CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN Ở LIÊN XÔ (1)

Chế độ phong kiến ở Liên Xô

 

Anatoly Tille

Phạm Nguyên Trường dịch

 

(Bản dịch được thực hiện nhân kỉ niệm 20 năm ngày tan rã Liên Xô)

 

Lời nói đầu cho lần xuất bản thứ hai

Phủ nhận những sự kiện “HIỂN NHIÊN” là một việc cực kì khó. Càng khó phủ nhận các “HỌC GIẢ CÓ UY TÍN”. Đã hàng ngàn năm, có hàng triệu người nhìn thấy mặt trời mọc và lặn, nghĩa là quay xung quanh trái đất. Hệ địa tâm của Ptolemy-Aristotle là hiển nhiên và vì vậy mà trở thành bất di bất dịch. Kopernik, nhà bác học thiên tài, phủ nhận hệ thống đó nhưng sinh thời đã không cho công bố phát minh của mình. Tác phẩm của ông bị nguyền rủa. Năm mươi năm sau ngày ông mất, Giordano Bruno phải chết trên dàn hoả thiêu. Năm mươi năm sau nữa, Galilei phải sám hối vì “sai lầm” trước toà án giáo hội. Hàng nghìn nhà bác học, kể cả các nhà thiên văn học, đã phủ nhận sự kiện trái đất quay quanh mặt trời. 

   
Toàn thế giới, hàng triệu người đã nhìn thấy người ta “xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô”. Ngay cả những kẻ thù không đội trời chung với Liên Xô cũng đã từng chiến đấu cho chủ nghĩa xã hội. Còn một số người, thí dụ G. Orwell, nhìn thấy những khía cạnh ghê tởm của chế độ đó thì lại cho rằng chủ nghĩa xã hội là một xã hội ghê tởm. Chủ nghĩa xã hội hiện diện trên các băng rôn, biểu ngữ, trong các nghị quyết đại hội Đảng[1], trong các kế hoạch và trong lòng nhiệt tình của quần chúng trên các công trường xây dựng vĩ đại, trong các trước tác của các học giả, các nhà văn, các thước phim vân vân và vân vân. Chưa nói đến các chuyên gia phương Tây. 

Nhưng tại sao Liên Xô, dù đã có những hi sinh vô bờ bến, vẫn không những không vượt được, mà đơn giản là còn không đuổi kịp được các nước tư bản về năng suất lao động, mặc dù theo Marx thì chủ nghĩa xã hội là hình thái xã hội cao hơn? Câu trả lời có thể tìm được, vấn đề là không ai hỏi cả! Mà câu trả lời chỉ đơn giản là: tại nước Nga đã có một chế độ xã hội chủ nghĩa về hình thức, phong kiến về nội dung. Đấy chính là nội dung của cuốn sách này. 

Hoá ra cuốn sách này bao quát toàn bộ lịch sử của nước Nga Xô viết, nghĩa là từ năm 1917 cho đến khi nó cáo chung, dù khi chắp bút tôi không nghĩ như thế (tôi không thế nào tưởng tượng nổi sự tan rã của Liên Xô). Chưa hề có một cuốn sách nào tương tự như thế về lịch sử nhà nước Xô viết và hệ thống luật pháp của nó và tôi nghĩ còn lâu mới có một cuốn như thế. Đã mười hai năm trôi qua kể từ lần xuất bản đầu tiên cuốn sách của tôi nhưng vẫn chưa thấy có vẻ gì là người ta có ý định thảo luận vấn đề. Đơn giản là không ai. 

Đúng hơn là tôi không viết cuốn sách mà là nghiên cứu chế độ của nước Nga, như người ta nói lúc đó, một cách bí mật, ngay cả với vợ mình (không phải là tôi không tin mà không muốn làm vợ con lo lắng), dù không có một chút hi vọng nào về việc xuất bản. Vì vậy mà tôi không lo kiểm duyệt, kể cả sự tự kiểm duyệt nữa. Liệu tôi có thoả mãn được trí tò mò của mình khi cố gắng tìm hiểu cái chế độ điên rồ, trong đó mọi sự đều được đặt lộn ngược từ chân lên đầu, cái chế độ mà phi lí là đặc điểm chủ yếu? 

Tất nhiên là sẽ có người viết những cuốn sách như thế, nhưng đấy là những cuốn sách post factum, nghĩa là nhìn từ tương lai về quá khứ. Còn tôi viết trong hiện tại, viết về cái hiện tồn. Tôi viết trong vòng mấy năm, ngày nào tôi cũng thu thập tài liệu, thu thập các văn bản pháp quy, các hoạt động lập pháp và quan sát cách người ta áp dụng luật pháp trong đời sống. Sau này làm sẽ khó hơn nhiều. Vì vậy cuốn sách này vẫn là độc nhất vô nhị. Có thể nói một cách chắc chắn rằng đây là cuốn tư liệu về thời đại. Vì vậy, tôi không sửa chữa, cũng không viết thêm, cũng không bình luận về những sự thay đổi về sau. Cuốn sách này là tấm bia tưởng niệm về lịch sử nước Nga. “Cải tổ” và “công khai” đã tạo điều kiện cho việc xuất bản cuốn sách vào năm 1992, dưới cái tên: LUẬT PHÁP CỦA SỰ PHI LÍ. Luật pháp phong kiến-xã hội chủ nghĩa, với số lượng in rất ít, hiện nay không thể nào tìm được nữa (trong thư viện mang tên Lenin và thư viện lịch sử thì có). 

Các sự kiện về sau được trình bày trong cuốn sách của tôi: Cuộc cách mạng tội ác vĩ đại ở nước Nga. Mafia nắm quyền được xuất bản ở Mĩ năm 2003. Các nhà xuất bản ở Nga “thời công khai hoá” không chịu in tác phẩm này. 

Trong lần xuất bản thứ nhất tôi đã mắc sai lầm mà đa số người đã từng mắc phải, đấy là đánh đồng tư tưởng cộng sản với cái chế độ ăn thịt người tự gọi mình là chế độ cộng sản. Nếu tất cả các tôn giáo đều hứa hẹn thiên đường sau khi chết để đền bù cho những khổ đau trên mặt đất thì tư tưởng cộng sản, một tư tưởng có trước cả Thiên chúa giáo, chính là ước mơ xây dựng một xã hội công bằng ngay trên thế gian này. Vì vậy, tư tưởng cộng sản là bất diệt, giống như tất cả các tôn giáo khác, ít nhất nó cũng đáng được tôn trọng. Chính vì thế mà trong lần xuất bản này tôi đã loại bỏ chương viết về chủ nghĩa Marx. Tôi cũng cắt giảm một ít và thay đổi bố cục so với lần xuất bản thứ nhất. Điều chủ yếu là việc phân tích chế độ của nhà nước Liên Xô và lịch sử từ năm 1917 đến năm 1990 là không thay đổi. 

Tôi đã nghiên cứu và mô tả cái chế độ đương thời với mình. Nhưng về mặt nào đó cuốn sách đã trở thành tài liệu về quá khứ. Tôi nói “mặt nào đó” như một lời cảnh báo cho tương lai. 

Phần I. Lời nói đầu 

Chương 1. Nói về cuốn sách

 

“… Nhận thức một cách khoa học về hệ thống của chúng ta là bất khả. Mọi việc đều bị che dấu, bị xoá nhoà. Và lạ lùng nhất là không ai cần hiểu cả. Nó đặc biệt không cần thiết đối với giới phê bình của xã hội chúng ta.”

Zinoviev

Đây không phải là cuốn chính luận (như kiểu Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Liên Xô của Khrushchev[2]) mà là một tài liệu nghiên cứu khoa học, tuy nhiên tôi muốn rằng nó phải dễ hiểu và hấp dẫn không chỉ đối với các nhà Luật học-Xô viết học mà còn hấp dẫn đối với tất cả những ai quan tâm đến các vấn đề của xã hội đương đại và các xu hướng phát triển của nó. 

Nhưng nếu tôi công nhận phát biểu của Zinoviev thì liệu tôi có thể coi tác phẩm của mình là có tính khoa học được không? Xin được giải thích: khoa học nghiên cứu các sự kiện, nhưng trong hệ thống của chúng ta, tất cả các sự kiện liên quan đến đời sống xã hội đều hoặc là các tài liệu mật hoặc là đã bị xuyên tạc đến mức khó mà rút ra từ đó được các kết luận khả dĩ. Lấy thí dụ lĩnh vực kinh tế: các số liệu do Tổng cục Thống kê công bố nói chung đều là giả. Sau khi Stalin chết, người ta thông báo cho chúng ta biết rằng tất cả các số liệu về thành tích trong nông nghiệp đều là giả, sản lượng nông nghiệp chưa bao giờ đạt được mức năm 1914. Như thế có nghĩa là các số liệu được công bố sau này là đúng ư? Có mấy năm các số liệu về nông nghiệp hoàn toàn không được công bố. Nhưng nếu ta tìm được các số liệu đó thì sao? Vô ích, vì báo cáo láo diễn ra trong mọi lĩnh vực, mọi cấp, từ nông trang đến huyện rồi lên tỉnh. Lên nước cộng hoà và Tổng cục thống kê[3]. Nhưng nếu giả sử ta có thể biết được số lượng giao nộp của từng nông trang thì sao? Cũng vô ích: hàng chục năm liền báo chí đã từng đăng việc các nông trang, thí dụ, để hoàn thành sản lượng giao nộp, đã đi mua bơ của các cửa hàng rồi sau đó giao lại cho nhà nước. Như vậy là một sản phẩm đã được nộp và thống kê đến mấy lần[4]. Có một thời (chính xác là dưới thời Khrushchev) Larionov, bí thư tỉnh ủy Riazan, nơi chuyện giao nộp vượt quá “ngưỡng chấp nhận được”, đã phải tự sát. Không loại trừ khả năng là ông ta đã được “giúp đỡ” cả trong việc này nữa. 

