Văn học miền Nam 54-75 (645): Thế Uyên (kỳ 10)

Tiền đồn (10)

Vũ vẫy vội tay, cùng toán quân nằm ép sát xuống cỏ, bất động trong làn ánh sáng chói của đạn chiếu sáng đang từ từ hạ xuống. Chàng lo lắng không hiểu trung đội bị lộ hình dạng hay chưa và cảm thấy rõ dù địch đã biết, chàng cũng sẽ không muốn đổi hướng tiến quân: đã mười giờ đêm và cơn buồn ngủ như một nỗi chán chường đã tới. Nguồn sáng đã hạ thấp rồi khuất sau rặng cây bên kia, mùi cỏ ngái lẫn mùi đất còn ẩm xông lên nhè nhẹ làm chàng như kiệt sức, muốn nằm luôn đó thiếp đi trong trăng sao. Toán quân vẫn bố trí sát bờ đất, những vệt đen rải rác bất động chạy dài về phía sau, chàng thì thào: “Mệt rồi, mệt cả rồi, mùi cỏ mùi đất đã bốc lên…” Tiếng chó cắn bắt đầu vang lên dữ dội phía làng bên kia quốc lộ, chàng chậm chạp suy tính: như vậy có thể địch đã len vào giữa trung đội và đồn, và đến nơi đây, dù Hy có đóng đúng vị trí ấn định trước, cũng không thể yểm trợ 60. Chỉ còn 81 của đồn. Mùi cỏ lại bốc lên, đậm đà hơn trong tiếng một con dế bắt đầu kêu ở gần. Một bóng đen bò sát lại gần, giọng Ra thì thào:
“Tại sao đồn bắn chiếu sáng, chuẩn uý?”
“Không biết nữa. Anh nghe tiếng chó…”
“Tụi chúng đó… Chắc chúng đi đông, tiếng chó sủa nghe dài lắm. Kích ở đây thôi chuẩn uý, đi quá xa rồi”.
Chàng không trả lời, quỳ lên thật chậm nhìn chung quanh, cố gắng xác định thật đúng vị trí. Sắp đến ven sông rồi, con lộ đã bắt đầu nhô cao uốn cong về cây cầu sắt nhỏ, chàng xoay người chậm chạp nhìn ngược về phía đồn, bắt đầu nhận ra phía xa khúc đường hay bị cắt đắp mô với những vệt sáng cắt ngang mặt lộ. Giọng Ra lo ngại:
“Đêm nay thế nào tụi chúng cũng đắp mô nữa”.
“Đắp thì chẳng ngán… Anh có tin chúng định làm ăn dữ đêm nay không?”
Viên hạ sĩ quan không trả lời làm chàng muốn mỉm cười: Hắn vẫn có cái lối đó, không bao giờ dám nói thành lời nỗi nguy hiểm đang đe doạ, nỗi nguy hắn ý thức được bằng trực giác của một lính già hơn mười lăm năm quân ngũ. Chàng ngồi xuống, mùi cỏ lại xao xuyến bứt rứt.
“Anh cho hai đứa lại đi với hạ sĩ Sao tới khu nhà kia xem có đóng quân được không. Nhớ dặn chúng ra khỏi chỗ trũng này phải chịu khó bò cho tới chỗ bụi cây cho chắc ăn”.
“Mình đóng ở đây sao, chuẩn uý?”
Chàng không trả lời, khẽ kéo tay Ra ra dấu thi hành lệnh. Tiếng chó sủa nghe rõ hơn. Tại gió hay tại địch sắp lại gần. Chàng lại quỳ lên áp sát người vào bờ cỏ, cố giữ khỏi thò đầu cao hơn lớp cỏ ven lộ, nghe ngóng. Tiếng chó vẫn ở khu ấy, lúc to lúc nhỏ theo gió mạnh yếu. Ra đã trả lời, chúc đầu xuống rãnh bật lửa châm thuốc, lẳng lặng châm nối điếu thuốc nữa trước khi khum tay che đầu ngọn lửa đưa lên. Chàng tiếp nhận điếu thuốc một cách thoải mái bởi vì không còn muốn ngửi thấy mùi cỏ lẫn hơi đất nữa, không còn muốn ngửi tiếp nỗi xao xuyến, nhớ mong vô định đang dâng lên như muốn tan lẫn với chàng trong ánh trăng. Ra nói nho nhỏ:
“Mai chuẩn uý đi phép rồi về trao trung đội cho chuẩn uý…?”
“Chuẩn uý Định”.
“Ông ta thế nào?”
“Có vẻ được nhưng chưa có kinh nghiệm chiến trường… Nhưng rồi sẽ quen”.
“Chuẩn uý như vậy ở với trung đội đến sáu tháng rồi”.
Câu nói chẳng có gì, thật giản dị nhưng làm chàng hơi xúc động vì đoán ra sau chuỗi âm thanh thì thào ấy của người phụ tá một buồn bã phỏng đoán. Ở nơi đây, mọi sự đều là thù nghịch, kể cả bờ đất rặng cây, những người lính sát vào nhau hơn như để tìm một hơi ấm loài người. Họ chỉ còn có thể, chàng chỉ còn có thể… Một tình tự ấm áp làm chàng thân thiết hơn với người đang cùng hút thuốc để rồi chợt nhận ra đến bây giờ sắp thuyên chuyển, chàng vẫn chưa biết gì về người phụ tá trừ điểm xuất xứ từ biệt động quân. Chàng hỏi:
“Quên chưa bao giờ hỏi anh tại sao lại bỏ biệt động quân sang đây”.
“Chuyện xui, chuẩn uý. Hồi đó tôi coi ban I cho tiểu đoàn trưởng, đại uý San chuẩn uý biết không? Thích đánh đêm như chuẩn uý, ổng có một cây carbine cưa cò để bắn ra-phan. Bữa đó sau khi chất xác tụi chúng, đến hai mươi cái thây, ổng xách súng đến gần, lấy báng súng ấn vào xác tên đại đội trưởng cho tỉnh trưởng coi. Súng cướp cò làm ổng lãnh cả một băng vào bụng, chết lãng nhách tại chỗ”.
Điếu thuốc đã cháy gần hết, hơi nóng toả vào ngón, chàng móc túi lấy điếu khác, chúi đầu xuống sát cỏ châm nối.
