(Trò chuyện với nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn)
Gần mười năm trước, bạn Yên Ba lúc đó đang làm báo, từng có một cuộc trao đổi với tôi về một số vấn đề văn học và đời sống. Bài viết sau đó không được sử dụng, và với tư cách tác giả tôi còn lưu lại trong máy. Nay xem lại thấy một số vấn đề còn hợp thời, vậy xin giới thiệu lại với bạn đọc. Chỉ có một điều tiếc không làm được là lúc này tôi không có điều kiện tìm thêm các chi tiết minh họa có ý nghĩa cập nhật.
HỖN LOẠN BÊN NGOÀI, TẺ NHẠT BÊN TRONG
Yên Ba: Có lần ở đâu đó, anh đã nói về sự tẻ nhạt trong đời sống văn học. Vậy theo anh, cho đến bây giờ, cái sự tẻ nhạt ấy có còn không và tại sao?
Vương Trí Nhàn: Theo tôi, chúng ta đang sống trong cái-thời-văn-học mà có khi hàng năm trôi qua cũng không thấy có gì thay đổi lắm, không có sự kiện gì đáng kể.
Thỉnh thoảng tôi vẫn mang một số bài cũ của mình in lại, bởi tin rằng nhận xét của mình về tình hình chung vẫn đúng.
Cái cảm giác về sự tẻ nhạt vẫn còn, nó là cái có thực và chưa biết bao giờ mới gạt bỏ được.Tôi nghĩ rằng cái đáng lo của đời sống sáng tác nói chung và phê bình nói riêng, là nó cứ đều đều, làng nhàng; giở một tờ báo ra, đọc vài dòng thấy chán, lại bỏ xuống. Lâu lâu, có ai bảo báo đó có một hai bài đọc được, lại mới đi tìm. Lại chán , lại bỏ, vòng quay tiếp tục.
Đọc lại báo chí cũ, khoảng 50 năm đầu của thế kỷ trước, thấy người đương thời làm được nhiều lắm. Cũng giống như tôi nghe nói, trước 75 Sài Gòn đã hơn Thái Lan, còn bây giờ thì chưa biết bao giờ ta có thể đuổi kịp cái đất nước láng giềng gần gũi ấy.
Văn chương cũng thế, trong vòng 5-10 năm, kiểm điểm lại, thấy chúng ta không làm được cái gì cho đáng kể. Có lần, chính các anh ở Hội nhà văn cũng nói đại ý: văn chương ta hiện đang ở tình trạng có nền không có đỉnh, không có những tác phẩm đủ sức gây bất ngờ, không có cái gì xuất hiện như một hiện tượng kỳ lạ để có thể làm cho mọi người phải đi tìm.
Trong giới với nhau ai sống thế nào đã biết, nên ai sắp viết ra cái gì đại khái ra sao cũng đã biết được rồi.
Người doạ điên thì có, người điên thật thì không, nói chung toàn những người tỉnh như sáo và hết sức thực dụng thì làm sao có cái gì mới mẻ, táo bạo cho được.
– Tức ý anh muốn nói sự tẻ nhạt là một đặc điểm chi phối cả một giai đoạn ?
– Tôi đang định nói thế. Lịch sử văn học có những lúc rất lạ. Như hồi Thơ mới, báo Ngày nay những năm 38-39 mỗi số chỉ đăng có 3 – 4 bài thơ ( nhiều nhất là của Xuân Diệu Huy Cận) nhưng toàn những bài có giá trị sau này người ta còn đọc mãi.
Hoặc Tiểu thuyết thứ bảy mấy năm 40-42 có thời gian các số liên tiếp in truyện ngắn của Nam Cao mà toàn truyện bây giờ người ta in đi in lại, đọc đi đọc lại.
Trong khi đó An Nam tạp chí trước và sau 1930 (hoặcNam Phong cũng thế), số báo nào cũng đăng hàng vài chục bài thơ, mà trừ thơ Tản Đà, không bài nào bây giờ được ghi nhận.
Tôi có cảm tưởng thời nay cũng có gì na ná như cái thời trước 1930 ấy. Một số người có trách nhiệm kể cả những vị gọi là chuyên gia cho rằng các nhà xuất bản chưa chịu gạn lọc kỹ. Tôi xin cãi lại không có cái hay thì lấy gì mà gạn ! Làm kỹ cũng chỉ đến thế thôi ! Bảo một tác giả viết một trăm bài thơ thì làm được ngay, nhưng bảo làm lấy một bài hay thì chịu.
