Khủng hoảng, phản kháng & dối lừa

Inrasara

1. Lịch sử nhân loại thế kỉ qua, mỗi biến động thời cuộc luôn kéo theo khủng hoảng giá trị. Mỗi khủng hoảng giá trị mang trong nó khả tính cách mạng, làm nên những thay đổi lớn. Thay đổi lớn về nhiều mặt. Từ chính trị xã hội cho đến văn hóa tư tưởng và dĩ nhiên – cả văn học nghệ thuật. Thay đổi lớn và thành tựu lớn.

Sau thế chiến thứ nhất, thế hệ mất gốc (hay thế hệ mất mát) lost generation ra đời. Một thế hệ hoàn toàn đánh mất niềm tin vào các lí tưởng từng được coi là thiêng liêng như: tiến bộ, văn minh, ái quốc, bổn phận… Thế hệ đã sản sinh ra các nhà văn tài danh: Ernest Hemingway, F. Scott Fitzgerald, T.S. Eliot, E.M. Remarque…

Thế chiến thứ hai kết thúc, khủng hoảng khác nổ ra. "Sự hoài nghi của các văn nghệ sĩ thế hệ trước liên quan đến tài năng của họ. Ngược lại, với văn nghệ sĩ hôm nay, sự hoài nghi động chạm đến sự cần thiết của chính nghệ thuật"(1) Hoài nghi văn chương, thế hệ văn nghệ sĩ dấn thân xuất hiện: J-P. Sartre, A. Camus… ảnh hưởng rộng lớn trên toàn thế giới. Thế kỉ hai mươi sắp kết thúc, nhà văn chẳng những hoài nghi nghệ thuật thôi, mà họ còn hoài nghi chính ngôn ngữ, vốn được coi là phương tiện chuyển tải ý tưởng. Qua đó, hàng loạt nhà văn hậu hiện đại lớn ra đời.

Ngoài kia là như thế, Việt Nam thì sao?

Không kể thế hệ tràn "niềm tin và hi vọng" sản sinh nền "văn học phải đạo", một nền văn học đáng "đọc lời ai điếu"(2); không kể khối khổng lồ cây bút hì hục viết với mục tiêu phấn đấu vào Hội Nhà văn Việt Nam, rồi nghỉ, chuyển sang làm việc khác; không kể các nhà văn viết trong cõi mù mờ hay cày sâu cuốc bẫm nơi đám ruộng truyền thống; cũng không kể bộ phận nhà văn có chân đứng trong xã hội, an phận chấp nhận tiện nghi bé nhỏ, an ninh bé nhỏ, tự do bé nhỏ rồi câm lặng khiếp nhược trước bất công xung quanh; càng không kể vài nhà văn đầy tài năng và ý thức sáng tạo, nhưng khi có chút tiếng tăm, vội về hưu non, quay sang viết sách ba xu nhảm nhí(3) – ở đây ta chỉ đề cập đến kẻ sáng tạo như là sáng tạo, sáng tạo khi đã kinh qua cuộc khủng hoảng lớn của tinh thần.

2. "Khủng hoảng như một tín hiệu tốt lành"(4).

Tôi đã viết như thế, non mươi năm trước. Tín hiệu tốt lành từ thời đổi mới với những tên tuổi phản kháng sáng giá như Bùi Hoằng Vị, Nguyễn Quốc Chánh, Trần Tiến Dũng, Phan Bá Thọ, Nguyễn Viện… cho đến thời hậu hiện đại [Việt Nam] qua sự xuất hiện của Nhóm Mở Miệng cùng mươi nhà văn tài năng khác sáng tác trong tinh thần dân chủ mới.

Đó là các vệt nắng hiếm hoi giữa vùng sương mờ của nền văn học Việt Nam đương đại. Mươi năm thử ngoảnh lại để làm cuộc kiểm kê đo đếm: Tốt lành thì ít, còn độc hại ngày càng nhiều, lớn dậy áp đảo làm teo tóp mấy vệt nắng le lói kia.