“Hồi ấy tôi giữ tiền cho ổng. Lúc có tiểu đoàn trưởng mới, tính sổ bàn giao thiếu năm chục ngàn. Thế là tôi bị bắt… Mỗi lúc ổng lấy tiền, có biên giấy tờ gì đâu… Bây giờ ổng chết rồi, lấy ai mà chứng minh tiền đi đâu”.
“Anh có bị tù không?”
“Không, chuẩn uý. Bị phạt ba chục củ rồi đi thẳng đến sư đoàn này…”
Không gian tự dưng nhạt nét đi hẳn, chàng ngẩng đầu lên nhìn, một đám mây lớn đang kéo ngang che lấp mặt trăng. Có tiếng ho khẽ của một người vẳng lại từ phía xa, chàng tự hỏi không biết Ra tiêu lạm bao nhiêu cùng viên đại uý đã chết. Chàng toan nói ý nghĩ này nhưng rồi thôi, câu hỏi thoát ra miệng hướng về vấn đề khác:
“Anh có vợ không mà chưa bao giờ thấy đến thăm?”
“Có, nhưng nó bỏ tôi sau vụ lủng củng đó. Nó ham tiền lắm, chắc bây giờ nó đi lấy Mỹ rồi”.
Thế là đủ rồi, đừng hỏi thêm gì nữa, chàng tự nhủ không nên tìm rõ một điều nếu có hiểu nếu có biết cũng không ích gì. Mai đã đi phép… Bóng đen đã sát lại, ngồi xuống cạnh thì thào:
“Chỗ đó đóng được chuẩn uý… Có một mặt dựa vào lộ”.
“Sao anh đi lâu thế?”
“Tại thằng Năm chuẩn uý. Nó nghe thấy tiếng sột soạt trong bờ rào, cả bọn nằm cả đám nghe ngóng. Hoá ra con heo bự!”
Ra quỳ lên, đeo lại túi đeo lưng, hỏi nhỏ:
“Cho trung đội đi chuẩn uý”.
Mùi cỏ lại bốc lên, hình như có lẫn với hơi đất bắt đầu lạnh của ban đêm. Chàng hơi cúi xuống như để tìm tòi, nỗi xao xuyến bâng quơ vẫn còn lẩn khuất làm chàng như muốn lưu luyến nơi này, khoảng đất trũng tình cờ khuất gió và đầy cỏ mướt với tiếng con dế vẫn tiếp tục kêu ri rỉ ở gần. Không gian trống rỗng chung quanh, thoải mái và an toàn nhưng chàng đã chống tay ngồi dậy, xốc lại túi đeo lưng. Tháng này trời hay mưa nửa đêm về sáng và chỗ trũng này sẽ ngập nước, phải từ bỏ nó dù có mùi cỏ ngái và mùi đất đã bắt đầu lạnh sương. Trước khi bước lên bờ đất, chàng ngẩng đầu lên nhìn trăng tròn phía trên cao, máy móc tự hỏi đêm nay trăng lặn lúc mấy giờ.
Dãy nhà viên hạ sĩ đã chọn là một vị trí đóng quân xấu, chàng nhất định như vậy nhưng không muốn đi xa hơn. Trung đội dồn cục ở một chái lớn lủng củng nông cụ. Không còn cách nào hơn, trăng đã quá sáng và mỏi mệt dày đặc. Chiếc võng đã căng ra giữa hai chiếc cột sát sàn nhà, bóng tối bao phủ cả khu đất đóng quân làm chàng dễ chịu hơn: dù sao cũng chỉ còn lo hướng địch từ phía cây cầu đúc tiến lại. Hiệu thính viên mang máy lại gần, ngồi thụp xuống tháo khăn quàng cổ đưa vào ngực lau mồ hôi.
“Đống đa dặn chuẩn uý cẩn thận, địch về đông đêm nay rồi”.
Chàng im lặng lắng nghe tiếng đầu thuốc cháy rì rào nho nhỏ thật gần, tự dưng bứt rứt băn khoăn không biết nên ngủ để cả giày hay không. Để giày hay cởi ra, để hay cởi, nào có gì đâu nhưng tại sao vẫn chưa thể quyết định. Chàng bực dọc ngồi dậy, thò tay vào túi lấy thuốc nhưng chợt sững người bất động lắng nghe. Có tiếng thì thào sột soạt ở gần, chàng khẽ xoay đầu, định hướng tiếng động. Từ trong nhà, từ bên kia vách gỗ, chắc có người còn thức. Không có gì đáng nghi, chàng ngả người lên võng, duỗi thẳng hai chân gác lên cột lắng nghe một điệu nhạc để nhỏ từ máy phát thanh trong nhà vẳng ra. Chắc dân ở trong chưa biết có quân đóng sát phía sau, dự đoán này làm chàng yên tâm hơn, tự dưng quyết định dứt khoát về vấn đề giày: chàng sẽ ngủ với chúng. Có thế thôi, thật giản dị, cớ sao chàng đã băn khoăn bứt rứt khi nãy, tưởng như là một vấn đề khẩn cấp sống còn. Mình mệt rồi, chàng tự nhủ trước khi lắng nghe và nhận biết bản nhạc đang từ bên kia vách lọt ra êm đềm. Từ trong tâm, một giọng nói thầm những lời của bản nhạc nói về mong muốn của một người đàn ông muốn người yêu xích lại gần nữa để cùng nhớ lại một đêm nào vắng người. Trong một khoảng thời gian, chàng chìm hẳn trong chuỗi âm thanh dìu dặt nhỏ bé ấy, quên đi mùi cỏ ngái đất lạnh, nỗi xao xuyến vô định. Từ đâu đây xuất hiện nỗi ao ước như một buồn rầu được vào nằm bên kia vách, những lớp gỗ ngăn chặn những bóng tối những khoảng sáng của không gian bất trắc đêm ngày. Ước muốn phi lý, ý nghĩ phi lý nhưng chúng có đó và tồn tại dai dẳng bởi vì chính chàng đang bắt đầu muốn nuôi dưỡng chúng không buồn tìm hiểu tại sao. Bỗng dưng thật nhẹ, chúng tan biến đi, mùi cỏ mùi đất, nỗi xao xuyến và cả nỗi ao ước như một buồn rầu. Chuỗi âm thanh trải dài, loãng ra một nền nhạt trên đó một nguồn sáng mới xuất hiện chói chang. Nguồn sáng nào, chàng vụt buông hai chân xuống đất rồi nhỏm dậy, tiếng loa vụt nghe rõ hơn, Ra cúi xuống thì thào:
“Hình như chúng đang gọi đại đội mình”.
