên mang về đất tạm dung, ngộ chữ tôi nhẩm chừng sẽ bòn mót ra bài Quán chữ. Số là loay hoay vặn vẹo chữ nghĩa rộn cả người đến đây với cái đầu trống không, bởi cái quán trống hóac gì đâu chả biết nữa! Bèn ngả người vào lưng ghế dòm lên trần nhà để đi tìm những con chữ đang bò lổm ngổm đâu đây. Với concái, chỉ thấy con thạch sùng đực đuổi con thạch sùng cái. Thế là ngộ chữ tôi đục câu đẽo chữ đuổi theo ai đấy viết về nhà văn mắt ti hí Tô Hoài:

Theo ông nhà văn vào quán, nếu chỉ biết lác đác vài tiếng cột, kèo, rui mè chưa hiểu biết mấy về quán xá. Hãy để ý ở quán có khoá sáu tua, khoá đuôi chuột, có ai đã biết thứ khoá nào chưa? Ông thích lượn lờ các quán bên đường, ngồi tán chuyện ở quán nhậu (quán Cây Si). Ông có cái thú riêng: giấu biệt mình là nhà văn, đóng vai một lão già kỳ cổ ngồi không ngóng chuyện thiên hạ. Vì vậy ông ngóng chừng ăn còn được gọi là “đánh chén”, trong chữ này có hàm ý cả với chén hạt mít, chén mắt trâu để uống rượu trắng chứ đừng gọi là rượu đế. Hay nói khác đi, có “chén” là có… ăn nhậu.

Đôi đũa vẫn chọc sâu vào bát phở tái chần… Bỗng ông nói chiều nay ta lêu bêu vào Chợ Lớn đánh chén với cụ đồ ăn ngon, người ngồi ăn ngon, chỗ ngồi ăn ngon chăng? Ông bám như cua cắp theo những con chữ muộn màng thả rong về năm 1927, cụ vào Nam làm báo Đông Pháp thời báo, vì bài thơ Chơi xuân của cụ mà báo bị đóng cửa nên cụ mở quán nấu phở ở số 5 đường Tản Đà. Ông bòn vót từ nấu chữ, tới luộc chữ sơ bằng nước sôi nên mới có chữ. Vì thế mới có chuyện chiết tự cắt chữ, ghép chữ vào thời Lê để có giai thoại họ Trình, họ Bùi, họ Trần, thưa bác.

Thạch trúc thảo lư, Kỷ Hợi 2019

Nguồn:

Khúc An, Nguyễn Đạt, Người Tân Định

Phạm Lưu Vũ, Lê Trung Hà, Lê Thiêp

Nguyễn Hưng Quốc, Ngô Nguyên Dũng

Comments are closed.