Trong lĩnh vực công nghiệp cũng xảy ra những chuyện tương tự, ở đây, bên cạnh báo cáo láo còn có cả việc “cấp hàng khống”: giám đốc xí nghiệp không thực hiện được kế hoạch được giao thoả thuận với giám đốc một xí nghiệp khác để vị này công nhận rằng ông ta đã cung cấp hàng cho xí nghiệp. Cũng có đủ hồ sơ cần thiết, người ta thực hiện cả việc thanh toán theo đường ngân hàng ..v.v.. và thế là cái sản phẩm không hề tồn tại này được đưa vào số liệu của Tổng cục Thống kê. Việc “cấp hàng khống” thịnh hành đến mức chính phủ phải ra nghị định (Nghị định của Hội đồng bộ trưởng Liên Xô ngày 22 tháng 8 năm 1973) về việc phạt 7% giá trị “hàng hoá”, nếu bị phát hiện[5]

Xin hãy thử nghiên cứu nền kinh tế Liên Xô trên cơ sở các dữ liệu như thế! Thế mà một số nhà kinh tế học phương Tây vẫn tìm cách nghiên cứu được và một số người (dĩ nhiên là không phải tất cả) đã đưa ra được những đánh giá nói chung khá chính xác. 

Chẳng nên nói một cách nghiêm túc về khoa học pháp lí của Liên Xô vì nó hoàn toàn phụ thuộc vào các quan điểm được áp đặt từ trên xuống và thay đổi một cách thường xuyên của Đảng và chẳng ăn nhập gì với cuộc sống hay có thể nói chỉ phản ánh được một phần rất nhỏ của đời sống. 

Thí dụ, tất cả các luật gia đều biết (đơn giản là biết) rằng tỉ lệ tội phạm ở nước ta ngày một gia tăng[6]. Nhưng điều này mâu thuẫn với luận điểm của chủ nghĩa Marx, luận điểm này khẳng định rằng tội phạm được sinh ra bởi các điều kiện xã hội của chế độ người bóc lột người. Trong chủ nghĩa xã hội, các điều kiện xã hội của tội phạm không còn, vậy thì tội phạm phải giảm dần. Nếu nó phải giảm dần thì nhất định nó sẽ giảm dần, không thể nào khác được! Số liệu về tội phạm là tài liệu mật, mặc dù đáng ra nó phải là số liệu rất đáng thuyết phục về tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Các luật gia Xô viết chứng minh tỉ lệ tội phạm mỗi ngày một giảm như thế nào? Không có cách nào hoặc đưa ra định lí mà không cần chứng minh hoặc: “Tỉ lệ tội phạm và diễn biến của nó trong giai đoạn hiện nay (giai đoạn xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa cộng sản – tác giả) nói chung là giảm nhưng không đồng đều. Tỉ lệ tội phạm trong 20 năm qua đã giảm một phần ba so với giai đoạn trước chiến tranh. Cụ thể số người bị kết án trong 100 ngàn dân đã giảm 2 lần so với năm 1940, nếu so với năm 1928 thì giảm 3,8 lần. Số vụ án trong những năm 1963-1965 là thấp nhất trong 20 năm qua[7]”. Và tác giả đưa ra kết luận về “thắng lợi vô cùng to lớn của nhà nước và xã hội Liên Xô trong việc khống chế tội phạm”! Tác giả của những câu chuyện như thế đã được phong tiến sĩ luật học và năm 1985 được nhận huân chương quốc gia đấy! 

Trong quá trình nghiên cứu của mình tôi sẽ dựa trên những sự kiện mình biết. Nhưng cần bao nhiêu sự kiện cho mỗi luận điểm? Một trăm? Một ngàn? Đó là điều bất khả nếu ta muốn có một cuốn sách với số trang in có thể chấp nhận được. Nhưng dù có dẫn ra cả ngàn sự kiện thì cũng không thuyết phục được một người “xã hội chủ nghĩa” phương Tây, nếu anh ta không muốn nhìn thẳng vào sự thật và không tha cho tôi tội “vu khống nhà nước Xô viết”. 

Mấy triệu người đã chết vì đói trong những năm 1930-1933 do chính quyền cố tình tạo ra ở Ukraine? Xin hãy suy nghĩ những từ này: “nạn đói ở Ukraine” – “vựa lúa của nước Nga”! Một số nạn nhân của thảm hoạ vẫn còn sống, thế mà năm 1988 khi những người Canada gốc Ukraine đưa ra vấn đề này thì viên đại sứ Liên Xô đã nói một cách hằn học rằng đấy là những lời dối trá, kèm theo một tuyên bố có tính nhục mạ người Canada nữa. Còn chính phủ Canada thì nhẫn nhục chịu đựng. Chả lẽ cả dân tộc Ukraine phải chết đi để bây giờ người ta buộc phải nghiến răng công nhận rằng đấy là do “điều kiện thời tiết[8]”. 

Trong giai đoạn “bán công khai” của Gorbachev, trên báo chí bắt đầu xuất hiện một vài chứng cứ về nạn đói ở Ukraine. Hồi kí của bà vợ goá của N. Bukharin nói rằng ông này có mặt ở Ukraine lúc đó và đã đưa “tất cả số tiền ông ta có” cho đám trẻ đói khát. Đấy là hiện tượng đặc thù của chế độ Xô viết: đầu tiên là tạo ra nạn đói rồi sau đó tổ chức “cứu trợ”, phát chẩn. Khi về Moskva, Bukharin đã kể lại chuyện này cho ông nhạc nghe và “gục xuống đi văng nức nở khóc” (Ngọn lửa nhỏ 1987, số 48). Xin nói thêm rằng N. Bukharin, người chiến sĩ đấu tranh cho sự nghiệp của giai cấp công nhân, lúc đó là ủy viên Bộ chính trị nghĩa là một nhà lãnh đạo cao cấp, một nhà báo nổi tiếng, nhưng sau đó ông này đã không hề nói một lời nào về nạn đói ở Ukraine cả. 

Trên báo chí người ra đã viết về cuộc bạo loạn ở Novotrerkask, tuy rằng cách đây chưa lâu nói chuyện đó có thể bị đi tù như chơi. Nhưng tôi chưa được đọc những câu chuyện về các cuộc bạo loạn ở Temir-Tau, Trerkasư và nhiều địa phương khác. 

Ở phương Tây đã có những tác phẩm chứng tỏ sự am tường của tác giả về hệ thống pháp luật Liên Xô. Dĩ nhiên là tầm bao quát của chúng rất rộng: từ ca ngợi cho đến thù địch. Nghiên cứu các kiến giải từ bên ngoài, từ những nhận thức pháp lí khác là rất hữu ích; những tác phẩm này giúp tôi nhìn rõ những điều mà trước đây tôi không nhận thấy trong hệ thống pháp lí “của mình”. Song những kiến giải “từ bên trong” vẫn chính xác hơn. Nhưng không có những tác phẩm như thế. Đa số các tác phẩm thuộc lĩnh vực luật pháp Liên Xô chỉ đơn giản là những lời biện hộ dối trá mà thôi. Chỉ viết về những vấn đề chuyên sâu mới có thể tránh được chuyện đó, nếu không thì tác phẩm khó lòng mà được xuất bản. Những tác phẩm của phương Tây viết về pháp luật của Liên Xô mà tôi biết thì hoặc là mô tả một cách tổng thể, nghĩa là đưa ra các nguyên lí và nguồn gốc hoặc là dẫn ra các định chế một cách giáo điều và tĩnh (cái mà trong luật học so sánh người ta gọi là “luật pháp sách vở”). Thực tiễn được trình bày trong sách vở Liên Xô chỉ là những tiêu bản và chẳng ăn nhập gì với thực tiễn cả. Mặc dù gần đây các luật sư phương Tây đã chú ý đến vấn đề xã hội học và các điều kiện vật chất của xã hội, nhưng tính cách giáo điều và sự bám víu vào lời văn vẫn còn “nằm trong máu” của họ. 

Còn tôi lại muốn giới thiệu với độc giả một nền “pháp luật sống động giữa đời thường”, và trong điều kiện cho phép, cùng với lịch sử, cùng với sự vận động và phát triển của nó. Vì vậy, bức tranh về pháp luật Liên Xô sẽ hoàn bị hơn nếu ta mô tả nó từ quan điểm duy vật mác-xít. Sự tương phản giữa lí thuyết và thực tiễn của “chủ nghĩa cộng sản khoa học” sẽ càng rõ ràng hơn. 

Cuối cùng, bất cứ luật sư phương Tây nào, do cách tư duy và giáo dục, không phụ thuộc vào quan điểm chính trị và thái độ đối với chủ nghĩa xã hội và Liên Xô, đều coi pháp luật Liên Xô là một hệ thống, dù tốt dù xấu, nhưng là một hệ thống. Nhưng điều chính yếu, điều quyết định trong pháp luật Liên Xô lại là sự PHI LÍ, cái phi lí này, nói chung và trong từng tiểu tiết, lại bắt nguồn từ sự phi lí của toàn bộ hệ thống kinh tế-xã hội của đất nước. 

Óc tưởng tượng của Swift, của Gogol, của Orwell sẽ chẳng là gì trước những chuyện tưởng như hoang đường diễn ra trong đời sống của xã hội Liên Xô. Tất cả đều được đặt lộn ngược, tất cả đều thành “trồng cây chuối” hết. Không hiểu ý nghĩa của sự phi lí của hiện thực Liên Xô thì không nhận thấy chuyện lộn ngược đó: người có tư duy bình thường không thể lĩnh hội được. Khi tiếp xúc với sự phi lí, con người ta thường nghĩ rằng mình không hiểu một cái gì đó và đơn giản là anh ta sẽ cho qua. 