Teo tóp từ bên trong…

Hời hợt tư tưởng, thế nên khủng hoảng nếu có, chỉ là khủng hoảng bề mặt. Hệ quả là mỗi phản kháng chỉ là những thứ phản ứng lớt phớt, cạn cợt, rộ lên một hồi rồi thôi, không gì khác, không gì thêm. Như cây non vươn vội lên khoảng xanh, chỉ qua cơn nắng nhiệt đới đầu mùa, đã tàn lụi nhanh chóng. Tận sâu thẳm tâm hồn ta chưa xảy ra cuộc nổ lớn, để ta có thể phản tỉnh sâu và toàn diện, qua đó nhà văn đặt vấn đề trên nền tảng vững chắc hơn, đẩy vấn đề đi tới cùng hơn.

Bất tín đại học các loại, hỏi có nhà phê bình [tương lai] nào đứng giữa giảng đường chửi rủa chương trình lạc hậu kia và dũng cảm từ bỏ nó chưa? – Chưa! Hết còn tin tưởng vào sứ mệnh văn học, có nhà văn nào dám cắt đứt với văn giới, không thèm nhìn lại văn chương chữ nghĩa chưa? – Chưa! Hoàn toàn mất niềm tin vào cơ cấu xã hội hiện đại, có nhà thơ Việt Nam nào đã thắt cổ tự tử chưa? – Càng chưa hề!

chích một giọt máu đem xét nghiệm

tý trí thức – tý thợ cày – tý điếm

tý con buôn – tý cán bộ – tý thằng hề

Phật và Ma mỗi thứ tý ty

khốn nạn thân nhau

nặng kiếp phân thân mặt nạ

… đổi mới thật hay giả vờ đổi mới?

máu nhiễm trùng ta có thể thay chăng?

… Ta là gì?

ta cần thiết cho ai?(5)

Cả thế hệ với bao nhiêu người cầm bút đã trụi hết niềm tin, ở đó dù khủng hoảng giá trị đã xảy ra, nhưng sáng tác của ta cứ nghèo nàn, èo uột. Ở cá thể, sau mỗi một nỗ lực là nhà văn như thể muốn làm hụt hơi. Văn học Việt Nam cứ thế mà nghèo nàn và không thể… lớn. Bởi các vệt sáng hiếm hoi kia chẳng những không biết và thiếu khả năng tự nuôi lớn đã đành, chúng càng không được một lượng bộ phận độc giả tối thiểu trong cộng đồng tự do hỗ trợ, khích lệ và tiếp lửa mà luôn bị khống chế, áp đảo từ môi trường văn học xung quanh. Mọi mặt, mọi nơi, mọi lúc.

3. Nhìn nhận nhà văn Việt Nam hôm nay "sống và viết hoàn toàn tự do,"(6) – dù phát ngôn xuất phát từ kẻ sáng tác hay người làm phê bình, nếu không phải là hoang tưởng ngu ngốc thì chắc chắn là thứ tự dối lừa, không hơn không kém.

Một nền văn học tự do phải là nền văn học trong đó mọi người học tự do, viết tự do, in ấn và phát hành tự do, tiếp nhận tự do, phê bình và thảo luận tự do. Văn học Việt Nam đã nhận được đủ đầy nỗi ấy chưa? – Chưa, hoàn toàn chưa.

Học, cơ chế Đại học ta muôn năm đóng cửa với cái mới. Sinh viên Việt Nam mơ hồ về các trào lưu văn học tiên tiến trên thế giới hiện tại. Cả với sinh viên khoa văn chương. "Ở nước ta hiện nay thì những suy kém về giáo dục – nhất là ở cấp đại học – quá đỗi trầm trọng, thể chế lại quá cứng nhắc, ù lỳ, và chưa có dấu hiệu nào cho thấy sự ù lỳ này sẽ giảm đi trong thời gian trước mắt"(7). Ta tiêu phí hết thời thanh xuân cho những thứ cũ kĩ, học vẹt và nhai lại mấy thứ cũ nát để trả bài cho thầy, để bước qua khóa luận. Ví có chút đầu óc khám phá cái mới, ít tinh thần phản biện, sinh viên Việt Nam hiếm khi được giáo sư ủng hộ, khuyến khích. Ngược lại là khác. Cho nên, chỉ cần một nhắc nhở, nửa trừng mắt cảnh cáo, tất cả đều trở về nề nếp khuôn phép, vâng lời thầy ngay. Không biết thiên hạ đi tới những đâu, thì làm gì có chuyện "tiếp thu tinh hoa thế giới"?