Chàng xoay đầu cố nhận ra những lời nói khi tỏ khi mờ, nhưng không thành công. Hiệu thính viên đã mở máy nhưng ngoài những âm điện tử rì rào, Hy im lặng, đồn im lặng. Chàng mở bi-đông uống một ngụm dài, cầm súng đứng dậy:
“Ra phía lộ xem sao, anh Ra”.
Khỏi vách nhà, sân đất như sáng bừng vì ánh trăng làm chàng ngần ngại. Có thể địch đã ở gần và đang đi tìm trung đội chàng, có thể là thế có thể không. Chàng vụt lao qua sân, chúi vào bóng tối che chở của một cây lớn. Tiếng loa nghe rõ hơn. Ra thì thào :
“Bọn chúng đang kêu ông Hy về hàng…”
“Im đã…”
Chàng từ từ đứng dậy tựa sát vào gốc cây, lắng nghe. Hình như loa vừa nhắc đến tên chàng. Viên hạ sĩ quan khẽ hích vào vai:
“Chúng đang gọi cả chuẩn uý. Chúng tưởng trung đội mình hôm nay đi cùng đại đội”.
Tiếng chó đột nhiên tru lên phía sau. Chàng vụt quay lại, hạ súng ngang. Không có gì cả, chắc chó đơn độc sủa trăng.
Chàng tiếp tục lắng nghe, quan sát. Các cảm quan mở rộng dò xét đến mức nhức nhối và khối xương thịt của chàng như muốn chìm lẫn vào thân cây, bờ đất chung quanh. Toàn thân, từ tế bào li ti, từ sợi tình tự vô danh trong sâu thẳm tâm hồn, đang âm thầm cồn cào đòi hỏi một khoảnh khắc tách khỏi thứ không gian bất trắc đau mỏi này. Chúng và chàng đều mệt quá rồi, tất cả muốn nằm xuống nghỉ ngơi, tan lẫn trong khoảng trũng ốc đảo có mùi cỏ ngái bốc lên lẫn hơi còn ấm của đất ven con lộ như một vệt trắng mất hút phía xa trong thứ ánh trăng trắng xoá đến vĩnh cửu ở chân trời đất. Chàng cố gắng suy luận để tìm đến một cảm giác an ninh nhưng vô ích. Một tiếng chó tru đơn độc không là một dấu hiệu báo nguy cho trung đội, nhưng viên đạn chiếu sáng vô cớ của đồn, vụ chạm súng với tổ báo động địch, con bò lỗ chỗ vết đạn đứng run lẩy bẩy trong chuồng bên cạnh người đàn bà ngồi khóc không rung đôi vai không hở một âm thanh và bây giờ mùi cỏ ngái kỳ diệu với tiếng loa gọi tên lúc chìm lúc nổi. Chàng đặt một tay lên vai Ra ấn khẽ ra lệnh ở nguyên vị trí trước khi đặt gót chân lên đất thật êm đi vòng quanh khu nhà. Chàng cẩn thận né từng vết trăng lớn lọt qua cành lá, tai và mắt như mở rộng và căng ra nghe ngóng. Người lính gác giặc phía bên kia bất động trong đám chuối đến nỗi chàng chỉ nhận ra vị trí của hắn nhờ đường nét thẳng và thước thợ của khẩu tiểu liên. Người lính tiếp tục đứng im khi chàng đến bên cạnh. Khu vườn bên kia rậm rạp, nhô cao thấp như một nghĩa địa nhỏ, hai dãy nhà song song có đầu hồi gần sát nơi người lính gác. Chàng thất vọng: địa thế này như một tử địa. Địch có thể đến gần đến độ dùng lựu đạn ném tay mà lính gác giặc vẫn có thể chưa thấy. Hơn nữa, nếu địch tới đóng, chỉ còn cách cố thủ tử chiến: mặt lộ quá cao để có thể băng qua rút chạy an toàn. Chàng thì thào:
“Nếu chúng đến, sẽ đến phía này. Anh có lựu đạn không, Năm?… Có địch, ném lựu đạn trước khi bắn. Dặn cả người phiên sau như thế”.