Tất nhiên là sự phi lí tồn tại khắp nơi: chả lẽ việc suốt bốn mươi năm qua nước Mĩ dùng tiền của những người đóng thuế để nuôi các gián điệp Liên Xô không phải là chuyện phi lí ư? Chỉ mới gần đây người ta mới nhận thức được chuyện đó và đã có những cố gắng, tuy còn rụt rè và chưa đi đến đâu, nhằm thoát khỏi gánh nặng đó. Chả lẽ việc phương Tây tốn hàng núi tiền cho việc trang bị vũ khí nhằm chống lại kẻ thù tiềm tàng là các “nước xã hội chủ nghĩa” nhưng lại lao đến giúp đỡ khi các nước này rơi vào tình trạng tuyệt vọng (Etiopia, Ba Lan, Liên Xô) lại không phải là phi lí ư? Hay như trong những năm 1917-1922, khi phương Tây chi tiền để cứu những kẻ bắn giết và cướp bóc nhân dân và những kẻ nêu ra nhiệm vụ tiến hành cách mạng thế giới và tiêu diệt hết “bọn tư sản” lại không phải là phi lí ư? 

Nhưng chỗ nào cũng thấy phi lí thì lại là một sự kiện đặc biệt, thế mà ở nước ta toàn bộ hệ thống là một sự phi lí và vì vậy mà được coi là bình thường. 

Vì vậy đối với độc giả Liên Xô, tư tưởng chủ đạo của tác phẩm hoá ra lại là mới; sống trong sự phi lí, anh ta trở thành quen với nó, thí dụ anh ta đã quen với chế độ hộ khẩu, đã quen với việc hàng tháng, thậm chí hàng năm không được trả lương cho nên anh ta coi đấy là một sự bình thường. 

Mặc dù tình trạng đó có mặt khắp nơi, vẫn cần phải đưa ra ở đây một vài ví dụ, ngõ hầu giúp độc giả làm quen với đời sống ở Liên Xô. 

Trong giai đoạn, khi công cuộc “cải tổ” của Gorbachev đang diễn ra một cách quyết liệt nhất thì tại một nông trang ở tỉnh Iaroslav, giữa đêm hôm khuya khoắt, giám đốc nông trang dựng tất cả dậy để họp, ông ta chửi bới họ vì không biết làm việc, rồi xua ra khỏi văn phòng và nhảy lên bàn vừa múa vừa hát: “Ta là giám đốc! Ta là trời con!” Và chỉ đến khi ông ta giết chết hai nữ nông trang viên mọi người mới té ngửa ra là ông ta đã bị điên (Nước Nga Xô viết, ngày 16 tháng 7 năm 1989). Không chỉ tất cả các nông trang viên dưới quyền mà ban lãnh đạo huyện, thông qua các chỉ điểm của mình, trước đó cũng đã biết rõ tư cách của viên giám đốc này rồi. Vấn đề là tất cả, từ lãnh đạo đến tổ chức Đảng, chưa nói các nông trang viên lại coi đấy là điều bình thường! 

Sự kiện một kẻ độc đoán đứng đầu quốc gia lấy giầy đập lên giảng đàn của Liên Hiệp Quốc, làm vỡ cả kính trên chiếc bàn viết (chuyện này sau đó đã trở thành mốt của các cán bộ đủ mọi cấp) nói lên điều gì? Còn khi ông ta ra lệnh trồng ngô ở các tỉnh Arkhagensk và Vologod, hàng triệu người biết rõ rằng ngô không sống được ở đấy, rằng đấy là vứt tiền qua cửa sổ, là phí công toi, nhưng vẫn nhiệt tình, với cờ quạt, biểu ngữ trong tay và bài hát trên môi, lao vào thực hiện kế hoạch. Trong một đất nước bình thường chuyện đó có thể xảy ra được không? 

Một người bình thường sẽ hiểu việc “thi đua xã hội chủ nghĩa nhằm hoàn thành vượt mức kế hoạch” giữa các nghĩa trang và các lò thiêu người như thế nào? Trong khi đó thỉnh thoảng người ta lại đưa tro của người quá cố cho thân nhân của họ trong những chiếc hộp giấy vì thiếu bình đựng di cốt! Còn may là không bị gói bằng báo Sự thật đấy! Trong nhà hộ sinh số 10 ở Moskva, xác trẻ sơ sinh có lúc còn bị xếp trong… toilet dành cho phụ sản nữa kia! (TV Moskva, tháng 11 năm 1989). 

Nhưng đây, như người ta thường nói, chỉ là “chuyện vặt”. Ta hãy xem những chuyện lớn hơn, bắt đầu, như những người mác-xít đòi hỏi, từ hạ tầng cơ sở, nghĩa là từ lĩnh vực kinh tế. 

Nga là nước nông nghiệp; những cánh đồng rộng lớn với những vùng khí hậu khác nhau đã giúp chúng ta xuất khẩu lúa mì cả ngàn năm nay, thế mà giờ đây chúng ta “đã biến nước Mĩ thành người cung cấp nông sản cho chúng ta”, Canada và Australia cũng chịu chung số phận. Cuộc khủng hoảng thường trực trong lĩnh vực nông nghiệp được giải thích là do thời tiết không thuận lợi [9] , người ta còn phát minh ra một công thức đầy trí tuệ như sau: “Nước Nga nằm trong vùng rủi ro về nông nghiệp”, tuồng như sau Cách mạng Tháng Mười, khí hậu ở Nga đã thay đổi vậy. Nông dân phải ra thành phố mua bánh mì! Liên Xô mua ngũ cốc chủ yếu để chăn nuôi, trong khi điều 154[9] Bộ luật hình sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa liên bang Nga lại quy định hình phạt tội mua bánh mì, bột mì và các sản phẩm khác làm từ bột mì để chăn nuôi gia súc, gia cầm, đến 3 năm tù giam, kèm theo việc tịch thu gia súc, gia cầm nữa. 

Thức ăn cho gia súc lúc nào cũng thiếu. Nhà văn B. Mogiaev kể một hiện tượng như sau: cỏ không được cắt, héo đi và thối rữa, trong khi đó người ta lại thực hiện kế hoạch chuẩn bị thức ăn cho gia súc bằng… cành bạch dương! Những cành bạch dương vẫn thường vang lên trong thi ca bị bẻ… Công nhân bẻ, sinh viên và học sinh cũng bẻ… Các cháu học sinh tốt nghiệp phổ thông không được thi vào đại học: nếu không bẻ đủ số lượng quy định thì không được nhận bằng tốt nghiệp (200 cành một người một ngày)… Dĩ nhiên là bò không ăn cành bạch dương, chúng không phải là người nên không ép được. Những cành bạch dương sẽ nằm đó, khô đi, năm sau bị người ta đem vứt… và lại bẻ tiếp cành mới! (Báo Văn học, 30 tháng 7 năm 1980). 

Trong lĩnh vực công nghiệp tình hình cũng không khá hơn. Dưới đây là câu chuyện của ông Valov D., phó tổng biên tập tờ Sự thật dưới nhan đề “Phi lí bình phương”: 

Nền kinh tế quốc dân được coi là theo kế hoạch; các kế hoạch kinh tế được soạn thảo và phê duyệt và đa số, không chỉ những người bình thường mà cả các nhà khoa học, đều tin như thế mặc dù chẳng có một kế hoạch nào cả. Lập kế hoạch cho một đất nước rộng lớn như nước ta là việc bất khả thi, có một sự phân bổ, gọi là kế hoạch, theo nguyên tắc “làm hơn năm ngoái”, nghĩa là nếu năm ngoái bạn thực hiện được 100% kế hoạch thì năm nay người ta sẽ giao cho bạn 102% và sẽ không thể nào chứng minh được rằng bạn không thể nào cố thêm được nữa. Vì vậy việc “lập kế hoạch” chỉ cản trở quá trình phát triển vì viên giám đốc có thể hoàn thành 120% kế hoạch sẽ che dấu khả năng của mình, nếu ông ta làm đúng khả năng thì năm sau bộ sẽ giao cho xí nghiệp đó 125%, chẳng cần biết sản phẩm có cần hay không. Chúng ta đã sản xuất được số lượng máy kéo gần gấp 5 lần nước Mĩ (chất lượng dĩ nhiên là khủng khiếp rồi) thế mà người ta vẫn tiếp tục xây dựng một nhà máy khổng lồ (bao giờ nhà máy sau cũng lớn hơn nhà máy trước) chuyên về máy kéo nữa ở Elabug. Khi đã quăng vào đấy hàng triệu đồng người ta mới chợt tỉnh ngộ. Bây giờ phải cải tạo nó thành nhà máy sản xuất ô tô. Với sự trợ giúp của các chuyên gia nước ngoài. 

Theo G. Arbatov thì vào năm 1989 nước Mĩ giầu nứt đố đổ vách chỉ sản xuất có 6 quả tên lửa hành trình, trong khi Liên Xô, một nước phải xin Mĩ bố thí, lại sản xuất những 120 quả! Tháng 11 năm 1991, Gorbachev nói ở Irkusk rằng chúng ta sản xuất được 64 ngàn xe tăng, nhiều hơn tất cả các nước khác cộng lại. Không dùng vào việc gì và bây giờ phải chi tiền để phá hủy! Thật kì lạ, ngài Tổng thống biết chuyện đó từ khi nào vậy? 

Bây giờ xin được chuyển sang các công việc quốc gia. Chủ tịch một đất nước vĩ đại, “người bạn chiến đấu trung thành của Lenin và Stalin”, tức là đồng chí M. Kalinin, người vẫn thường xuyên tiếp các lãnh tụ và đại sứ nước ngoài, thường xuyên trao huân huy chương, ban hành luật lệ, trong khi vợ ông lại ngồi trong trại cải tạo. Người đứng đầu Đảng Cộng sản Liên Xô (ý nói Stalin – ND) trực tiếp hạ lệnh như thế. Sau mấy năm khổ sai, bà được chuyển sang công việc “nhẹ nhàng” hơn, tức là giết rận trong quần áo của tù nhân tại nhà tắm trại giam (Ngọn lửa nhỏ, năm 1988, số 13). Chuyện đó có thể xảy ra ở đâu, ngoài “đất nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên” của chúng ta? 