— Chẳng nhẽ anh không thấy là mọi người đang nỗ lực để vượt lên trên sự trì trệ đó?
— Có nhưng chưa đủ. Nỗ lực kém quá nên cũng bằng không. Hiện chúng ta đang thiếu những cuộc thảo luận kỹ lưỡng để bàn đến cùng về những vấn đề thiết yếu. Ví dụ để chuẩn bị cho những cuộc thi tiểu thuyết, lẽ ra phải có một cuộc trao đổi: Thế nào là tiểu thuyết? Trong quá khứ, tiểu thuyết đã có một tiến trình tiến hoá như thế nào ? Chỗ khác của tiểu thuyết phương Đông với tiểu thuyết phương Tây, chỗ khác của tiểu thuyết thế kỷ XX với tiểu thuyết các thế kỷ trước? Và nhất là những xu hướng phát triển của tiểu thuyết trên thế giới hiện nay. Phải có người dịch giới thiệu, rồi các nhà văn trao đổi và thảo luận, mỗi người tìm lấy cho mình một hướng đi mà mình thấy gần gũi nhất. Lý luận, không gì khác, chính là những thăm dò mở đường, là cái mũi dùi khoan vào những bí mật phía trước để gợi mở cho người viết.
— Có vẻ anh muốn nói tới mối quan hệ giữa kiến thức và sự sáng tạo?Anh có thể nói rõ hơn một chút
— Hiện nay, trên nhiều lĩnh vực khoa học, lý luận và thực hành gần như song hành với nhau, chậm chí lý luận đi trước thực hành.
Trong thiên văn học, có nhiều trường hợp người ta tìm thấy những ngôi sao trong phòng thí nghiệm trước, rồi sau đó dùng kính viễn vọng mới nhìn thấy trên bầu trời.
Văn chương cũng thế. Có người như Claude Simon (giải thưởng Nobel 1985) chẳng hạn, là loại có lý thuyết trước, sau đó ông ấy mới dùng văn chương để minh hoạ cho lý thuyết của mình.
Ở ta có tình hình ngược lại. Lý luận bị coi là xa lạ với sáng tác và thực tế nó cũng đáng như vậy. Các nhà văn chỉ lo viết và viết, không tính cái định viết sẽ như thế nào, có thể có một ý nghĩa lý luận nào chăng, trong thể loại có định mở ra một con đường mới không? Thế thì làm sao có được những cách tân thực sự?
Theo tôi quan sát, rõ ràng ở các nhà thơ lớp trước, văn hoá thơ (tức là sự hiểu biết về bản chất thơ ca, lịch sử của nó, con đường đi tới của nó) khá hơn hẳn cái hơn ở một mức vượt bậc so với các nhà thơ bây giờ.
Trong những năm sáu mươi ở Hà Nội, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Nguyễn Đình Thi… đã bỏ nhiều công sức dịch văn học nước ngoài, mang các thứ hương xa hoa lạ vào Việt Nam. Xuân Diệu còn viết nhiều tiểu luận giới thiệu về các nhà thơ thế giới. Mà những cái đó ông làm tốt hơn nhiều nhà nghiên cứu, do đó tác động đến anh em viết văn làm thơ trẻ lúc ấy rất lớn.
Bây giờ, sự tiếp xúc với văn học nước ngoài có thể rộng rãi hơn, nhưng không được kỹ như hồi trước, mà phần chính lại chỉ do các nhà nghiên cứu làm, nên ảnh hưởng tới giới sáng tác là khá hạn chế.
Mặt khác, nay cũng là lúc nhà văn nhà thơ ít có ai đi vào khám phá văn học cổ như các thế hệ trước.
Xuân Diệu 42 tuổi đọc diễn văn trong lễ kỷ niệm Nguyễn Du năm 1958 ở Nhà hát lớn; tới 1966 Xuân Diệu cho in cả quyển sách về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Các bạn làm thơ trẻ, cỡ khoảng 30, 40 bây giờ, khó lòng mà làm được như vậy, không phải không ai cho làm mà cái chính là có cho làm cũng không làm được.
Đáng lẽ phải học hỏi Xuân Diệu để rồi vượt lên ông, đi xa hơn ông, thì lại biến ông thành đích, thành ngưỡng, thành cái trần và tự coi thế là đủ.