Chàng ngồi xuống thềm cạnh võng, úp ngược mũ trên đùi, áp mặt vào châm thuốc hút, những giọt mồ hôi trút từ thái dương vào kẽ mắt cay sè làm chàng vội ngẩng lên trước khi kịp để cho ngọn lửa đốt cháy đầu điếu thuốc. Những giọt mồ hôi nhờn trơn dưới vải áo bắt đầu bay dần mát mẻ theo mỗi hơi thuốc hít vào trong lồng ngực. Chàng lần tay cởi cúc áo, kéo túi nhựa đựng bản đồ ra đặt xuống. Thềm đất mát lạnh dưới mông, chàng bắt đầu thấy dễ chịu và thoải mái trong ý thức sáng suốt nhờ thứ cảm giác này chỉ là tạm bợ và không tồn tại lâu hơn đời sống điếu thuốc đang tự tiêu huỷ âm ỉ trong lòng bàn tay úp kín. Lưng chàng lần theo chiếc cột gỗ, tìm vị trí vững chắc và êm ái nhất. Tâm hồn như dịu bớt đi, bớt cồn cào. Chàng nhắm mắt lại an nghỉ. Tiếng nhiều con dế kêu rên rỉ xa gần, tiếng rõ nét một con mối tắc lưỡi trên đầu cột. Đột nhiên, như không vì một lý do xác đáng nào, đứa trẻ bên kia vách vụt cất tiếng khóc nức nở tiếp theo ngay bằng tiếng ru của người mẹ. Chàng không làm một cử động, một chú ý nhỏ vào vùng âm thanh mới tung ra bên kia vách gỗ, nhưng những chữ đều đặn vẫn tạo ra các ý niệm nối dần lại như chịu gắn bó bằng ma lực, bất chợt như húc tung một vách ngăn, làm chàng xúc động và chìm trở lại một đêm trăng đã lâu, chàng bị đau tai nhức nhối và chỉ ngủ thiếp đi sau khi được mẹ bế ra sân cho gối đầu lên đùi và ru khe khẽ bằng cái giọng đang tiếp tục ngân lên bên kia bức vách sau lưng. Xúc động biến thể dần như màu sắc trong kính vạn hoa nhưng đủ tác động làm tâm hồn hỗn tạp ngân vang và không vì một nguyên do nào hay vì giọng ru con ngái ngủ cổ xưa kia, chàng đang tự dưng muốn khóc. Để trấn tĩnh, để đàn áp xúc động đang muốn đưa mình trở về trạng thái trẻ nhỏ có thể khóc ngon lành vì những cớ vô lý đối với tâm hồn người lớn, chàng ngồi thẳng dậy, mở mắt nhìn và cố ghi nhận những đường nét tối sáng chung quanh. Hiệu thính viên chưa ngủ, trên đầu còn đội mũ nhựa còn cái ống liên hợp lủng lẳng làm như hắn có cái tai dài dị thường trong bóng tối của chái nhà. Chậm chạp và lần lượt chàng nhận ra những chiếc võng khác rải rác với các chân tay thòi ra quều quào. Chưa ai ngủ cả, chưa ai ngủ được. Nỗi bất trắc đã ngự trị dày đặc và nặng trĩu. Chàng ngừng mắt khá lâu ở khẩu trung liên trước khi một ý nghĩ hình thành làm trong bụng thoáng có một co thắt đau đớn: dù xạ thủ đã lựa vị trí tốt nhất, trung liên chỉ có một thị trường không quá hai mươi thước. Không thể bắn kịp hết một băng và phóng lựu không thể khai hoả nếu địch xung phong bằng mã tấu. Trận chiến chỉ kéo dài năm phút và chấm dứt bằng mười bảy kẻ của trung đội cô đơn này gục xuống thềm đất nhiều rác rưởi không tên. Các suy luận về tình hình máy móc kế tiếp nhau làm lý trí chàng thức tỉnh dần, nỗi xúc động không còn dấu vết tới độ bây giờ, trong khi đút bản đồ vào ngực áo, chàng tự hỏi tại sao chỉ có vậy thôi sao nước mắt lại dồn ứ lên như muốn trào ra. Tiếng ru con vẫn tồn tại bên kia vách nhưng rời rạc và thấp dần, chàng lắng nghe và cố nhận dạng câu ca dao cổ cho đến khi những âm thanh sau cùng chết đi trong giấc ngủ của người đàn bà. Chàng đưa bàn tay khum sát xuống đất quệt mạnh cho tắt đầu điếu thuốc, cầm súng đứng dậy men theo bóng tối của hàng hiên nhỏ, tiến ra phía lộ.
Ra vẫn đứng nguyên tại vị trí cũ, thân thể ép lẫn vào thân cây. Hắn cầm vai người chỉ huy xoay hướng về phía đồn:
“Chuẩn uý nghe thấy tiếng chi không?”
Chàng lắng nghe, cố gắng nghe, nghiêng hẳn đầu nhưng không thấy gì ngoài tiếng dế đều đặn và một thoáng gió trên ngọn cây. Chàng quỳ xuống, trườn mình sát lộ, tì cằm vào cánh tay giữ súng, chờ đợi cho tai thuần trong không gian bao quanh. Bây giờ tiếng kim khí va chạm vào nhau và va vào mặt nhựa cứng nghe rõ rệt. Hình như còn lẫn cả tiếng người nói trên một giọng cao. Ra ghé sát tai, nói đứt đoạn:
“Chúng đang bắt dân… đào đường…”
“Gần đồn quá, gần đồn hơn đây… Tại sao đêm nay chúng làm ồn dữ vậy”.
Tại sao ồn ào đến độ cố ý như vậy? Chàng hồi tưởng rất nhanh một đêm cùng Vinh và toán thám báo tới ấp Bưng rình địch: đám dân bị xua ra khỏi nhà đào đất lấp cửa ấp nằm trên quốc lộ đã làm việc mệt mỏi, chăm chỉ nhưng im lìm sợ sệt. Không một tiếng nói và mỗi nhát cuốc nhát thuổng bổ vào lòng đất đều hình như được kìm giữ ghì níu tiếng vang lại. Đêm nay chúng gọi loa, bắt dân vào ngay gần vị trí đóng quân của Hy, chắc chắn âm mưu gì đây. Tại sao đêm đó lại theo Vinh? Uống nhiều cà-phê quá ngủ không được? Vì cớ gì đồn lại cho bắn chiếu sáng khá lâu sau khi trung đội chạm súng trong khi hiệu thính viên nhất định cả quyết không nghe thấy Hy yêu cầu. Chúng âm mưu gì đây, nhằm lừa Hy, chàng hay đồn… âm mưu gì, âm mưu gì… Không phải tại cà-phê uống nhiều, buổi chiều uống có một ly nhỏ, lại với sữa. Chắc chúng xua dân ồn ào đắp ụ làm nghi binh cầm chân Hy và đồn để dồn quân đánh úp ấp Bưng? Chàng vụt tìm ra nguyên do đã tạo ra vụ đi theo Vinh đêm ấy: ngày hôm sau chàng được đi phép dài hạn như lần này và từ buổi tối bức bí tình dục cuồn cuộn thôi thúc, chàng không muốn xuất tinh lúc ngủ trong khi chỉ còn nửa ngày nữa, Bích