Trong lĩnh vực tinh thần, khoa học và văn học thì mức độ phi lí có thể làm người ta cười đến vỡ bụng: tất cả các vấn đề đều được các quan chức ngu dốt và thiếu hiểu biết trong bộ máy của Ban chấp hành trung ương quyết định. Nếu những kẻ xảo trá như Lysenko chui vào được cấp đó thì chúng có thể cấm bất kì ý tưởng khoa học chân chính nào, đồng thời những điều nhảm nhí nhất lại được chúng tôn thành đỉnh cao của trí tuệ loài người. Lysenko đã tìm mọi cách để tuyên bố rằng môn di truyền học (học thuyết Mendel-Weismann-Morgan) là phản khoa học. Đã sao, các nhà dân chủ phương Tây có thể hỏi, phương Tây chúng tôi cũng thiếu gì những thằng đểu và những thằng ngu? Nhưng nếu ở phương Tây người ta có thể đem chúng ra chế giễu thì ở ta hoàn toàn không có chuyện đấu tranh tư tưởng. Các tư tưởng được Ban chấp hành trung ương phê duyệt chính là chân lí, chỉ được phổ biến những tư tưởng đó; người có tư tưởng sai lầm sẽ bị giết, tư tưởng bị bác bỏ. Các viện và các phòng thí nghiệm về di truyền bị giải tán, các nhà di truyền học lỗi lạc cùng với nhà di truyền học thiên tài của thế kỉ chúng ta là N. Vavilov bị xử bắn hoặc chết trong các trại cải tạo. Khoa di truyền học đã bị đẩy lùi đến hàng chục năm. Học thuyết tương đối của Einstein và môn điều khiển học cũng bị coi là phản động và dối trá. Không thể tìm được tên các môn khoa học này trong cuốn bách khoa toàn thư Xô viết dày hàng chục tập. 

Liên Xô là nước đầu tiên sản xuất và sử dụng trong tác chiến vũ khí tên lửa. Đầu tiên loại vũ khí này được một nhóm gọi là Nhóm nghiên cứu động cơ phản lực (NCĐCPL), do Sander đứng đầu, thiết kế; họ làm việc này trong thời gian rảnh rỗi (ta gọi là “tự nguyện”). Họ tự gọi đùa mình là nhóm kĩ sư làm việc không công. Trên cơ sở đó, một viện nghiên cứu chuyên ngành được thành lập, thế rồi vì bị vu khống, tất cả đều bị bắt, những người lãnh đạo (Langemak và mấy người nữa) bị xử bắn, những người khác (trong đó có Korolev, người sau này trở thành tổng công trình sư những con tầu du hành vũ trụ nổi tiếng) phải vào trại giam, chỉ sau khi xảy ra chiến tranh với Đức, khi Hồng quân, “một đội quân huyền thoại, bách chiến bách thắng” đã chạy về gần đến Moskva, họ mới được chuyển đến các trại đặc biệt dành cho tù nhân có thể tham gia công tác nghiên cứu-thiết kế trong lĩnh vực quân sự (xem cuốn Trong vòng tròn đầu tiên của Solzhenitsyn). Chúng ta đã trọng dụng hiền tài như thế đấy[10]! Tupolev, tổng công trình sư những chiếc máy bay nổi tiếng một thời, cũng không tránh khỏi cảnh tù đầy. 

Những nhà văn, nhà thơ, đạo diễn và nghệ sĩ bất tài nhưng “sẵn sàng ăn theo nói leo” nhận được những mức nhuận bút cao ngất trời, họ còn được huân, huy chương, giải thưởng và các danh hiệu cao quí nữa. Sau khi Brezhnev đã treo lên mình đủ loại huân chương (kể cả huân chương “Chiến thắng”) và đủ loại huy chương (kể cả huy chương mang tên Marx vì những đóng góp to lớn trong lĩnh vực xã hội học), ông ta lại nảy ra ý muốn lưu danh thiên cổ trong cả lĩnh vực văn học nữa. Mấy cuốn hồi kí của ông ta do một bọn văn nô chấp bút liền được tuyên bố các kiệt tác văn chương. Nhà văn Trakovsky còn kêu gọi các văn sĩ học tập văn phong của… Brezhnev nữa! Những cuốn sách này được dựng thành phim và kịch, cái nào cũng được giải thưởng và được ca ngợi hết mức. Đáng tiếc là Brezhnev đã chết ngay sau đó, nếu không thể nào chúng ta cũng được xem vở opera, mà chắc chắn một nhạc sĩ nào đó đã viết xong rồi. Tất nhiên là ngay sau khi ông ta chết thì tất cả những kiệt tác văn chương cùng với bức tượng “vinh danh chiến công” của ông ta tại Đất Nhỏ đều được vứt vào sọt rác. 

Thế nhưng số phận của các nghệ sĩ thực tài, nói chung, đều đáng buồn cả. Gumilev, Oreshin, Svetaeva, Akhmatova, Mikhoels, Pasternak, Solzhenitsyn, Brodsky … danh sách dài lắm, không thể nào kể ra hết được, người bị giết, người bị đi đày, người bị đàn áp… Tờ Moskva buổi chiều, trong bài “Một nền văn chương bị hành quyết” dẫn ra danh sách 98 nhà văn ở Moskva bị giết (Moskva buổi chiều, ngày 12 tháng 11 năm 1988), trên toàn Liên Xô con số là gần 300, tuy rằng chưa ai có số liệu đầy đủ. 

Dư luận rộng rãi đã biết viện sĩ Andrey Sakharov, ông bị đi đầy ở Gorki mà không qua một phiên toà, một vụ xử án nào… Các đồng nghiệp-viện sĩ đã hành động ra sao? Họ đã phản đối chứ? Không phải thế! Họ đã lên án ông một các đểu giả nhất! Ngay tại kì họp của “các đại biểu nhân dân” thời “đổi mới” người ta cũng không cho Sakharov nói, người ta đã bịt miệng, đã chẹn họng ông… 

Đấy chỉ vài nét chấm phá về cuộc sống đầy phi lí của chúng ta. Tôi không biết liệu độc giả có nhận thấy sự va chạm giữa những cái phi lí đó với pháp luật, mặc dù chúng có liên hệ trực tiếp với các lĩnh vực khác? 

Nếu bạn là một người làm thơ; những bài thơ tình ái, không liên quan gì đến chính trị. Nhưng nếu “Đảng” coi đấy là những bài thơ có hại thì cả tác giả, cả thơ đều phải bị tiêu diệt. Nhưng làm sao bảo vệ một cách hợp pháp? Nếu có một người dũng cảm dám làm chuyện đó thì anh ta cũng chịu chung số phận với bạn. Nếu có một người tỏ lòng thương hại thì cũng không có ai biết. 

Nếu bạn được lệnh đi bẻ cành bạch dương cho những con bò khốn khổ thì bạn sẽ đi mặc dù biết rằng đấy là việc làm hoàn toàn vô nghĩa và ngu xuẩn. Bạn không có phương tiện phản đối một cách hợp pháp, phản đối một cách ngấm ngầm cũng không được nốt. Còn phản đối bất hợp pháp thì bạn sẽ bị bỏ tù ngay. 

Nếu môn di truyền học (điều khiển học, thuyết tương đối ..v..v..) bị “Đảng” coi là giả khoa học và tiêu diệt mà bạn lại là một chuyên gia trong lĩnh vực di truyền thì xin hãy cám ơn số phận vì người ta chưa bắn bạn mà chỉ bắt bạn đi quét rác thôi. Có bộ luật nào hay tổ chức nhà nước nào đủ sức bảo vệ bạn không? 

Nếu bạn là giám đốc một nhà máy và bạn biết rõ rằng đang làm ra một loại sản phẩm chẳng ai cần, một loại sản phẩm đã chất đống trong các nhà kho và các bãi rác rồi thì bạn vẫn sẽ tiếp tục sản xuất vì kế hoạch là luật, phải thực hiện (sản xuất của chúng ta là như thế) “bằng mọi giá”! 

Cuối cùng, nếu bạn là chủ tịch, người nắm chức vụ cao nhất… Nhưng nếu vợ bạn bị người ta vu khống, trong đó có tội gián điệp và khủng bố rồi tống vào tù, cho đi giết rận. Luật nào của quốc gia có thể cứu bà ấy? 

Không hiểu điều này thì không thể hiểu được luật pháp Liên Xô, nó chính là luật pháp của sự phi lí. 

Điều phi lí lớn nhất của xã hội Liên Xô là luật pháp thời nông nô được khoác lên mình hình thức xã hội chủ nghĩa. Những người nông nô xây dựng chủ nghĩa xã hội tối tăm. Người ta kêu gọi công dân với xiềng ở chân và còng số tám trên tay bay đến những chân trời tươi sáng. 

Không hiểu điều đó thì không thể hiểu được nước Nga. 

Chương 2. Luật học

Phân tích một cách cụ thể khoa học “xã hội chủ nghĩa” về nhà nước và pháp luật, trong đó khoa học đóng vai trò chủ đạo trong một cuốn sách giành cho đông đảo độc giả là một việc làm không cần thiết; hơn nữa, đối với việc ban hành luật và thực tiễn pháp lí, nó cũng không có vai trò đáng kể gì.

Thế thì tại sao lại phải nói về nó? Có hai lí do: thứ nhất, trong điều kiện hiện nay, luật pháp của tất cả các nước đều bị chính trị hóa, sự kiện này ai cũng rõ từ lâu; trong các nước “xã hội chủ nghĩa”, hệ tư tưởng mác-xít lê-nin-nit lại là cơ sở nhận thức pháp lí của các luật sư[11]. Thứ hai, kiến thức pháp luật là một phần không thể thiếu trong công tác tuyên truyền một cách có hệ thống và có định hướng của Đảng, có ảnh hưởng đến nhận thức pháp lí của nhân dân, của chính các nhà lãnh đạo, các viên chức Đảng, nhà nước và của cả bộ máy tư pháp nữa.

Đặc điểm chủ yếu của nền luật học “xã hội chủ nghĩa” là tính vô nguyên tắc. Điều này xuất phát từ nguyên tắc “tính Đảng của khoa học”, một nguyên tắc được tuyên truyền và bảo vệ mọi lúc, mọi nơi, nghĩa là người ta phải tuân theo “đường lối của Đảng” dù nó có biến hóa thế nào cũng mặc.