Viết hoàn toàn tự do, – đúng lắm! Đổi mới và cởi trói, ta đã toàn quyền tự do, thơ vần hay không vần, vắt dòng hay trình diễn, truyện ngắn biểu dương sex, thơ tự do siêu thực bí bức hay siêu hình bí hiểm, tiểu thuyết cách tân giả mạo với phê bình cách mạng miệng lưỡi, cùng đủ kiểu làm dáng trí thức. Chúng chỉ vừa đủ cho kẻ tò mò nhăn trán, chớ chuyện nó đã thực sự "gây chấn động"(8) dư luận văn giới thì chỉ là một tưởng tượng phi thực! Ở mức độ hay khía cạnh nào bất kì, "hậu đổi mới là thời kì hoàng kim của tự kiểm duyệt"(9). Mà tự kiểm duyệt thì còn gì là sáng tạo. "Tự do" của đại bộ phận nhà văn Việt Nam hôm nay là tự do viết về đủ thứ chuyện, thử nghiệm mọi thủ pháp khiến không ít người mang ảo tưởng tệ hại, ảo tưởng cả ở bộ phận cây bút được cho là cách tân, cấp tiến. Chỉ trong vùng tối sáng nhập nhằng kia thôi, sến với tục tĩu lên ngôi và làm mưa làm gió. Khốn khổ thay, ta được tự do tất, ngoại trừ phơi bày cái sự thật thực nhất của hiện trạng xã hội.

Viết tự do luôn song hành với in ấn và phát hành tự do. Chưa có tự do báo chí, thì mệnh đề sau chỉ là một phát ngôn tự lường gạt. Dù "được quyền nghĩ những điều đã ước" (thơ Mai Văn Phấn), cả được quyền viết những điều đã nghĩ, nhưng in ấn và phát hành thì – chớ hòng. Nếu cái nghĩ, cái viết kia có tầm – tầm tư tưởng, nó càng không. Nhà văn Việt Nam hoàn toàn tự do đăng sáng tác của mình lên mạng, đủ loại mạng văn học mở ra khắp nơi, – không sai. Nhưng đâu là độc giả trực tiếp như là chất kích thích quan yếu nhất cho mọi sáng tạo văn học? Văn học tiếng Việt hải ngoại bị phân cách với độc giả đã đành, ngay cả sáng tác ngoại vi ở trong nước cũng bị cấm cản. Không phải không lí do khi không ít tác giả hải ngoại nóng lòng thấy tác phẩm mình được in trong nước, dù đã phải chịu vài thỏa hiệp(10).

Còn độc giả hôm nay thế nào? Chúng ta đang bị đóng khung khô cứng trong môi trường văn học ngột ngạt, tù túng, một môi trường văn học vô cùng lạc hậu. Ngay từ khởi đầu hành trình đến với văn học, tinh thần cảm thụ cái mới của độc giả tương lai bị bó hẹp trong tầm mong đợi quy định từ chương trình Đại học, sau đó năng lực tiếp nhận sự sáng tạo bị phân tán bởi các phương tiện thông tin đại chúng có mặt khắp xung quanh; rồi khi độc giả đang hoang mang mất phương hướng thì họ liền được định hướng qua mênh mông giải thưởng từ trung ương tới địa phương; và cuối cùng điểm sáng thoi thóp còn lại nơi tâm hồn người đọc bị dập tắt hoàn toàn bởi giọng điệu phê bình các loại đang thịnh hành(11).

Phê bình, ta "tự do" triển khai đủ kiểu phê bình. Dù là Phê bình bè phái hay Phê bình núp bóng, dù là Phê bình quan phương hay Phê bình hàng hai, hoặc cho dù phê bình là Phê bình chỉ điểm hay "Phê bình liếc nhìn"(12), chúng có thể khác nhau ở tên gọi, ở mục đích cá thể, thậm chí chống nhau kịch liệt vì lợi ích phe nhóm, nhưng tất cả đều nhất quán ở ý định: Triệt hạ ý hướng cách tân, ý chí sáng tạo khác mình, và nhất là triệt tiêu tự do nghệ thuật; qua đó chi phối phủ trùm lên hệ mĩ học văn chương Việt Nam một thời, áp đặt lên độc giả thứ tư tưởng nghệ thuật đầy bảo thủ và phản động.