và chiếc háng nở tròn trịa sẽ vào tầm sử dụng… Chàng bực dọc ngồi thẳng dậy xoay người dựa lưng vào lộ, cố gắng tập trung tư tưởng suy nghĩ về địch, cố gắng ngăn chặn một thứ như một tâm hồn thứ hai như một con sông ngầm miên man lôi cuốn chàng vào không gian thời gian có Bích, có Vinh, có nỗi tình dục dồn ép cần phải kìm giữ, dập tắt đi thêm vài giờ. Chàng níu kéo vội vã một mệnh đề, ghìm lại bám chặt lấy để tập trung tư tưởng. Địch cố ý lộ hình tích để âm mưu gì. Âm mưu gì, âm mưu gì… Chắc từng ấy rùm beng không phải để diệt trung đội lẻ loi này bởi vì… Hình như có tiếng loa, không phải, tiếng cười hay hát của một người đàn bà xen lẫn với tiếng cuốc va chói thanh trên mặt nhựa, ồn ào quá khả nghi. Thứ nhất bởi vì đã dẫn quân trở về gần đồn sau khi chạm súng, thứ hai bởi vì, con sông ngầm vụt trồi lên làm toàn thân chàng hồi tưởng phút khoái cảm trên người Bích trong ngày nghỉ phép sau đêm theo Vinh tới ấp Bưng. Chàng vội cúi xuống vặt mạnh một cọng cỏ may, cố gắng thu lại tư tưởng suy nghĩ tiếp, thứ hai bởi vì không lẽ bày trò mất công như vậy chỉ để diệt mười bảy kẻ của trung đội chàng. Bây giờ phải làm gì đây, chàng vụt nhận ra cái giống vương vãi quân đang… Chàng vội đổi thế ngồi, răng cắn đứt đôi cọng cỏ, vị nhựa ứa ra tê tê đầu lưỡi. Phải quyết định ở lại hay rút về trước khi quá muộn. Không thể ở nguyên, vị trí tử địa nếu bị tấn công. Rút lui? Rút ra sao đây, địch chắc chắn đang án ngữ trên đường về và đang có âm mưu…
Vinh đã nói xong, rời khỏi ghế gần tiểu đoàn trưởng, lại bàn cầm chiếc ly, hất nước thừa xuống đất, cầm chai rượu lên soi trước ánh đèn măng-sông. Mọi người hình như đồng ý im lặng để ước tính tình hình, Định vụt chỉ còn nghe thấy tiếng đèn kêu như một loại muỗi lớn, tiếng lưỡi lê người lính tạp dịch đang chặt đá, tiếng Vận nho nhỏ dịch những lời báo cáo của Vận cho viên cố vấn và sau cùng tiếng chai rượu va vào miệng chiếc ly Vinh đang cầm ở tay. Định ngẩng lên, gặp mắt Vinh đang nhìn chàng như châm chọc:
“Làm một ly whisky nữa chăng, lính mới! Không phải tối nào cũng được uống rượu của quan đại Mỹ đâu… Ly toa đây hả?”
Tiểu đoàn phó tắt đèn pin đặt thẳng đứng trên bản đồ trải trên chiếc ghế, quay lại nói:
“Tôi đề nghị cho Hy tới dẹp chỗ chúng đang đào đường đắp mả già Hồ. Bảo hắn bắn chỉ thiên cũng được chứ gì! Vừa không chết dân, vừa tránh được xài xễ của Tư tưởng Kinh kỳ sáng mai nếu có mấy cái mô lù lù cách đồn chưa hơn một cây số…”
Viên trung uý già từ thành đồn gọi vào:
“Tụi chúng đang đốt cả đuốc kia… Hỗn thật! Thụt cho tụi chúng mấy quả 81 cho được việc!”
Tiểu đoàn trưởng nói:
“Nếu tụi chúng đang muốn nhử Hy vào đấy? Sập bẫy!”
Yên ngẩng đầu khỏi bản đồ:
“Cũng có thể chúng định cầm chân Hy và đồn để đánh ấp Bưng. Nếu đúng như vậy bọn mình hết xoay xở”.
Định hỏi tiểu đoàn phó:
“Ở đây tổng cộng có bao nhiêu quân, đại uý?”
“Đại đội Hy và chừng tám chục trong đồn”.
“Hai đại đội kia đóng đâu, sao không gọi về, đại uý?”
“Gọi làm sao! Họ đóng hai đồn bên phải bên trái cách đây ít nhất bảy cây số đường chim bay. Liên lạc bằng siêu tần số còn chưa xong, nói chi chuyện gọi về”.
Định tính nhẩm số quân trong ngoài và nghĩ đến hơn mười cây số quốc lộ ngoằn ngoèo dưới ánh trăng phải giữ mỗi đêm. Chàng nhớ lại vẻ mệt mỏi của Hy, của Hiệu, của Vũ với chiếc mũ sắt lật ngửa xoay nhè nhẹ trên ghế bố lúc chiều. Họ đang làm gì trong bóng trăng ngoài kia, sự hiện diện của họ bây giờ đối với chàng không còn là gì hơn là một chữ thập xanh trên bản đồ cần phải di chuyển đến một góc ô vuông nào đó. Những hiện hữu trừu tượng bởi vì dù cố gắng, chàng vẫn không hình dung được những người lính, những bóng đen vô danh của Hy, của Vũ với chiếc mũ sắt lật ngửa quay nhè nhẹ đang lang thang trong vùng bóng sáng và tối ngoài tường đồn. Cảm giác lạnh buốt của thành chiếc ly từ đâu vụt áp vào má làm chàng giật mình ngẩng lên, bàn tay tự động đỡ lấy ly rượu Vinh đưa tới:
“Uống đi lính mới… Uống hơi dài vào… Nữa. Được rồi đó, mẹ kiếp, trông cái mặt nhớ vợ dễ ghét quá. Mẹ kiếp!… Vâng đại uý, tôi đoan chắc hai thằng tôi giết thuộc tổ báo động của chủ lực tụi chúng bởi vì thứ nhất chỗ chạm súng là nơi tập trung quân lý tưởng của địch vùng này, từ đó chúng tiến về Bắc bình Du-lu hay ấp Bưng đều nguỵ trang được lại quá đông dân ở không sợ ta pháo kích, thứ hai là tôi vừa nhào lên lấy súng, chúng đã đông đảo tứ bế. Chắc chắn là đại đội của tên Hải kéo về”.
Định hỏi tiểu đoàn phó:
“Hải là ai, đại uý?”
“Quận uỷ hay huyện uỷ của tụi chúng tại đây”.
“Ta biết rõ hết tên tụi chỉ huy bọn chúng không, đại uý? Trong phạm vi tỉnh này…”
“Biết chớ sao không”.
Vinh quay lại, lắc viên đá leng keng trong chiếc ly:
“Bọn chúng biết bọn mình còn kỹ hơn. Như toa lính mới tới chẳng hạn, thường toa hay ị vào lúc nào, có thích đái giữa lộ trong trăng, nhớ vợ nhiều vào thanh thiên bạch nhật hay vào lúc canh ba gà gáy o o, ban điều nghiên của tụi chúng chỉ ba ngày nữa là biết đủ. Mẹ kiếp, đấm đá ở đây chẳng khác gì chơi cờ người! Lính mới muốn sống mà về với vợ, phải luôn luôn tự coi mình như quân ngoại quốc tới vùng này”.