Vì vậy mà tất cả các nhà khoa học, không trừ một ai, đều phải thay đổi quan điểm của mình mỗi khi có lệnh, nếu họ còn muốn giữ ghế trong khoa học. Sự thay đổi một cách đột ngột “đức tin” đã trở thành hiện tượng thường nhật đến nỗi không ai ngạc nhiên, cũng không ai phản đối nữa. Người không phải là bò, người có thể thay đổi quan điểm. Nhưng nếu ngày hôm qua một nhà khoa học còn đang tận tuỵ “phân tích những đặc thù của chủ nghĩa xã hội phát triển” mà hôm nay có lệnh từ Ban chấp hành trung ương: “Để chủ nghĩa xã hội phát triển lại!”, phải phê bình “luận điểm” này một cách quyết liệt nhất, thì đấy rõ ràng là bồi bút rồi.

Ở nước ta, chân lí không sinh ra từ các cuộc tranh luận vì “đường lối của Đảng” là bất khả tư nghị. Sau khi được sự ủng hộ của Ban Chấp hành Trung ương, một kẻ xảo trá là Lysenko không cần tranh luận với nhà bác học thiên tài Vavilov và các nhà di truyền học khác. Hắn đã dùng KGB đè bẹp họ về mặt tinh thần, rồi thủ tiêu luôn về mặt thể xác là xong.

Đấy là các môn khoa học tự nhiên, nơi dường như kết quả các cuộc thí nghiệm tự nó đã có thể chứng minh đâu là chân lí, còn các gien di truyền thì nhìn thấy được dưới kính hiển vi… Nhưng nếu Ban chấp hành trung ương bảo rằng di truyền học và điều khiển học là khoa học tư sản thì không ai còn được có ý kiến gì nữa. Nói gì đến triết học, kinh tế học và luật học?

Trong tất cả các tác phẩm, người ta đều nhấn mạnh nguyên tắc Đảng là nguyên tắc chủ yếu của nền khoa học của chúng ta. “Đây là nguyên tắc chung (!) của nền luật học mác-xít lê-nin-nit, là phẩm chất không thể tách rời của nó”[12]. Nguyên tắc Đảng đòi hỏi người ta phải ủng hộ vô điều kiện kiện ý chí đã trở thành luật pháp của Đảng, dù trên thực tế nó có là phản dân cũng mặc. Chưa bao giờ các luật sư Liên Xô lại ca ngợi tính pháp lí xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ “đã đâm hoa kết trái dưới ánh sáng của hiến pháp Stalin” như trong các năm 1937-1938, khi mà chỉ ở Moskva đã có 800 người bị bắn mỗi ngày (tư liệu của nhà báo A. Miltrakov).

Lòng trung thành, khi đã được đưa đến mức cuồng tín, thì dù có phi đạo đức vẫn có thể được thông cảm. Nhưng đằng này lại là “đường lối của Đảng”, giống như mọi đường lối, nó luôn luôn thay đổi mà lại thay đổi một cách bất ngờ nhất, đôi khi theo hướng hoàn toàn ngược lại (thí dụ chuyển từ “chủ nghĩa cộng sản thời chiến” sang “chính sách kinh tế mới”; hay trong giai đoạn “đổi mới”: chuyển từ việc hợp nhất tất cả các hình thức sở hữu xã hội chủ nghĩa thành hình thức duy nhất, hình thức sở hữu toàn dân thành “phi nhà nước hóa”, thành tư hữu). Có một câu chuyện tiếu lâm: anh ta là một người cộng sản kiên định, nếu có dao động thì cũng dao động cùng với đường lối của Đảng!

Sự bốc thơm luật pháp và chính sách pháp luật hiên hành đã vượt mọi biên giới của sự xấu hổ. Luật pháp Liên Xô là “hiện thân của lí tưởng và quan niệm của nhân dân lao động về tính pháp lí, sự công bằng và nhân đạo”[13], các luật sư nổi tiếng đã viết trong một công trình tập thể như vậy đấy. Đấy là trong một đất nước, nơi hàng triệu người đã chết đằng sau dây kẽm gai trại cải tạo, nơi người ta cố tình gây ra nạn đói làm chết hàng triệu người, còn những người nông dân đói khát thì bị bắn chỉ vì đã mót những bông lúa còn sót lại sau vụ thu hoạch (đằng nào cũng cày lấp đi) theo bộ luật được ban hành vào ngày 7 tháng 8 năm 1932 (gọi là luật 7/8 – ND). Nơi một số dân tộc (người Tatar ở Krưm, người Đức sống ở vùng Volga, người Thổ Nhĩ Kì, người Meskhetin v.v.) bị coi là tội phạm và bị trừng phạt theo luật hình sự và bị lưu đầy, hiện nay họ vẫn chưa được khôi phục đầy đủ mọi quyền lợi, chưa được đền bù về tài sản và những đau khổ mà họ đã phải chịu đựng? Nơi bính lính dùng xẻng phạt ngang người các thiếu nữ trẻ (Tbilisi, 1989), bắn vào dân chúng tay không một tấc sắt (Bacu – 1990, Vinhius, Riga – 1991)? Không có một luật sư “nổi tiếng” nào và chưa bao giờ họ đứng lên phản đối những vụ vi phạm quyền con người hay tham gia vào phong trào bảo vệ quyền con người. V. Kudriadsev, người đứng đầu ngành luật học hiện nay, cũng như người tiền nhiệm của ông ta và Trkhikvadze, trưởng ban quyền con người thuộc trường đại học luật, cũng như Alekseev S., chủ tịch ủy ban giám sát hiến pháp, chưa lần nào phát biểu bảo vệ người đồng liêu trong Viện hàn lâm khoa học là viện sĩ A. Sakharov, cũng như chưa từng đứng lên phản đối những vụ giết người hàng loạt nói trên. Họ luôn đứng ở hàng đầu, cả dưới thời Stalin, cũng như thời Khrushchev và Brezhnev, bây giờ họ vẫn bảo vệ được những chiếc ghế của mình. Họ là những người đầu tiên lên tiếng tụng ca đường lối mới và lên án những vi phạm trong giai đoạn trước đó. Chính họ lại là những người đại diện cho nền khoa học Liên Xô trong các hội nghị quốc tế, báo chí phương Tây sẵn sàng dành chỗ để cho họ đưa ra các thông tin giả mạo.

V. Trkhivadze đã công bố tại Cộng hòa liên bang Đức một bài báo về bước ngoặt theo hướng sự thật của khoa luật học Liên Xô[14]. Tất nhiên là sau 70 năm dối trá thì một bước ngoặt có thể gọi là “kịp thời” nếu thực sự có một bước ngoặt như thế[15]. Đơn giản là đường lối đã thay đổi và các luật sư cũng quay theo hướng đã định, họ sám hối vì những điều dối trá cũ và tiếp tục sáng tác ra những điều dối trá mới.

Đương nhiên, sẽ xuất hiện câu hỏi, ai đã cản trở toàn bộ ngành khoa học và chính tác giả bài báo thực hiện “bước ngoặt” một cách sớm hơn? Câu trả lời của ông ta là: A. Vyshinsky![16] Dù đã quá quen với sự trắng trợn vô liêm xỉ của các luật sư của chúng ta, tôi cũng không kiềm chế được thái độ khinh bỉ khi đọc bài báo đó vì tác giả của nó đã có hành động giống hệt như một con lừa đang đá vào một con sư tử đã chết, tội lỗi của mình lại đổ cho A. Vyshinsky! Không có điều kiện phân tích toàn bộ bài báo, chỉ xin dẫn một thí dụ: Trkhivadze tố cáo Vyshinsky trong việc đàn áp các nhà khoa học, trong đó có G. Gurvich và A. Stalgevich. Trên thực tế thì vào năm 1949, theo lệnh của Stalin, người ta đã tiến hành một chiến dịch bẩn thỉu nhằm đàn áp người Do Thái trong tất cả các lĩnh vực khoa học và văn hóa, người Do Thái bị đuổi khỏi các công sở và bị bắt giữ nhân danh cuộc “đấu tranh với chủ nghĩa thế giới”. Chính viên đại tá dũng cảm của chúng ta nằm trong số các luật sư mở màn chiến dịch, nổ súng vào “những người theo chủ nghĩa thế giới” và đã gọi G. Gurvich, I. Levin, M. Strogovich và A. Stalgevich là những kẻ phá hoại chủ chốt. Ban biên tập tờ báo Osteuropa, nơi công bố những bài báo xuyên tạc của V. Trkhivadze lại không cho tôi nói lên sự thật về vấn đề này.

Nền luật học Xô Viết luôn luôn bám sát “đường lối của Đảng” và lấy làm tự hào về điều đó. Về mặt này thì không có bước ngoặt nào trong giai đoạn “cải tổ” cả, đơn giản là “đường lối của Đảng” đã rẽ sang hướng khác. Trong giai đoạn “cải tổ” nguyên tắc bốc thơm sự anh minh của Đảng vẫn được tuân thủ một cách tuyệt đối.