Một người bạn tôi quan sát cách viết phê bình của một số nhà thơ hiện nay nói đùa: các ông toàn ngồi ngửi hơi nhau rồi viết. Lối nói có thể hơi thô lỗ nhưng nó nói đúng một sự thật, là nhiều bạn trẻ bây giờ chỉ loanh quanh ngồi tán với nhau và tán về nhau. Đấu hót với nhau một hồi rồi viết lại. Chỉ sợ không ai biết nên phải lo giảng cho mọi người biết là bạn mình làm thơ hay lắm! Trong khi đó gần như không bao giờ dẫn lại các tác giả cổ điển.
“Chiếm lĩnh” lại thơ của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà… không phải chỉ là việc của các nhà nghiên cứu, nó còn là việc của các nhà thơ. Mà ở đâu cũng thế thôi, ở Liên xô trước đây, một trong những người viết hay nhất về Tchekhov là nhà văn Ehrenburg, còn nhà văn Nabokov (sống ở Mỹ, tác giả Lolita) thì có cả một loạt bài giảng về các văn hào cổ điển Nga. Bởi các nhà văn thường có sự đồng cảm riêng khi đọc văn của nhau.
Ở nước ta, tôi có cảm tưởng lớp nhà văn mới trưởng thành sau chiến tranh ít hiểu về sáng tác của ông cha, chính điều đó cũng góp phần tạo nên cái sự tù túng, không phát triển.
– Thế còn tầm quan trọng của việc trao đổi và giới thiệu văn học nước ngoài.
— Bây giờ, có thêm nhiều sách văn học phương Tây để đọc, song thử hỏi có mấy người biết các nền văn học phương Tây đó một cách cặn kẽ theo dõi từng biến động ở đó chứ không phải chỉ đọc các bản dịch? Tôi mạnh dạn mà nói rằng nhiều người đọc Việt Nam cách đây 15 năm thì có thể đối thoại cùng người đọc Nga, còn người đọc bây giờ hầu như không ai có thể làm được việc đó với tác giả và người đọc trong văn học Mỹ. Nói thế có phần chung chung, vì người đọc có nhiều loại. Tôi chỉ muốn nói trong phạm vi giới cầm bút. Cách đây 15, 20 năm, một số anh em yêu mến và “thuộc“ văn học Nga biết rõ Moskva có mấy tờ báo hay tạp chí văn học quan trọng, khuynh hướng từng tờ ra sao, hiện do ai nắm, nội tình nó như thế nào? Còn bây giờ có ai thạo văn học Mỹ, văn học Pháp như thế không, tôi có cảm tưởng là không, hoặc chỉ có rất ít.
Theo tôi, luôn luôn cần đặt văn học chúng ta trong văn mạch chung của văn học thế giới, để mà thấy được tình hình của mình thực trạng của mình, đồng thời học hỏi được những cái mới lạ, cũng tức là cái người ta đã trải, và trước sau ta cũng sẽ đi tới.
Năm 1995, trong một cuộc họp ở Hội nhà văn, tôi đã nhắc chuyện hội nhập nhưng không có người nghe nên qua đi. Tôi nói là: chúng ta đang có một nền văn học “lạc hậu so với xã hội” với nghĩa trong khi tất cả những thứ khác của ta từ quần áo may mặc xuất khẩu, cho đến cá, tôm, hàng công nghệ, thời trang, ca nhạc phim ảnh … đủ mọi thứ lo hội nhập với thế giới, thì văn học chúng ta bằng lòng dừng lại ở trình độ một thứ hàng nội địa trong nước dùng với nhau. Chưa tính đến chuyện đặt văn học Việt Nam vào văn mạch văn học thế giới, hoặc mới nhìn việc giao lưu một cách rất thiển cận — thế thì làm sao có sự tiến bộ ? Theo tôi, chuyện này không chỉ riêng là của ta.
– Chung quanh chủ đề hội nhập anh đã rút được những kinh nghiệm nào?
– Có lần nhân nhà xuất bản nơi tôi công tác tiếp một đoàn nhà văn Trung Quốc, tôi có hỏi họ là rồi các anh sẽ đi đến đâu? Hay lại giống như thế kỷ 20 của phương Tây, lại đi về cái cá nhân, lại phi lý, cô đơn…?
Họ nói họ còn đang tìm, song không cho rằng Trung quốc đứng ngoài quy luật vận động chung của thế giới.
Theo tôi những vấn đề như thế anh không quan tâm không được. Bản sắc dân tộc bao giờ cũng có, nhưng những con đường mà nhân loại đã tìm thấy và đã đi qua, thì nước nào cũng sẽ đi qua, dù mỗi nước sẽ đi theo cách của mình.