“Anh nói tôi không hiểu”.
“Sao toa thông minh mà lại chậm hiểu như vậy! Như thế có nghĩa là trừ khi có hành quân lớn, toa đừng có tin bất cứ thằng dân nào ở đây, kể cả cái lão ba Tàu bán quán ngoài kia lẫn con bé bị khai thông từ khuya mà cứ giả bộ trinh nữ, mẹ kiếp! Sốt cả ruột”.
Tiểu đoàn phó cầm chiếc ly giơ lên:
“Anh Vinh, cho tôi một chút rượu… Thôi, ít thôi… Không phải dân ở đây theo Cộng cả đâu. Nhưng họ phải một cổ hai tròng mới sống được. Đóng thuế hai bên, nghe lệnh hai bên”.
Xuân từ phòng truyền tin phía trong bước ra sân vội vã, tay cầm mẩu giấy đưa cho Yên:
“Vũ vừa liên lạc, đại uý. Hắn đóng tại đây nhưng nói không thể ở đó qua đêm được. Sẽ đưa trung đội tới điểm này trong nửa giờ nữa”.
Yên đã vạch xong mũi tên xanh trên mặt nhựa bản đồ, giơ lên:
“Hắn định băng qua lộ và rút về đóng gần trường học, đại uý”.
Tiểu đoàn trưởng cúi xuống, nét mặt nhăn nhó:
“Rắc rối quá cái tên này! Coi nào, lộ trình này làm hắn phải ép sát lộ ngay đúng chỗ tụi chúng đang đào tường”.
Vận nói:
“Ngoài một trăm mét là ruộng trống chỗ đó”.
Tiểu đoàn trưởng đứng ngẩng đầu nhìn Vinh đang giả như im lặng không nghe thấy gì như để dò hỏi một ý kiến rồi quay lại cáu kỉnh la lớn vào phía trong:
“Mang cái C.10 đang liên lạc ra đây! Gọi Vũ cho tôi hỏi”.
Định tẩn mẩn nhìn theo một giọt mồ hôi đang lăn trên sống lưng hiệu thính viên khom người đặt chiếc máy cạnh bàn, giọt nước óng ánh, bẹp dúm và xấu xí trên nước da sạm nâu. Trong khoảnh khắc, chiếc lưng nhỏ và trắng mịn của Linh hiện ra, uốn cong chập chờn rồi vụt biến đi và chàng tiếp tục thấy giọt mồ hôi đang phồng lớn hơn lăn vào trong cạp quần người lính bây giờ đã ngồi xổm trên sân, miệng mấp máy liên tiếp trên ống liên hợp:
“Vĩnh ba Vĩnh ba, đây Thanh gọi Vĩnh ba nghe không trả lời… Tôi nghe anh rất nhỏ, tôi nghe anh rất nhỏ nghe không trả lời”.
Hiệu thính viên im lặng nghe, ngước nhìn tiểu đoàn trưởng, đổi giọng:
“Họ đang chuẩn bị để di chuyển, đại uý”.
“Gọi thẩm quyền cho tôi nói chuyện”.
“Vĩnh ba Vĩnh ba, thẩm quyền của Thanh muốn nói với thẩm quyền Vĩnh ba nghe không trả lời…”
Một tiếng diêm bật nổi lên làm Định thấy thèm thuốc. Chàng rút một điếu và khi đặt lên môi, chàng nhận ra những người chung quanh đều đã hút và những đốm lửa đỏ lập lòe rải rác đến tường đồn, hố súng cối, trên lô-cốt đại liên. Những làn khói cuộn vòng tròn rõ từng khúc cong và bị cắt ngang mất hút ngay mái ngói ngăn chặn ánh đèn. Có những cử động, di chuyển chậm chạp hướng về phía tiểu đoàn trưởng đang im lặng, mắt như lạc hướng, tay ép mạnh ống liên hợp vào tai như muốn làm hằn những âm thanh từ xa về. Chàng nhận ra sự quy tụ sát cánh ấy cùng một lúc với nỗi ước mong được nghe hiểu nửa câu nói sau của Vũ đã bị tiếng xe làm mất lúc trời sập tối, nửa câu nói có thể là sau cùng của người ấy, bây giờ như ở một nơi thật xa đối với chàng.
Tiểu đoàn trưởng đã đưa trả máy cho hiệu thính viên, đứng dậy kiếm chiếc ly uống dở dang của mình trên bàn:
“Còn đá không, cho một ly nửa đây, Bảy!… Mười phút nữa Vũ sẽ di chuyển sát quốc lộ bên trái. Hắn nói sẽ quan sát và báo cáo về chỗ địch đương bắt dân phá đường… Hy đã cho đại đội về chỗ khúc quanh gần ngã ba rồi phải không?… Anh Xuân báo cho Hy biết ngay và bảo chuẩn bị tác chiến, Vũ có thể sẽ bị kẹt. 81 ưu tiên cho Hy! Anh Yên liên lạc pháo binh xin ưu tiên sẵn, cho toạ độ bên trái chỗ đào ụ ba trăm thước. Vũ nói sẽ có thể cần hoả lực pháo binh, hắn sẽ áp sát lộ tối đa, nhiều hy vọng đụng… Vinh! Thám báo ra sao?”
“Tôi cho ba tên đi rồi. Chắc đã tới ngôi miếu sau nhà hát… Không cho đi nhiều hơn được, đại uý. Tên Sần bị thương rồi, còn mấy tên kia để chốc nữa còn đi với tôi. Không đại uý, các tổ báo động không thấy báo cáo, chắc tụi Cộng không sát lại đồn… Tư tưởng Kinh kỳ không cho được tin mới nào cả… Vâng, tôi sẽ phối kiểm tất cả ngay”.