Ngày 8 tháng 4 năm 1989 (một ngày trước khi xảy ra sự kiện “ngày chủ nhật đẫm máu” ở Tbilisi) M. Gorbachev kí một nghị định phản động về việc sửa đổi luật về tội phạm quốc gia. Điều 111 của nghị định này: “Lăng mạ và làm mất uy tín của các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội” kinh tởm đến mức sau đó đã xảy ra một chuyện vô tiền khoáng hậu: “đa số dễ bảo” của Xô viết Tối cao Liên Xô đã không thông qua nghị định. Thế mà ngay sau khi công bố, hai giáo sư đã lập tức đồng thanh ca ngợi nghị định. Mặc dù có ghi nhận một vài thiếu sót, mà theo họ là có thể khắc phục được sau khi có hướng dẫn, nhưng nói chung, tướng N. Dagorodnikov (luật hình sự) coi nghị định là “tiến bộ”, còn tướng N. Strutrkov (luật trại cải tạo) thì khẳng định một cách không xấu hổ rằng mục đích của nghị định là “bảo đảm về mặt luật pháp quá trình dân chủ hóa và công khai hóa”![17]

Một thí dụ nữa về tính vô nguyên tắc trong thời gian gần đây, đấy là thái độ đối với “nhà nước pháp quyền”. Cái học thuyết tư sản này đã bị các học giả của chúng ta nguyền rủa bằng đủ thứ từ ngữ vì theo lời họ thì bọn phát xít rất thích lí thuyết này[18]. Nhưng năm 1988, có lệnh từ Ban chấp hành trung ương và ông S. Alekseev, người vừa được nói đến ở trên, đã vội reo lên với lòng nhiệt tình vốn có và nhấn mạnh bằng những chữ to đùng rằng “việc Đảng Cộng sản Liên Xô thi hành đường lối thiết lập nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là THỜI CƠ VÀNG CỦA LUẬT PHÁP!”[19]. Không ở đâu và không có ai nhắc lại rằng trước đó ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã bị chửi bới một cách không thương tiếc, còn hôm nay thì phê bình nó là việc bất khả thi. Vấn đề lương tâm (không phải là khái niệm pháp lí) chưa bao giờ được các luật sư của chúng ta thảo luận.

Chuyện gì đã xảy ra sau khi Đảng Cộng sản Liên Xô giải thể? Không có gì hết. Vấn đề là các “chỉ thị” từ nay sẽ xuất phát từ một hệ thống khác. Đơn giản là Văn phòng Tổng thống trong các phòng làm việc cũ, tòa nhà cũ, trên Quảng trường Cũ đã thế chỗ Ban chấp hành trung ương Đảng.

Từ hàng thế kỉ nay khoa học được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu các sự kiện và các nhà khoa học rút ra kết luận. Nước ta thì khác: khởi thủy là “một kết luận về mặt lí thuyết”, sau đó mới thu thập sự kiện, mà không phải lúc nào cũng thế. Hiện nay toàn thế giới phải bàng hoàng về mức sống của những người lao động Liên Xô. Ban lãnh đạo của cái đất nước vĩ đại này phải xin viện trợ lương thực khẩn cấp của ngay cả nước Luxemburg, một nước chỉ nhỏ bằng một phần mười tám tỉnh Moskva, thế mà trong danh mục thư viện mang tên Lenin tôi tìm thấy gần 200 luận án về “sự nâng cao một cách liên tục mức sống của nhân dân Liên Xô”. Sách và báo thì không thể nào đếm hết được. Một người tên là S. Rotan đã dùng đề tài “Công bằng xã hội và luật lao động Liên Xô” để làm luận án tiến sĩ, trong đó anh ta chứng minh luận điểm của F. Engels rằng trong chủ nghĩa tư bản diễn ra quá trình phân hóa giai cấp còn trong chủ nghĩa xã hội thì sẽ có công bằng xã hội. Lúc đó, nhờ “công khai” mà báo chí đầy các bài, một mặt, viết về các giai tầng đang hình thành, về các triệu phú, các băng đảng, và mặt khác là sự khốn cùng của nhân dân. Tôi đã hỏi tác giả luận án rằng anh ta đã nghiên cứu những gì để rút ra kết luận như thế? Không trả lời được. Tôi đã nhấn mạnh rằng nghiên cứu sinh đã không đưa được một sự kiện nào để chứng minh luận điểm của mình. Không một sự kiện nào hết! Nhưng những người phản biện là Lifsis, Kondratiev, Nikitinsky, như vốn phải thế, đã nhiệt liệt ca ngợi bản luận án và Hội đồng khoa học của Viện luật pháp Liên Xô đã nhất trí phong học vị tiến sĩ luật học cho tác giả luận án! Làm sao khác được? Ai cho phép anh ta bác bỏ Engels? 

Vì các nhà khoa học phải tuân theo các chỉ thị của Đảng, bất kể nó có phù hợp với thực tiễn hay không, cho nên dối trá đã trở thành nguyên tăc căn bản của khoa học. Nếu lí thuyết mác-xít khẳng định rằng trong chủ nghĩa tư bản diễn ra quá trình bần cùng hóa người lao động và tội ác phát triển thì dù sự kiện có như thế nào đi nữa, các nhà khoa học Liên Xô vẫn phải chứng minh như thế, tất cả những điều khẳng định của họ, dù có dựa vào các sự kiện và đứng vững “trên nền sự kiện” thì vẫn chỉ là những câu chữ mang tính quảng cáo và mị dân.

Trên thực tế họ đã tiến hành việc chọn lọc các sự kiện và rút ra các kết luận dối trá, mâu thuẫn với thực tiễn. Nếu như thế vẫn chưa đủ thì họ sẽ bóp méo và xuyên tạc các sự kiện, sẽ đưa ra đủ điều bịa đặt dưới dạng sự kiện, thí dụ điều bịa đặt là ở “Liên Xô chế độ dân chủ đang giữ thế thượng phong”[20].

Xin xem xét ngành tội phạm học, một ngành vừa kỉ niệm 30 năm ngày thành lập (1989). Trước năm 1989, số liệu về tội phạm là thuộc loại tuyệt mật. Khoa học nào có thể tồn tại nếu không có dữ kiện? Mà cần gì phải có dữ kiện nếu khoa học của chúng ta dựa trên chủ nghĩa không tưởng của Marx và Engels; theo đó, tội ác sinh ra trong lòng chủ nghĩa tư bản, còn trong chủ nghĩa xã hội thì nó sẽ biến mất? Tất cả các “nhà tội phạm học” đã “chứng minh” được như thế.

Chuyên nghiên cứu về tội phạm, dù không có số liệu thống kê, họ không thể không biết điều mà ai cũng biết: tội ác đang gia tăng. Nhưng để phục vụ “lí thuyết” họ đã đánh tráo số liệu và vì vậy mà đã nói dối một cách ngang nhiên. V. Kudriadsev, người đứng đầu ngành luật học Liên Xô, tại Hội nghị VI về tội phạm học của Liên Hiệp Quốc, đã thuyết phục cộng đồng thế giới rằng: 1. tội phạm ở Liên Xô đang giảm dần; 2. nguy cơ xã hội cho việc nảy sinh tội ác đang giảm dần; 3. không còn tội phạm có tổ chức[21]. Ông ta đã nói dối những ba lần, hoàn toàn ngược lại! Xin nhắc lại, ông ta không lầm, ông ta cố tình nói dối!

Chính vì sự dối trá đó, chính vì màn khói thả ra xung quang bè lũ mafia cảnh sát đó, mà vào năm 1985 một nhóm các “nhà tội phạm học”, đứng đầu là V. Kudriadsev, đã được Huân chương quốc gia đấy!

Năm 1986, Tòa án tối cao Liên Xô đã công nhận (không có số liệu!) rằng tội phạm ở nước ta gia tăng “một cách đáng lo ngại”, nhưng trong cuốn sách giáo khoa dành cho các trường luật học xuất bản năm 1988, do các giáo sư B. Korbeinikov, N. Kuznesova và G. Minkovsky chủ biên, người ta vẫn khẳng định, hệt như ba mươi năm trước rằng tội phạm ở Liên Xô là “tàn dư của quá khứ” và “thuộc vào những hiện tượng đang chết dần; nguyên nhân của nó đang bị loại bỏ một cách không thể đảo ngược được”[22].

Các nhà bác học cũng có thể lầm, ngoài ra không phải ai cũng làm được như G. Bruno, nghĩa là lên giàn hỏa thiêu vì tư tưởng của mình (nhà bác học vĩ đại Galilei đã từ bỏ học thuyết của mình khi trực diện với tòa án giáo hội), nhưng các “nhà tội phạm học” Liên Xô đã biến việc dối trá hiển nhiên thành một nghề. Để độc giả không nghĩ rằng những điều dẫn ra bên trên chỉ là vụ báo thù của một người cạnh tranh tấm huân chương, xin dẫn ra ở đây lời sám hối của một trong những người đồng nhận giải: “Xa rời sự thật, che dấu và xuyên tạc đã xảy ra trong cuộc đấu tranh chống lại tội ác, mà không chỉ diễn ra trong hoạt động thực tiễn, nó diễn ra cả trong lí thuyết, trong ngành tội phạm học nữa. Không có gì là thật (!), cả trong việc đánh giá cũng như giải thích nguyên nhân của tội ác”[23]. Hoàn toàn đúng, chỉ có điều “người sám hối” không viết trước tên mình “Người được huân chương quốc gia” mà thôi.

Để làm hài lòng Đảng, người ta đã chế ra những huyền thoại chẳng ăn nhập gì thực tế, nào là mức sống của nhân dân Liên Xô ngày càng được cải thiện, nào là tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, nào là không còn người bóc lột người, không còn thất nghiệp, pháp luật được tôn trọng, chính quyền do dân làm chủ v.v. và v.v… Những huyền thoại đó đã sụp đổ chưa? Đa số được lặp lại theo một công thức khác: “Vâng, đã có sai lầm, đã xa rời sự thật, nhưng hiện nay… hiện nay chúng ta đã cải tổ rồi”.

Nói về cơ sở lí luận của pháp luật Liên Xô thì cần và chỉ cần xét câu hỏi quan trọng nhất, đấy là khái niệm luật pháp.

Không đi sâu vào các phương án dài dòng, tất cả các định nghĩa về luật pháp có thể rút lại thành hai: 1. luật pháp là ý chí của giai cấp thống trị về kinh tế[24]; 2. luật pháp là tập hợp tất cả các quy phạm do nhà nước áp đặt và thể hiện ý chí của giai cấp thống trị về kinh tế[25].

“Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin” không quan tâm nhiều đến vấn đề luật pháp, một vài nhận xét về vấn đề này sau đó được phân tích một cách cực kì cẩn thận và tán rộng mãi ra. Định nghĩa đầu tiên được rút ra từ “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do K. Marx và F. Engels viết. Đấy không phải là định nghĩa, các tác giả chỉ lên án giai cấp tư sản đã biến ý chí của mình thành luật pháp mà thôi. Từ đó những người mác-xít liền rút ra kết luận rằng tất cả luật pháp đều là ý chí của giai cấp thống trị.