Bảo nhau giữ lấy bản sắc là đúng.
Nhưng phải lo làm giàu cho cái bản sắc ấy. Sợ tiếp xúc rồi sinh ra học đòi bắt chước nên trên dưới bảo nhau hạn chế tiếp xúc.
Sẽ gây khủng hoảng thôi tránh sao được.
Nhìn vào các ngành điện ảnh hay hội họa, các nghệ sĩ ở đây tiếp xúc với thế giới hiện đại thành tâm hơn. Mà tìm ra được hướng đi của mình còn là khó.
Đằng này trong văn học, anh em mình lại không muốn làm cái chuyện đó nữa, hoặc chỉ lo làm một cách bôi bác, cốt lòe bạn đọc và nói dối nhà nước để xin tiền công quỹ về phung phí với nhau thì còn thay đổi sao được.
QUÀ VẶT & CÂU CHUYỆN VỀ SỰ TIẾN HÓA
Yên Ba: Trong một bài phiếm luận, anh đã nói đến văn hoá quà vặt. Trong văn học cái sự “quà vặt hóa” này diễn biến ra sao?
Vương Trí Nhàn: Phần trên tôi đã nói chính những người Trung quốc cũng công nhận họ phải đi theo quy luật chung mọi nền văn hóa trên thế giới. Bất chấp việc xã hội ta các nhà văn ta có muốn hay không, rồi ở VN cũng vậy. Nó sẽ trải qua mọi bước suy đồi mà các nền văn học đều có, thậm chí nếu ở VN sự suy đồi ấy có thê thảm hơn cũng là tự nhiên.
Nay đang là thời hậu chiến. Nhà nước thì cố gắng giữ lấy nền văn hóa hàn lâm nửa mùa theo kiểu “văn dĩ tải đạo”. Nhưng nay là lúc nội lực của các nhà văn đang cạn kiệt mà cơ quan chỉ đạo cũng không còn kỳ vọng nắm cổ văn nghệ một cách quyết liệt như cũ. Miễn là nhà văn đừng có lớn tiếng phản đối là được, ngoài ra người ta sẵn sàng chấp nhận họ là một đám công chức loàng xoàng, nuôi báo cô qua ngày. Nhiều người cầm bút hiểu và chấp nhận. Một mặt nhênh nhang làm hàng giả ăn lương. Mặt khác lầy phầy chơi bời hoặc ngồi chửi đổng. Công chúng cũng vậy. Công chúng đã mất hết khả năng săn tìm những giá trị lớn, bao gồm cả văn học cổ điển. Nay công chúng phần lớn chỉ thích cái thứ gì chiều nịnh họ giải khuây cho họ giúp họ lảng tránh những vấn đề trước mắt .
Văn hóa quà vặt ra đời là vậy.
Đại khái, có thể kể ra những dấu hiệu chính của một nền văn học được làm theo kiểu quà vặt.
— Có khả năng đáp ứng một cách linh hoạt những yêu cầu xã hội nhưng nhìn kỹ sản phẩm làm ra toàn những thứ lụn vụn không có giá trị thực.
— Sự nhạy cảm không đi kèm với một khả năng suy nghĩ sâu sắc. Một sự sáng tạo thường trực nhưng trình độ lại loàng xoàng. Giống như các loài sinh vật bậc thấp, đẻ nhiều đẻ khỏe để rồi mỗi kiếp sống lại là sớm nở tối tàn…
Một mặt phải công nhận đời sống văn hoá có vẻ nhộn nhịp, sôi nổi, sặc sỡ, song mặt khác lại cứ có chút gì như là làm cho vui thưởng thức cho vui, chứ không phải là cái thiết yếu không có không được. Và cũng không thiếu những cái độc hại — độc hại theo tiêu chuẩn nhân bản nhân văn chứ không phải theo con mắt các nhà chính trị.
– Tại sao lại nẩy sinh khuynh hướng quà vặt đó?
– “Bao lần đất nước đứng lên – Bởi vì đất mỏi cho nên đất nằm”. Câu thơ này Xuân Sách làm để khái quát quá trình cầm bút của Nguyên Ngọc. Nó không đúng với tác giả Đất nước đứng lên vì tới nay ông vẫn còn hăng hái lắm, dù chỉ là hăng hái trong các hoạt động xã hội chứ không phải chuyên về sáng tác. Nhưng sự mỏi mệt ấy lại là bước đường phải tới của cả nền văn chương tuyên huấn cứng quèo hôm qua. Mượn thuật ngữ của tâm lý học, đây chính là một dạng của stress. Trước áp lực quá lớn của đời sống hiện đại, người ta sinh ra lảm nhảm không tự biết mà cũng không cần biết. Mệt quá, cho phép mình ngả ngốn chơi bời rồi tự biện hộ rằng như thế là tự do, là không phò chính thống.
