xẩm chợ
Tôi ngồi ăn cháo bột quanh những con số
khoan giếng
đục bê tông
gọt cằm
nâng ngực… phố Lý Quôc Sư
Paul Klee có ghé qua, không ăn
liếc dọc những con số đảo màu
rất khác trong tranh mình
rồi lặng lẽ như một thiền sư cởi bỏ chay tịnh
lên chuyến bay đêm còn thơm mắt ớt xanh
cọng rau ngò phố cổ.
Tôi còn mơ gì nữa?
Bát cháo toàn cầu hóa đủ các quan viên
anh hùng Lương Sơn Bạc ngả mũ chào thời đại thi ca
sùng bái các danh xưng
và cổ phiếu.
Chả trách người đi dưới mưa sa… đã thoát về trời
chén rượu trắng trong hốc mắt trắng dã
gào theo giấc điệp tàu than không kể xiết
bừng bừng thứ âm thanh rộng rãi của
một đế chế chật chội
hàng nội địa và
hàng xách tay có bảo chứng.
thế kỷ đánh tráo
Sàn diễn đã lên đèn.
Cây đàn sáu dây nâng lên ngang ngực.
Mắt ướt. Phát ra vài nốt mưa thu.
Phải mất nhiều cuộc mưu sát
những giọt âm sắc nhọn mới chịu
lộ nguyên hình là, cái mặt nạ –
của lưỡi lê.
Ùy (*) Cái mặt nạ của lưỡi lê
gầy và sang như bông thủy tiên
ấp úng dưới bóng cờ đánh tráo vào màu máu
đống xà bần học thuyết ngạo mạn.
Đẹp gì cánh bướm lượn qua trang thơ vị lai.
Mi lọc màu rất nhanh cho
khóa sol đổi giọng thành tiếng hót
trên rặng núi phía chiến địa, đã xanh.
(*) Nói theo tiếng Pháp “Oui = Vâng” hay dùng trước đây.
đọc rời
con chim bói cá tư lự bên bờ ao
cánh hải âu thênh thang ngoài biển sóng
kệ sách cũ lim dim bên góc mờ lặng tối
những sáng thế luận phẩy tay
bao biện cả trời sao
ngươi còn tìm ta làm gì?
đá phượng hoàng
Nước của vực sâu
Nơi tôi phải lòng bản thân mình.(*)
Dẫn độ ông chú ruột đến chân núi Phượng Hoàng
HẮN mới tìm được một cục đá ưng ý.
Cục đá rắn,
vừa nằm gọn trong nắm tay của đêm.
Y chang cục đá đặt trên cái đĩa trước ảnh thờ
thi sĩ Ngô Kha.
Ông chú trống rỗng như trời đêm.
Hai tay ông bị còng tréo ra phía sau
miệng và mắt bị cái áo đẫm mồ hôi trên người ông
HẮN lột ra thít chặt đến tối thui như địa ngục.
có khi nó chỉ dọa mình
như ngày nhỏ nó hay nghịch đất
bị mình dọa thả xuống ao trước nhà,
vì HẮN rất sợ nước.
Nước của vực sâu
Nơi tôi phải lòng bản thân mình.
Lạ nhất là trong đêm tối mò
HẮN lại thấy chú mình giống con bò cái đương rỡ đực.
Một thoáng hoang dã
dòng sinh thực rỉ ra từ phía sau cái mông con bò
đổ dồn vào HẮN đỏ ngầu
hai cục than trong đêm
HẮN kìm chế đến cùng tia sáng ô nhục rần rần chạy
vào cú liếm môi rất nhanh
theo cách du thực giữa dã thú – với dã nhân
quanh đàn ruồi bay vo vo
trên chuyến bus xa lạ buồn nôn của Camus.
Nước của vực sâu
Nơi tôi phải lòng bản thân mình.
HẮN định nói gì đó với chú
nhưng lại thôi
lỡ đâu cái tiếng bí ẩn rỉ sắt của con dao cùn
trong miệng HẮN bay trở về làng
thành vật chứng lịch sử. Thì sao?
Mà lịch sử mù còn đang xui ám HẮN
tập trung vào lưng ông chú
lấy hết sức bình sinh HẮN nện cục đá đúng vào gáy chú
một phát – như trời giáng.
Chỉ có tiếng ự thoát ra rất mảnh trong đỉnh điểm
của khoái lạc
cái xác đá tảng đổ gục xuống lòng khe.
Có hạt sương hay vì sao gì đó vừa di chuyển
HẮN không để ý.
Hóa ra cái xác đổ gục
không phải là xác con bò cái rỡ đực
nếu đúng thì nó đã
rống lên một tiếng rợn trời cho hả!
Nước của vực sâu
Nơi tôi phải lòng bản thân mình.
Kỷ nguyên này là của ai trong bóng tối?
một người còn sống
bên một người đã sống.
một người chưa biết mình có tội gì
bên một người vừa hành tội cái án
trả nợ máu cho nhân dân
như cách viết cao đạo trong biên niên sử.
Một người đứng.
Một người nằm.
Hai cái ma nơ canh đang rã bột thạch cao
trong điệp khúc định mệnh chua chát của già Bêtô
xập / xình / xập / xình … dưới trời đêm.
Nước của vực sâu
Nơi tôi phải lòng bản thân mình.
(*) Francisco de Quevedo (1580 – 1645) đã chỉ cho tôi
cách kiềm chế nỗi sợ hãi của mình.