Định nghĩa thứ hai là của A. Vyshinsky (ông ta từ chối tác quyền), định nghĩa này đã ngự trị trong khoa học trong thời gian mà chính Vyshinsky còn cầm đầu ngành này[26].

Sự khác nhau của các định nghĩa chỉ là sự nhấn mạnh: cái thứ nhất nhấn mạnh ý chí, cái thứ hai nhấn mạnh quy phạm[27]. Không thể nói rằng cách nhấn mạnh không có ý nghĩa: định nghĩa thứ nhất coi trọng trước hết ý chí của giai cấp thống trị, định nghĩa thứ hai nhấn mạnh rằng pháp luật là hình thức thể hiện ý chí, nhưng trong bất kì trường hợp nào luật pháp xã hội chủ nghĩa cũng “luôn luôn thể hiện quyền lợi của nhân dân lao động và ý chí của nhà nước, người đại diện cho những quyền lợi đó”[28].

Nhưng nhân dân lao động, kể cả các đảng viên may lắm thì biết được từ 5 đến 10% các tài liệu pháp quy là cùng (chưa nói đến các chỉ thị mật). Thế thì ai đưa ra “ý chí của Đảng”? Chúng ta đã thấy Ban chấp hành trung ương (là nói các ủy viên chứ không phải bộ máy) không làm việc đó. Còn lại Bộ chính trị. Từ đây có thể thấy rằng ý chí của Đảng và của nhân dân có thể chỉ do một người nói ra mà thôi, người ấy chính là lãnh tụ. Dưới thời Stalin đã thế, thời Khrushchev, rồi đến Brezhnev cũng là như thế.

Nếu chúng ta giả định rằng lãnh tụ có thể thể hiện được ý chí của nhân dân lao động thì hóa ra đạo luật ngày 7 tháng 8 năm 1932, những người mót lúa, mót khoai bị bắn theo đạo luật này; biên bản năm 1934 về việc trấn áp “bọn khủng bố” mà không cần đưa ra xét xử; chỉ thị ngày 26 tháng 6 năm 1940 về trách nhiệm hình sự nếu không có mặt tại vị trí làm việc trong vòng 20 phút và những đạo luật khắc nghiệt khác đều được ban hành theo ý chí và vì quyền lợi của nhân dân cả.

Nhiều thế hệ cán bộ Đảng, cán bộ nhà nước, các luật sư và dĩ nhiên là toàn thể nhân dân đã được giáo dục trên tinh thần như thế đấy.

Vì vậy, nếu pháp luật cấm sử dụng lao động trẻ em, nhưng “anh hai” ở Uzbekistan hay Mondavia (dĩ nhiên là đã thỏa thuận với tỉnh ủy và trung ương rồi) cho rằng điều kiện kinh tế đòi hỏi các cháu tham gia vào việc thu hoạch bông hay thuốc lá thì ông ta sẽ ra chỉ thị và theo ý chí của ông ta, các cháu bé sẽ phải làm việc từ sáng đến tối dưới cái nắng chói chang, trên những cánh đồng đầy thuốc trừ sâu và sau đó thì nằm ngủ ngay trên mặt đất, trong những cái lều dành cho cừu. Ai dám chống lại “ý chí của Đảng”? Ông viện trưởng viện kiểm sát, cũng là một Đảng ủy viên ư? Thật khó có thể coi đấy là đề nghị nghiêm túc. Các cháu bé ư? Các cháu còn yếu đuối lắm. Cha mẹ các cháu ư? Họ cũng sợ hãi và vô quyền như con em mình mà thôi.

Còn vấn đề xây dựng “nhà nước pháp quyền”, vấn đề “thời cơ vàng” của nó thì sao? Câu trả lời rất đơn giản: chính cách đặt vấn đề về việc xây dựng “nhà nước pháp quyền” đã chứng tỏ rằng nước ta chưa có nhà nước pháp quyền, còn thời hạn xây dựng nó thì chưa được xác định, dù chỉ là một cách tương đối.

Dù sao mặc lòng, tôi hi vọng rằng độc giả đã hiểu vì sao chúng ta phải xem xét tình hình ngành luật học Liên Xô. Trong đó có cả vấn đề như là khái niệm luật pháp vì nó phản ánh lên thực tế cuộc sống. Nói đến quan hệ của giai cấp thống trị đối với luật pháp và tinh thần thượng tôn pháp luật là điều phi lí: một mặt đấy là sự miệt thị và khinh thường pháp luật, coi thường cả các nguyên tắc pháp lí và tinh thần thượng tôn pháp luật lẫn các điều luật cụ thể; thứ hai, đấy là sự tin tưởng mù quáng vào sức mạnh toàn năng của luật pháp. Mâu thuẫn này có vẻ như đã tự loại trừ nhau, nhưng nó lại là mâu thuẫn xuyên suốt lịch sử Liên Xô, kể từ các “sắc lệnh Tháng Mười”, “tình trạng khẩn cấp” cho đến quá trình “cải tổ” rất được lòng những người có tư tưởng tự do ở phương Tây hiện nay.

Với ý định “cải tạo chủ nghĩa xã hội”, Gorbachev đã thực hiện những hoạt động lập pháp, phải nói là sôi động, nhưng nói chung vô ích, thậm chí có hại. Một trong những biểu hiện của sự thiếu hiểu biết là “luật chống uống rượu” với những biện pháp cấm đoán nghiêm ngặt và tăng giá đột xuất các loại nước uống có cồn. Trước khi Gorbachev chấp chính, tình hình tiêu thụ rượu đã ở mức báo động. Cảnh nghiện ngập xảy ra không chỉ trên đường phố, trong gia đình mà còn ngay tại nơi làm việc. Gorbachev tin rằng chỉ cần đưa ra luật lệ là vấn đề nghiện rượu sẽ được giải quyết. Kết quả: kinh tế và tài chính rơi vào khủng hoảng vì 1/5 ngân sách là từ rượu, việc nấu rượu lậu và đầu cơ rượu, nạn sử dụng ma túy và các chất gây nghiện khác gia tăng, thậm chí lan sang cả trẻ em và cuối cùng là nạn nghiện rượu càng tăng thêm!

Mặt khác, thí dụ, điều 30 Luật liên bang, Bộ luật chủ yếu về lao động viết: “Cấm làm việc trong ngày nghỉ”. Nhưng ai để ý đến bộ luật liên bang này?

Trong số rất nhiều luật lệ được ban hành theo sáng kiến của Gorbachev thì luật về xí nghiệp quốc doanh (liên hiệp xí nghiệp) và luật về hợp tác xã là những bộ luật chủ yếu để thực hiện công cuộc “cải cách kinh tế” do ông ta khởi xướng. Chất lượng các bộ luật này thấp đến nỗi không đáng phê bình vì cả hai bộ luật đều không phải là các văn bản pháp quy mà chỉ là các tuyên bố chung chung. Tư tưởng chủ yếu của đạo luật thứ nhất là sự tự chủ của các xí nghiệp, nhưng sự phụ thuộc của chúng vào các bộ chủ quản thì vẫn được giữ nguyên. Tư tưởng chủ yếu của đạo luật thứ hai là sự phát triển tự do của các hợp tác xã, nhưng lại không có sự bảo đảm nào cho cả hợp tác xã lẫn người tiêu dùng. Kết quả: luật về xí nghiệp “không hoạt động”; còn hợp tác xã cũng không hình thành được vì đã bị bộ máy bóp chết từ trong trứng nước, nhưng cái bộ máy này lại không quên nhận tiền hối lộ khi cho đăng kí hoặc cấp cho trụ sở và các “dịch vụ” khác; điều này đã được người ta nói tới ngay trên diễn đàn của Xô viết Tối cao Liên Xô. Sau đó, Tổng thống lại ra nghị định cho phép công an và KGB tiến hành kiểm tra và khám xét các hợp tác xã mà không cần Viện kiểm sát phê chuẩn. Người ta không nhận thấy một tí dấu vết nào của kiến thức về pháp luật của Gorbachev trên các đạo luật này.

Khoa học xã hội chủ nghĩa cho rằng pháp luật thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, do “Đảng” xác lập, còn “Đảng” lại cho rằng có thể giải quyết mọi vấn đề của xã hội bằng cách ban hành các đạo luật. Hiện tượng này được nhà văn A. Zinoviev mô tả một cách tuyệt vời như sau: “Một khi quyết định đã được thông qua thì đối với lãnh đạo vấn đề đã được giải quyết. Họ coi việc thông qua quyết định về việc giải quyết vấn đề là sự giải quyết của chính vấn đề”.

Luật pháp chỉ là một phương tiện (chưa phải là chủ yếu) để thực thi đường lối của “Đảng” và không phải là hình thức thể hiện ý chí duy nhất của nó (thế mới có chuyện bóc lột một cách phi nhân trẻ em trên những cánh đồng trồng bông). “Đảng” coi tất cả mọi yêu cầu của mình, dưới bất kì hình thức nào, đều là bắt buộc đối với mọi thần dân, nhưng lại không bắt buộc đối với Đảng. Lenin đã nói rất đúng rằng chuyên chính vô sản là quyền lực không bị giới hạn bởi bất kì đạo luật nào.