Thế nhưng, khi các loại phê bình trên đã trở nên lạc thời và không còn hiệu quả nữa, để hội nhập với thế giới, văn đàn Việt Nam dăm năm qua nổi lên loại phê bình mới. Đó Phê bình "trẻ" ba hoa hãnh tiến trên nền kiến thức mò mẫm(13) bên cạnh Phê bình giả cầy nhân danh sự đổi mới nghệ thuật, có tri thức nhất định nhưng xuất phát từ các toan tính khác nhau, đã chơi trò lập lờ đánh lận, tung hỏa mù làm lạc hướng độc giả(14). Tội là, chính hai loại phê bình này đang chiếm lĩnh diễn đàn, ngày càng làm vẩn đục khí hậu văn học vốn đã vẩn đục.

4. Như vậy, văn học Việt Nam về đâu? Cụ thể hơn – nhà văn sẽ viết thế nào?

Khi bao nhiêu khuynh hướng chính lưu quy định mọi bộ phận sinh hoạt văn học, khi khí hậu văn học chính thống phủ trùm tất cả, khi sáng tác giả cách tân bắt tay với phê bình giả cấp tiến thao túng văn đàn, và khi tài năng văn chương bị bóp nghẹt, sức sáng tạo bị gặm nhấm, bị bào mòn ngày qua ngày, miệt mài và kiên trì – kẻ sáng tạo chán nản rồi bỏ cuộc. Họ không thể không bỏ cuộc, khi mục tiêu mất hút. Khi kẻ sáng tạo bị xã hội coi khinh rẻ như một sinh thể thất cơ lỡ vận, một công dân vô tích sự, thậm chí một tên vô lại cùng mênh mông hình dung từ tiêu cực khác, – họ đầu hàng.

Đầu hàng.

Bỏ cuộc chữ nghĩa là đầu hàng đã đành, ngay cả khi họ lao vào viết báo kiếm sống, viết truyện diễm tình éo le, viết kịch bản phim để trở thành nhà văn ăn khách, hay khi họ "quyết đui điếc trước thời cuộc, chui vào vỏ sò cô độc, viết vọng ra" cũng là cách đầu hàng. Đầu hàng, khi "nhà văn chạy thoát thân, như đám chuột vội vã rời bỏ con tàu sắp đắm"(15) thì miễn rồi, cả khi họ đã giật được vài giải thưởng con con, được ném cho cái ghế quan văn nho nhỏ để từ đó đăng đàn phát ngôn khệnh khạng, là thứ đầu hàng trá hình khác. Đầu hàng, khi nhà văn tình nguyện làm thứ nô bộc viết theo chỉ thị của mọi loại quyền lực hay viết phục vụ thị hiếu đám đông; và sau rốt, đây là kiểu đầu hàng nguy hiểm hơn cả, khi đầu hàng khoác lên mình đủ màu áo cấp tiến – cấp tiến trong tôn vinh giá trị ảo, tụng ca cách tân giả, cách mạng dối lừa.

Thì… văn học Việt Nam về đâu, ngày mai?

Sài Gòn, 25-2-2011

_______________________

Chú thích

(1) "Le doute des artistes qui nous ont précédés touchait à leur propre talent. Celui des artistes d’aujourd’hui touche à la nécessité de leur art", Albert Camus, Sứ mệnh văn nghệ hiện đại, Trần Phong Giao dịch, NXB An Tiêm, Sài Gòn, 1974, tr. 29.

(2) "Văn học phải đạo" là dụng ngữ của Hoàng Ngọc Hiến; "Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa", Nguyễn Minh Châu, báo Văn nghệ, số 49&50, 5-12-1987.

(3) Trần Thiện Khanh viết về trường hợp Nguyễn Huy Thiệp: "Cũng từ các sáng tác như Tiểu long nữ, Gạ tình lấy điểm của Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta còn thấy: thái độ thỏa hiệp và dễ dãi viết theo đơn đặt hàng, cùng những mưu toan thực dụng của nhà văn hiện nay… Trước biết bao nhiêu thứ mồi, một nhà văn có bản lĩnh như Nguyễn Huy Thiệp còn nhanh chóng bị “sa ngã”, thì chuyện những tác giả trẻ nào đó khó tránh được những cám dỗ không phải là vô lý" (Trần Thiện Khanh, "Hiện tình sáng tác tiểu thuyết nhìn qua một trường hợp", Phongdiep.net, 24-2-2011).

(4) Inrasara, "Khủng hoảng thơ trẻ Sài Gòn", Song thoại với cái mới, NXB Hội Nhà văn, H., 2006, tr. 63-92.