Các cử động và di chuyển bây giờ phân tán làm nhiều hướng, vội vã và im lặng. Định nhìn quanh quẩn và sau cùng nhận ra quanh bàn chỉ còn tiểu đoàn trưởng, viên cố vấn, hiệu thính viên đang lúi húi cạnh máy và viên trung uý già vừa rời thành đồn tiến lại. Chàng đứng dậy lại chiếc cột lấy khẩu súng, hiệu thính viên từ buồng truyền tin thò đầu ra nói lớn:
“Đại uý! Ông Hy cho biết có địch xuất hiện phía gần ngôi chùa, chưa rõ quân số”.
Chàng nghiêng người vào buồng đầy dụng cụ và dây ngang dọc, Xuân ngẩng đầu lên cười, đưa ống liên hợp lên:
“Nghe coi! Như thế này sẽ lộn xộn là cái chắc”.
Định đeo súng lên vai, cầm ống lắng nghe và nhận ra chính giọng Hy đang gọi trung đội Vũ một cách hối hả: “Vĩnh ba bắt đầu Du-lu cải cách chưa, Vĩnh ba bắt đầu Du-lu cải cách chưa…”
Định rời buồng ra cửa đồn. Các binh sĩ ngồi rải rác dưới ánh trăng, nói chuyện rì rào. Chàng nhận ra tiểu đoàn phó đang tì hai cánh tay trên mặt bức tường gạch thấp :
“Đại uý có tin chắc đêm nay có đánh lớn không?”
“Một tiếng nữa là cùng, khi trung đội đi kích rút về qua chỗ địch đang đắp đường. Tụi chúng không thể ngờ toán kích lại ở hướng đó… Hơn nữa, cứ mỗi lần Vũ dẫn quân đi là y như có chuyện, không lớn thì nhỏ… Anh cứ đợi xem tôi nói có đúng không. Cho tôi điếu thuốc… thuốc đen hả. Tốt quá! Từ hồi thoát chết ở Điện Biên Phủ, tôi chỉ ghiền thứ này… Đúng đấy anh, Vũ, Vinh ban 2 và Đắc đại đội trưởng đại đội 2 hiện đóng ở Tân Đông là những sĩ quan khá của tiểu đoàn. Riêng Vũ, hắn chưa để mất một binh sĩ nào từ hồi đến đây. Lính bảo nhau hắn không có tướng sát quân nên chịu lắm.
“Tôi có cảm tưởng Vũ đêm nay không còn may mắn cũ”.
Định lắng nghe câu nói của mình đang rơi vào khoảng không, nhận ra nó cầu kỳ và trịnh trọng kỳ dị. Viên đại uý già lặng im hút thuốc làm xuất hiện trong chàng nỗi lo ngại vẩn vơ đồng thời với ao ước muốn được hiểu nửa câu nói sau cùng của Vũ đã mất hút vĩnh viễn trong tiếng động cơ của một chiếc xe vô định tình cờ chạy qua. Chàng tháo khẩu súng khỏi vai, đặt nằm ngang trên thành tường. Bên kia lộ, mái chợ lợp tôn tưng bừng ánh sáng trăng. Một con mèo lững thững đi, bóng chập chờn lướt từng khoảng đều rồi mất tăm tích đột nhiên vào vùng bóng tối phía dưới. Hai dãy nhà song song chạy dài hai bên chợ, các ngọn đèn chai treo lơ lửng trong khối bóng tối mái hiên, những đốm vàng mờ nhạt hiện diện như không để soi sáng bất cứ cái gì khác ngoài chính mình. Con mèo uyển chuyển từ một vũng tối bước ra đứng sững, chàng tì cằm lên cánh tay, chăm chú quan sát con vật nhỏ, tự hỏi nó không biết có phải vừa lững thững đi trên mái chợ hay không.
Khối sáng bùng trên cao, vàng nhạt bao phủ không gian nhưng chị vẫn ngồi bất động trên thềm. Có tiếng người gọi con thất thanh từ một nhà nào làm một thói quen thức tỉnh chị, muốn đưa chị vọt vào trong nhà ôm con nhào xuống hầm. Nhưng cơ thể vẫn lặng thinh, tê dại, rũ rượi và nhờn trơn trên nền đất có khí lạnh thấm ướt át qua vải quần. Hải chưa chết như người ta đồn, Hải đã trở lại như những bàn tay sờ soạng lục lạo với khối nặng co quắp sức mạnh trên da thịt… Khối sáng vàng sát xuống ngang các ngọn cây, những bóng đen dài ngắn lộn xộn của cành lá nhào dài như lao vào mái hiên. Không có tiếng nổ, không có tiếng súng nào tiếp theo cả. Khu đồn tiếp tục nín im. Nguồn sáng vàng sát xuống đất một nơi nào bên kia, ánh trăng hiện ra nhàn nhạt rồi trở sáng trắng tràn đầy trong sân, trên tóc, trên toàn thân đang tê dại, nhờn trong chờ đợi… Chị chờ đợi, không thể làm gì khác hơn là chờ đợi cái mà rõ ràng, thật rõ ràng chị không hề mong ước hay thích thú. Nó sẽ đến, Hải sẽ đến, tất cả sẽ đến không thể tránh được, mạnh mẽ vô cùng, đến nỗi không thể làm gì hơn là gục xuống, là ngửa ra, tứ chi rã rời không còn sai khiến nổi. Một luồng gió luồn từ phía sau tới làm mát da lưng, mang theo thấp thoáng âm thanh lộn xộn của những kẻ đang đào đường đắp ụ. Chị bừng tỉnh, thì thào: Đi chỗ khác, vào nhà bồng thằng nhỏ đi chỗ khác. Ra vườn, vào ruộng mía… Hắn sẽ không thể nào tìm ra trong đêm. Ngày mai trời sáng, chị là của Ba, của Tía, của một thứ quyền lực khác nhưng trong đó chị còn có thể cử động, la hét, chối từ. Chối từ kể cả Ba. Chị vội vã đứng dậy, quay lưng lại thứ ánh trăng níu kéo, tê liệt. Chưa bước tới bực cửa, vải quần lớp nhớp dán dinh dính vào da làm chị ngừng lại nghe ngóng: cảm giác nhơ nhớp thật rõ rệt, nhắc nhở Ba, mùi thuốc khét và nỗi ràng buộc vào kẻ khác. Hình như một dòng chất lỏng, nhiều dòng đặc sệt bò dài trên người, phủ từng vết nhơ nhớp, thứ nhơ nhớp làm chị không còn muốn nghĩ muốn làm gì ngoài hơn là gục xuống, buông thả tứ chi chịu đón những cái không tránh được, không tẩy xoá được của một vết chàm in hằn trong quá khứ. Thử vùng ra kháng cự, lẩn vào bóng tối vườn mía bụi chuối, liệu rồi có ích chi hơn là kéo dài nỗi chờ đợi thêm một ngày. Đêm mai, trời tối chưa tàn điếu thuốc Ba hút sau bữa cơm chiều, Hải và quyền lực ấy trở lại như thế vững chãi nguyên vẹn.