Xu thế quà vặt là kết quả của một phức hợp tâm lý mà tôi tạm diễn tả như sau. Một mặt mọi người ai cũng cảm thấy cần phải làm một cái gì đấy có ngay một cái gì đấy, với người viết nó là chuyện khẳng định thành tựu tài năng, mà với bạn đọc nó là nhu cầu tiếp nhận hưởng thụ văn chương. Mặt khác, trình độ khả năng thì có hạn; không những nhà văn chưa thể làm một cái gì gọi là lớn lao mà chính bạn đọc cũng chưa thấy cần phải có cái lớn lao đó. Tinh thần thực dụng đã chi phối tất cả. Chúng ta luôn dễ dãi với nhau, không phải chỉ là chuyện khen tụng vuốt ve nhau trên báo chí, mà trong rất nhiều chuyện lớn nữa. Ví dụ đưa một tác giả vào cho học sinh học ở nhà trường rất dễ dãi. Cả những cái không đáng là văn chương cũng được giới thiệu trang trọng cho học sinh sinh viên. Tôi là người phản đối đưa văn học sau năm 1945 vào giảng dạy ở nhà trường một cách quá mức. Ở ta có thói quen là đưa văn chương vừa in ráo mực vào trường học, lấy cớ rằng muốn văn chương phục vụ chính trị cần đưa cái mới vào cho kịp thời. Tôi đáp lại: Hãy giảng dạy văn học cổ điển nhiều hơn nữa, còn với thứ văn chương vừa viết ráo mực, cần phải có độ lùi, có thử thách. Các nhà văn muốn lớp trẻ đọc, thì đến mà nói chuyện với họ thuyết phục họ, đừng bắt họ phải học.
– Có vẻ như anh rất thích tìm ra mối liên hệ giữa văn chương và đời sống, thích giải thích văn chương bằng đời sống.
– Đó là một hướng suy nghĩ cần thiết, “Văn học ta tầm thường bởi đời sống ta quá tầm thường “– bản thân tôi những năm gần đây luôn luôn bị ám ảnh bởi cái ý tưởng đơn giản đó.
Thời tôi bắt đầu cầm bút tức năm chục năm trước, văn chương khô hạn trong xu thế khổ hạnh. Nay thì văn chương bung ra, bề ngoài thực lắm đề tài lắm giọng điệu, xem kỹ hóa ra lại một thứ công thức mới, bắt nguồn từ việc học đòi thô thiển. Nhưng đó không phải tội riêng của văn chương, nó là cái hướng vận động của đời sống. Nhiều người bây giờ sống vội quá, ham làm giàu, ham hưởng thụ, buông thả bừa bãi. Họ cho đó là mới là đang tiến kịp trào lưu thế giới. Khuyến khích nhau làm giầu là cần, nhưng cần hơn là bảo nhau đừng làm để mà làm, mà phải đặt yêu cầu cao với những thứ đang làm, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm và tìm cách đạt được chuẩn mực quốc tế. Tại sao hàng Tầu tràn ngập phố xá cửa hàng xứ mình? Là do họ làm rẻ và tốt hơn, còn hàng ta vừa đắt vừa xấu. Văn chương, phim ảnh mình mới ít mà đã lạm phát. Sản xuất lắm phim làm gì, trong khi phần nhiều phim chẳng ra phim. Làm thơ cũng thế, dịch sách cũng thế.