(5) Nguyễn Duy, Nhìn từ xa… Tổ quốc, NXB Trẻ TP Hồ Chí Minh, 1989.

(6) Về "tự do", nhà thơ Vi Thùy Linh viết: "Tôi luôn sống và viết tự do, như mình muốn, dám nghĩ dám nói dám làm như chính mình ấp ủ và muốn được làm sứ mệnh của các nhà thơ, không chỉ nói lên những vấn đề to lớn của đất nước hay thời đại…" (Vi Thùy Linh, "Sức sống và tín hiệu Việt Nam trong thơ tôi", do Phạm Xuân Nguyên dẫn lại trong bài "Phê bình văn học hiện nay: cái thiếu và cái yếu", tham luận tại buổi toạ đàm ở Viện Văn Học: "Phê bình văn học – Bản chất và đối tượng", Hà Nội, 27-5-2004).

(7) Trần Hữu Dũng, "Trí thức Việt Nam ở nước ngoài và Đại học Việt Nam", Tuanvietnam.net, 13-2-2011.

(8) Hoàng Hưng nhận định về sáng tác đương đại: "… Tuy chưa mới bao nhiêu về thể điệu, cấu trúc, từ pháp, cú pháp, nhưng Vi Thùy Linh chẳng hạn, gây chấn động nhờ cảm hứng bạo liệt, tuôn trào của người đàn bà yêu một thứ tình khát dục không cần kiềm chế hay giấu giếm, là tiếng nói chân thực của một bộ phận lớp trẻ thời chuyển tiếp hai thiên kỷ. 

Nhóm “Mở miệng” sẽ có vị trí trong lịch sử thơ Việt, ghi dấu buổi giao thời hỗn loạn, cái tục tĩu, rác rưởi, “hạ cấp” ngang nhiên đòi quyền ngôn luận bình đẳng với cái đạo đức (giả), vàng son (rỏm), “cao quí” (bịp). Những hình thức như giễu nhại, thay lắp từ, khai thác vốn từ lóng – ngọng của giới bụi đời rất ăn với tinh thần dân túy cực đoan của nhóm trẻ bản lĩnh này. Nhóm này “cách tâm” và “cách tân” đồng bộ. Nếu là ở phương Tây thì chẳng thua gì Dada!" (Hoàng Hưng, "Thơ – cách tân và cách tâm", Phongdiep.net, 19-2-2011).

Về Nhóm Mở Miệng, Hoàng Hưng nhận định ngắn gọn nhưng khá chính xác. Còn thơ Vi Thùy Linh "gây chấn động" thì rất cần xem lại. Có thể loại thơ kia ít nhiều làm xôn xao dư luận độc giả ở phía Bắc khi mới xuất hiện, với người đọc trong Nam thì – không! Riêng thái độ thơ của Vi Thùy Linh, hoàn toàn nhảm, không đáng nói. Tôi đã một lần nhận định về hiện tượng cách tân thơ Việt hôm nay: "Không thể hiểu hết nỗ lực của Mai Văn Phấn, nếu không đặt anh và sáng tác của anh vào môi trường xã hội và môi trường thơ hiện đại miền Bắc. Không phải trong thời gian dài sự sáng tạo và thưởng thức thơ ấy bị bó hẹp bởi khuôn phép hệ mĩ học hiện thực xã hội chủ nghĩa mà đúng hơn, bởi chính quan niệm mang tính phổ quát của người làm thơ và người đọc thơ. Thơ là thơ ca, nó đòi hỏi sự trau chuốt kĩ lưỡng ở ngôn từ, chặt chẽ của tứ thơ, ý thơ cần đẹp, thi ảnh chọn lọc, giọng điệu phải nên thơ. Phá cách tới đâu, người làm thơ cũng chỉ dừng lại ở Đặng Đình Hưng, Lê Đạt hay Dương Tường. Có vậy thôi mà cũng đã chịu bao hệ lụy.

Nghĩa là thơ vẫn cứ phải nên thơ. Và mọi người chấp nhận kêu nó là thơ. Sự thể không có gì sai cả.