Cả khoảng không gian Tía xông vào Hải đấm đá túi bụi ven sông bừng sáng lên, chị nhắm mắt thở dài. Từ buổi đó, Hải đi vào bóng đêm và trở thành quyền lực âm thầm có những lời nói dịu ngọt nhưng sắc lạnh đến ghê người, Tía trở về trong vùng quyền lực của ban ngày, của gã trưởng đồn dân vệ gườm gườm lẫn những tiếng la thảm thiết của ai đó, của chị, của những giấy tờ, những đoàn xe chạy ầm ì trên lộ, những trái hoả châu sáng loà át ánh trăng và những viên đạn đại bác rớt ầm ì rung chuyển mặt đất. Chị đã không hề chọn lựa chi hết, không biết mình còn có quyền chọn lựa nữa hay không. Chị ở yên với ngày đêm theo nhau qua, để sống và sợ sệt, để chịu cuộc đời mình dù nó tới với nỗi đau đớn liên tiếp khi những gã trong đồn gườm gườm xáp lại hay nỗi rã rời, mất mát tứ chi trên lá khô khi Hải trở lại quều quào sức mạnh và ham muốn… Ba đâu, Ba ở đâu… Chị mở mắt thật chậm, Ba đang đào đường đắp mô trong bóng tối bóng trăng và mồ hôi tầm tã, Ba đang phá mô san đường trong ánh nắng chói gắt và mồ hôi tầm tã. Ba ở đây ngay bên cạnh, Ba ở đâu ngoài xa, cũng đến vậy mà thôi, Ba không là gì cả, không là gì hết trong ánh sáng và bóng tối. Ba và những người như Ba như chị là của lúc nhá nhem, là của một khoảnh khắc ngủ với nhau vội vàng ngắn như thứ sung sướng ấy của cơ thể. Chị đột nhiên lắng nghe, hình như đứa nhỏ vừa khóc trong nhà. Không phải, nó chỉ cựa mình ú ớ rồi im. Có tiếng một con muỗi từ trong nhà bay vụt qua tai, chị nghe rõ tiếng vi vu ngắn của đôi cánh vô hình đồng thời với một quyết định giản dị: đi tắm cho sạch, thay quần áo mới, đợi Ba về cùng bàn. Phải chọn lựa, chọn lựa đi là hơn, đi băng qua sông vào sâu trong khu, vùng quyền lực của bóng tối, nơi chị có thể nhìn thẳng Hải, gạt những bàn tay rờ rẫm sang một bên. Hay bồng con cùng Ba bỏ xã lên tỉnh, vào hẳn vùng quyền lực ban ngày nơi chị có thể đùa giỡn với nỗi thèm muốn của Tía, của nhiều người, không e ngại còn có những đôi mắt gườm gườm sát lại gần… Phải đi tắm đã, những dòngg đặc sệt hình như bò rì rầm trên bắp chân, nhớp nháp quện vải quần dán vào da thịt. Chị giơ tay giật chiếc áo và chiếc quần phơi trên giây dưới mái hiên, băng qua sân đến vại nước. Chị co một chân lên, lấy hai ngón tay quắp chiếc quần vừa tụt ra thả vào chậu giặt, thoáng một chút xấu hổ khi nhìn thấy phần đen thẫm giữa thân mình. Một luồng gió từ phía lộ thổi tới làm ánh trăng như thành làn chất lỏng mỏng tang và dịu mát trên da. Gáo nước đầu tiên lạnh buốt, chị dội rụt rè cho cơ thể quen dần, nghe ngóng nước róc rách trong các khe ngách. Đột nhiên một niềm xấu hổ ở đâu tới làm chị cuống quít kỳ cọ dù biết chắc rằng trong xã không còn một người đàn ông nào, chị dội liền ba gáo cho trôi hết lớp bọt lấp lánh ánh trăng trên ngực thẳng cứng căng tức sữa. Phải cho thằng nhỏ bú gấp… Chị xỏ chân vào guốc, lại gần cọc móc quần áo lấy khăn bông lau những giọt nước đọng trên người. Một làn gió nhẹ phớt va vào lưng và một mùi thuốc lá âm ấm phảng phất. Chị giật mình vùng quay lại, rùng mình. Một người đàn ông đứng dựa vào cây hương hút thuốc tự bao giờ, đầu lửa đỏ lập lòe không đủ soi sáng khuôn mặt khuất ánh trăng dưới vành chiếc mũ. Người cứng ra bất động, Hải đấy, hai tay buông xuôi theo chiếc khăn bông rũ một khối trắng trên đất, Hải trở về đứng kia từ bao giờ, chị không còn có thể làm một cử động nào dù chỉ là kéo chiếc khăn lên che vùng tủi hổ. Đốm lửa đỏ sáng loé lên rồi rớt xuống đất cùng chiếc mũ, người đàn ông rời cây hương tiến lại, bàn tay nóng bỏng rám sạm bám vào vai kéo lại. Bây giờ chị nhìn thấy rõ nét mặt người tình cũ, gầy guộc và khắc khổ, trong đôi mắt phản chiếu ánh trăng loáng lên thứ đam mê cuống quít như của Tía, của Ba. Từng cử động của bàn tay bắt đầu lướt trên da lưng, dò xét, mạnh dạn dần, bắt đầu lục lạo. Chị thốt lên: Đừng! Cái gì đừng, còn có thể đừng được không, chị tuyệt vọng muốn oà lên khóc khi Hải rời xa vài bước tháo chiếc chiếu phơi vắt trên bụi cây và những giọt nước mắt nóng rớt trên da ngực khi người đàn ông đẩy nằm xuống chiếc chiếu đã trải một nửa dưới bụi chuối lốm đốm từng vệt ánh trăng.

Comments are closed.