Sự dung tục vốn sẵn trong văn hóa dân gian là bộ phận nòng cốt của văn hóa ta. Kiểu như thời Trạng Quỳnh thi vẽ với sứ Tàu thì chấm mười ngón tay vào mực mà vẽ thành mười con giun rồi cười đắc chí. Nay lối láu cá đó lại trở thành phong cách thời đại. Ngồi ở hàng nước, mấy cậu thanh niên nói tục xong rồi cười hô hố với nhau; trên ti vi cũng thi nhau cười những cái không đáng cười. Bệnh dung tục bộc lộ từ trong cách làm việc lẫn cách ăn nói, quan hệ và rõ nhất trong khẩu vị khi thưởng thức những trò vui chơi giải trí. Đạo diễn Nguyễn Đình Nghi hồi còn sống thường than phiền với tôi rằng sân khấu hiện nay không thể phát triển được bởi vì không có một không khí sân khấu thực sự. Người ta đi xem kịch buồn cười lắm, khán giả nhiều nơi vừa xem, vừa cắn hạt dưa và nói chuyện, càng những đoạn nhố nhăng thì càng có nhiều tiếng cười thích thú. Làm sao có thể đề cao những khán giả ấy được, và với những khán giả ấy, làm sao có thể đòi hỏi sân khấu đi lên? Chuyện gì cũng coi như chuyện đùa ư? Đó là cái chết! Tôi không muốn đùa theo kiểu ấy, tôi luôn nghĩ rằng phải nghiêm túc trong công việc, nghiêm túc còn chẳng ăn ai, nữa là vẩn vơ đùa bỡn.
– Phải anh muốn nói rằng mọi thứ văn chương văn hóa sặc sỡ hiện nay chẳng phải là một điều đáng tự hào ?
– Tôi biết, tôi từng “đọc” thấy lối tự hào đó trong tâm lý của những người trong cuộc. Khi của làm ra chẳng có gì hơn, người ta quay về tự ca tụng. Rồi sự tự hào này lại được chính các ông chủ văn nghệ công nhận. Họ phải công nhận vì văn nghệ thành công tức là họ có thành tích; trong sự dắt dẫn, họ đã có công lớn. Xin nói tiếp về mối liên hệ giữa văn chương và đời sống Hãy nhìn vào sự sản xuất nói chung. Hàng hoá chúng ta làm ra nhiều, nhưng không có cái gì độc đáo mới lạ càng không bao giờ theo kịp nhu cầu con người hiện đại. Nhà xây nhiều nhưng không có nổi một khu phố đẹp. Chung quanh các con đường giao thông huyết mạch xứ sở, các thành phố phình ra và cả nước gợi ra hình ảnh con người có bộ ruột khổng lồ. Tất cả cứ làng nhàng mà tồn tại bên nhau. Cách làm ăn này nay cũng đang chi phối cả sự sản xuất tinh thần. Các điệu múa giống nhau. Các tượng đài lặp đi lặp lại. Các tiết mục sân khấu đều kết thúc có hậu. Về số lượng cái làm ra viết ra chưa phải là nhiều nhưng vì kém chất lượng nên người ta đã thấy bội thực. Chắc chắn nó sẽ không có chỗ đứng trong đời sống tương lai. Nói nay là lúc người ta làm để mà làm là với nghĩa đó. Nói riêng về phê bình văn học, trong khi viết, các đồng nghiệp của tôi nếu không tán tỉnh nhau một cách lộ liễu, thường cũng chỉ cãi nhau quanh một vài chuyện linh tinh, rồi bẻ câu, bẻ chữ, vặn vẹo nọ kia mà không đặt ra những vấn đề lớn của cả nển văn học để cùng nhau suy nghĩ và giải quyết. Tầm nhìn của một con người của một cây bút quá hạn hẹp. Thường tôi bị tẩy chay vì hay chê quá, nói cho lịch sự là đòi hỏi cao quá cầu toàn quá. Nhưng, một cách tổng quát, tôi cho văn chương thời nay không chỉ kém văn chương thế giới mà ngay trong phạm vi nước mình mà nói với nhau thôi, các nhà văn thời nay kém xa các thế hệ đi trước. Thật là một điều oái oăm nhưng tôi có cảm tưởng chính cái mà con người hiện nay thiếu, lại là lý tưởng, là sự ao ước, là sự tự tin, tin rằng nếu cố gắng và làm việc theo phương hướng đúng, chính mình và những người quanh mình có thể vươn tới những đỉnh cao chứ không phải lúc nào cũng lờ đờ lẹt đẹt như thế này. Bởi thiếu đi cái khát vọng lớn là vấn đề của cả phong trào chung nên trên đại thể chúng ta đang trở nên tầm thường. Và nếu bây giờ còn có người ham học ham làm thì mọi sự chăm chỉ, chịu ngồi vào bàn, chịu viết chịu in, rồi cũng đến trở nên vô nghĩa. Trong số các quy luật sinh học, tôi nhớ có cái quy luật này liên quan tới tiến hóa: đó phải là sự tiến hóa của cả quần thể. Không thể có tiến hóa ở từng cá thể riêng lẻ.
Nguồn: http://vuongtrinhan.blogspot.com/2015/09/oi-song-ra-sao-thi-van-chuong-nhu-vay.html