Vì vậy, đối với tất cả các cấp chính quyền (ngay cả ủy ban hành chính xã hay đúng ra phải nói nhất là đối với các ủy ban hành chính xã) tuân thủ luật pháp không phải là điều bắt buộc. Hiến pháp hay chỉ thị của “anh hai”, cái nào cao hơn không bao giờ được đặt ra đối với ông chủ tịch ủy ban xã. Chúng ta thường nghe các cấp lãnh đạo nói: “chúng ta không được câu nệ”, “không được bám vào lời văn của luật pháp”, “đây là trường hợp ngoại lệ”… Nhưng nếu ở một cấp nào đó luật pháp không phải là bắt buộc thì nó sẽ trở thành không bắt buộc ở khắp mọi cấp và đối với mọi người, thế là xuất hiện tình trạng vô luật pháp khắp mọi nơi, và chính nó đã bóp chết nền kinh tế Liên Xô. “Kế hoạch là luật”, các nhà lãnh đạo Đảng nói như thế trên các diễn đàn đại hội, nhưng không một xí nghiệp, không một nông trang nào thực hiện được kế hoạch, cả về số lượng lẫn chất lượng. Những tiếng gào thét và kêu gọi lập lại trật tự và kỉ cương cứ ngày một yếu dần.

Chỉ còn hi vọng vào dùi cui và súng máy. Nhưng nếu có thể dùng những thứ đó để khôi phục trật tự trên đường phố thì lại không thể dùng chúng để lập kỉ cương trong sản xuất.

 

 



[1] Tất cả các từ “Đảng” trong cuốn sách này đều chỉ Đảng Cộng sản –ND.

[2] “Trong mười năm tới (1961-1970) Liên Xô, trong quá trình xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản, sẽ vượt Mĩ, nước tư bản mạnh nhất và giầu có nhất, về số lượng sản phẩm trên đầu người… Như vậy là tại Liên Xô đã xây dựng xong chủ nghĩa cộng sản…” Cương lĩnh thứ III của Đảng Cộng sản Liên Xô. Thông qua tại đại hội XXII, năm 1961.

[3]Cục trưởng cục thống kê bị bắt vì báo cáo láo theo chỉ thị của bí thư tỉnh ủy. Ông này đã trả lời điều tra viên như sau: “Nếu tôi không làm thế thì bây giờ sẽ có một cục trưởng khác ngồi ở đây” (Tin tức, ngày 27 tháng 12 năm 1986). Từ đó: “… thông tin chính xác về kinh tế thì ngay Bộ chính trị cũng không có” (Ngọn lửa nhỏ, 1988, số 46).

[4] Nông trường Novopokrovsky (tỉnh Kuban) 5 năm sản xuất được 2,4 ngàn tấn sữa, nhưng giao nộp tới .. 4,2 ngàn tấn! Cứ ba xí nghiệp thì có một báo cáo láo (Sự thật, ngày 26 tháng 3 năm 1990). Năm năm cải tổ! Nhưng như thế không có nghĩa là các xí nghiệp còn lại không báo cáo láo.

[5] “Hiện nay tất cả các công tố viên đều đang đấu tranh với hiện tượng vi phạm kỉ luật tài chính rất thịnh hành này (tạp chí Pháp chế Liên Xô, năm 1985, số 12, trang 49). Xin nói thêm rằng theo luật thì đây không phải là vi phạm kỉ luật tài chính mà là tội hình sự – điều 152 bộ luật hình sự Cộng hoà xã hội chủ nghĩa liên bang Nga. 

[6] Điều này được toà án tối cao Liên Xô công nhận vào năm 1986, khi toà án ghi nhận “sự gia tăng một cách đáng ngạc nhiên” (Báo Văn học, ngày 17 tháng 12 năm 1986). Các số liệu cụ thể chỉ được công bố từ năm 1988.

 

[7] N. Kuznesova. Tội ác và tình trạng phạm tội. Bản tóm tắt luận án. M., năm 1968, trang 2. Như đã thấy người ta nói về tình trạng phạm tội, nhưng lại dẫn ra số liệu về сác vụ án, thêm nữa so sánh được lấy từ những năm 1963-1965, là lúc theo chỉ thị của Khrushchev người ta đã ngưng việc bắt bớ và đưa ra toà hàng loạt mà chuyển các tội phạm cho các xí nghiệp và tổ chức xã hội “bảo lãnh”

 

[8] N. Kuznesova. Tội ác và tình trạng phạm tội. Bản tóm tắt luận án. M., năm 1968, trang 2. Như đã thấy người ta nói về tình trạng phạm tội, nhưng lại dẫn ra số liệu về сác vụ án, thêm nữa so sánh được lấy từ những năm 1963-1965, là lúc theo chỉ thị của Khrushchev người ta đã ngưng việc bắt bớ và đưa ra toà hàng loạt mà chuyển các tội phạm cho các xí nghiệp và tổ chức xã hội “bảo lãnh”

[9] R. Konkvest trong tác phẩm Mùa buồn (London, 1988) đã trình bày lịch sử vụ diệt chủng được tổ chức bởi lãnh đạo Đảng Cộng sản. Ông chỉ ra rằng người ta đã đi từ phủ nhận một cách quyết liệt và hoàn toàn nạn đói (kể cả những người theo tư tưởng tự do ở phương Tây được “tận mắt chứng kiến” như Bernard Shaw) ở Liên Xô đến việc công nhận một cách không chính thức..

[10] Tháng 12 năm 1991 (sau nửa thế kỉ) công lao của nhóm NCĐCPL mới được ghi nhận. Chính Gorbachev đã trao huân chương… cho các goá phụ!

 

[11] J. L. Konstantinenko đã viết về chuyện này. Ông cũng ghi nhận rằng các luật sư “xã hội chủ nghĩa” sử dụng phương pháp so sánh như là vũ khí trong cuộc đấu tranh tư tưởng và họ coi nhiệm vụ của mình là chứng minh tính tưu việt của nhà nước và pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. J.-L.Konstantinesco. Traite de Droit Compare, t.2, Paris, 1974, p. 30-34.

[12] Học thuyết Mác-Lenin về nhà nước và pháp luật, tập 4, Pháp luật xã hội chủ nghĩa. M., 1973, trang 9. Đây là tác phẩm tập thể về nhà nước và pháp luật lớn nhất trong lịch sử Liên Xô, nó giữ vị trí đặc biệt vì là ý kiến của các “lí thuyết gia” nổi tiếng nhất và có bằng cấp cao nhất. Nhiều trích dẫn sẽ được lấy từ tác phẩm này, nhưng vì tên của nó quá dài nên sau này sẽ viết tắt là MLVNNPL.  

[13] MLVNNPL.  tập 4, М., 1973. trang 9.

[14] V. Cchikvadze, Der Umbruch und die Entwicklung der sowietischen Rechtswissenschafl Osteuropas: Recht, 1990.H.2.

[15] S Alekseev ghi nhận những khuyết tật sau đây của nền luật học Liên Xô: a/ đánh mất vị trí của một nền khoa học chân chính; b/ biện hộ cho nhà nước Xô viết và pháp lí Xô viết; c/ giáo điều; d/ nền đạo đức không thuận lợi (Pháp luật Liên Xô, 1989, số 5, trang 76). Và sám hối: “… những đánh giá mang tính tiêu cực như thế này liên quan một cách vô điều kiện đến tất cả những gì mà tác giả những dòng này đã viết”. Nói phải củ cải cũng nghe.

[16] V. Cchikvadze. Der schädliche Elnfluss von A. Vyshinskji in der sowietischen Rechtswissenchaft Osteuropas: Recht, 1989, H.2.

[17] Báo Tin tức, ngày 15 tháng 4 1989

[18] Lí thuyết vê nhà nước pháp quyền “không có giá trị về mặt lí luận, không thực hiện được trên thực tế… chỉ có giá trị tuyên truyền. Các xu hướng quân phiệt và phục thù, khôi phục lại lực lượng phát xít – đấy chính là sự thật nấp sau khái niệm “nhà nước pháp quyền”. MLVNNPL, tập 1, M., năm 1971, trang. 9.
“Khái niệm nhà nước pháp quyền phát xít là “một gói lựu đạn” nhằm, một mặt, chống lại giai cấp công nhân Đức, và mặt khác, chống lại phong trào công nhân thế giới và đội tiên phong của nó là nhà nước Liên Xô. Khái niệm nhà nước pháp quyền hiện đại cũng nhằm theo đuổi mục đích đó”. Phê bình lí luật pháp quyền tư sản hiện đại. M., 1969, trang 266.
“Lí thuyết về nhà nước pháp quyền” chứa đầy tư tưởng chống cộng, nhằm đối lập nhà nước xã hội chủ nghĩa như là nhà nước “vô luật pháp” với nhà nước tư sản “pháp quyền”. Nó được sử dụng để bảo vệ chủ nghĩa thực dân mới. Lí thuyết về nhà nước và pháp luật. Chủ biên S. S. Alekseev, M., 1985, trang 457.

[19] S. Alekseev. Nhà nước pháp quyền – số phận của chủ nghĩa xã hội. М., 1988, trang 72.

[20] Tôi đùa. Trích dẫn này lấy từ cuốn sách giáo khoa: Lí thuyết về nhà nước và pháp luật thời chế độ khủng bố của Stalin (М., 1949, trang 44), trong đó đã “vạch mặt” các nhà khoa học phương Tây, các nhà khoa học “tư sản”, “tay sai của chủ nghĩa đế quốc”. Tôi chỉ chuyển địa chỉ thành các nhà khoa học Liên Xô mà thôi.

[21] V. Kudriavsev, Các xu hướng tội phạm và cuộc đấu tranh với nó ở Liên Xô. М., 1988. trang 8

[22] Tội phạm học. М., 1988, trang 63-64  

[23] Tư pháp Liên Xô, 1989, Số З. trang 9

[24] S. Alekseev, Lí thuyết chung về pháp luật, Т. 1., М., 1981, trang 104

[25] MLVNNPL, tập 1, M., trang 348

[26] А. Vyshinsky. Marx và vấn đề nhà nước và pháp luật. М., 1938, trang 36-37

[27] I. Sabo (Hungaria) phê phán khoa luật pháp Liên xô là quy phạm hóa (I. Szabo. The Notion of Law. Acta juridica, tập 18 (3-4) 1976, trang 263-272. Không có cơ sở để đưa ra phê phán như thế vì nội dung của các quy phạm được xác định bởi giai cấp thống trị chứ không phải bởi tiêu chuẩn tối thượng.

[28] MLVNNPL, tập 4, M., trang 348

 

Comments are closed.