Ở miền Nam thì khác. Mười năm sau đất nước nhập một, cả khu vực rộng lớn này hầu như không nảy nòi một thi sĩ xứng danh nào. Mãi mở cửa cởi trói, các thi sĩ miền Nam mới rục rịch làm thơ trở lại, tìm mọi phương cách để đưa sản phẩm của mình đến với công chúng. Ở đó, họ đã tiếp nhận nhiều truyền thống khác lạ. Thơ tự do, đi trước họ là mấy tên tuổi lẫy lừng: Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên,… Hậu hiện đại sơ kì, họ có một Phạm Công Thiện với vô lượng từ xô đẩy nhau vỡ bờ vỡ đê, cuồn cuộn khó hiểu nhưng đẹp và lôi cuốn lạ thường; một Bùi Giáng điên chữ, xáo trộn ngôn từ cả Việt lẫn Hán Việt vào bát quái trận đồ chữ liên tu bất tận, đọc chẳng hiểu ông nói mô tê gì cả nhưng vẫn cứ thích. Làm thơ bất kể ngôn từ thông tục, thông tục đến thô tục, họ có Nguyễn Đức Sơn, Nguyễn Tôn Nhan ở sau lưng. Thơ huyền ảo lãng đãng sương khói, Phạm Thiên Thư đã lừng lững. Thơ Thiền, thơ siêu thực, thơ hiện sinh, thơ điên, ca từ nhạc sến, nhạc vàng, vọng cổ… Nghĩa là họ tự do và thoái mái thể nghiệm bất kì loại thơ nào mà họ thích. Quan trọng không kém là các bộ phận công chúng văn học khác nhau chấp nhận chúng là các sáng tạo nghệ thuật (Inrasara, "Mai Văn Phấn, kết thúc cho một khởi đầu", Tienve.org, 1-2009).

(9) Phạm Thị Hoài, "Nhà văn thời Hậu đổi mới", Talawas.org, 2004.

(10) Sự kiện Thơ đến từ đâu? vừa qua là minh chứng rõ nhất.

(11) "Người đọc cũng cần được đào tạo”, Inrasara trả lời phỏng vấn của Vĩnh Quyên, tạp chí Thơ, số 1, 2006.

(12) Inrasara, "Điểm danh căn bệnh phê bình hôm nay" (bản chỉnh sửa), Inrasara.com, 6-9-2008 http://inrasara.com/?p=799

(13) Lê Thiếu Nhơn, “Mùa hào hứng cách tân thơ trẻ”, Hội thảo khoa học Đời sống Văn học – Nghệ thuật TP Hồ Chí Minh thời kì hội nhập tại TP Hồ Chí Minh, 16-10-2007 http://lethieunhon.com/read.php/2251.htm. Xem thêm phần bình luận: Inrasara, "Nhận diện các trào lưu thơ Việt đương đại", Tienve.org, 19-8-2010.

(14) Nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn trả lời phỏng vấn: "Bây giờ người viết hoàn toàn tự do. Chỉ trong một tích tắc, người viết hoàn toàn có thể xuất bản tác phẩm của mình ở bất cứ một blog nào hoặc gửi cho các trang mạng văn chương khắp nơi… Bây giờ mọi người đổ lỗi cho không có tự do sáng tác, không có tự do nghệ thuật. Điều đó không hẳn" (báo Thể thao – Văn hóa, ngày 8-2-2011).

Chưa hiểu biết đủ đầy, đánh đồng tân hình thức với hậu hiện đại, Nguyễn Chí Hoan nhận định: "Một nhánh đi mới đây của xu hướng thơ cấp tiến là “thơ tân hình thức”, được xem là một sản phẩm mang tinh thần “hậu hiện đại” rõ rệt nhất của ngôn ngữ thơ ca, ít ra cũng là thơ ca tiếng Việt đương thời.

… Nhưng những bài thơ “tân hình thức” tiếng Việt trong nước cho đến nay tỏ ra không mấy thuyết phục, không phải vì nó mới quá, mà vì nó quá tếu táo hay khô cứng. Nếu sự tếu táo còn dựa được vào yếu tố trào lộng gây cười thì sự khô cứng lại không thể dựa gì vào nghệ thuật kể chuyện thô sơ và ngôn ngữ quá thông thường, thậm chí còn gò bó.

Trong khi đó kể chuyện bằng thơ là một truyền thống lâu đời ở người Việt…" ("Thơ, những đụn cát vô hình", báo Văn nghệ trẻ, 20-2-2011).

(15) Inrasara, “Làm nhà văn có nghĩa là bị đẩy xuống tàu”, tạp chí Tia Sáng, 5-9-2010.

Comments are closed.