Bờ kia (kỳ 3)

Nam Dao

HAI

Lạnh, lạnh thấu xương. Cái lạnh ngấm vào người từ mọi chốn. Từ nền đất ẩm, rơm trải ướt nhớp nháp. Từ mái rạ tênh hênh để gió luồn qua kèo cột thông thống. Từ tiếng ếch nhái ồm ộp quẫy nước, và từ cả bóng đêm chập chùng chẳng biết đến bao giờ mới sáng. Anh Giáo thu người nằm co, đầu gối đưa sát cằm, nhưng thế nằm đó khiến những khớp xương nhức nhối như kim châm. Bọn chuyên tra tấn có nghề. Chúng nhè khuỷu chân, khuỷu tay, xương lưng, xương hông mà nện.

Anh Giáo nhắm mắt, nhưng không thể ngủ được. Chiều nay, anh cùng hai thanh niên bảo vệ các chị các mẹ trên chiếc xe trâu căng khẩu hiệu “Bác Hồ ơi, cứu lấy dân”. Bọn “quần chúng tự phát” mặt mũi hầm hầm vung gậy gộc hò hét, đằng sau là kiêu binh áo xanh đứng quan sát, rất bàng quan, mặt lạnh như tiền. Anh Giáo nói “Ta lùi ra sau thôi! Chúng nó chỉ đợi thằng chỉ huy ra lệnh là chúng nó xông vào đánh!” Tiếng thét cắt ngang lời Anh Giáo “Không, không lùi!”

Một người đàn bà luống tuổi xông lên phía trước. Bà cụ đưa tay xổ chiếc khăn nâu cuốn tóc, hò “Bác ơi, Đảng ơi, cứu lấy dân!”. Dưới ánh nắng vàng vọt cuối ngày, những lọn tóc bạc trắng phất phơ ngược chiều gió xõa bay. Các mẹ các chị hò theo. Bà cụ đứng thẳng người, ngực ưỡn, tay giơ cao “Chúng bay đánh mẹ chúng bay à? Chúng bay còn là người không?”. Một thanh niên ước chừng 17, 18 tiến tới, thẳng tay thọc chiếc gậy tròn to bằng cổ tay vào bụng bà. Hự lên một tiếng, bà khạc ra máu, ngã ngồi. Anh Giáo nhẩy lại, miệng la “Cứu, cứu!” Khi ấy, các mẹ các chị không ai bảo ai nhẩy ra chặn thanh niên, đồng thanh xỉa xói “Cha con đẻ mẹ mày, mày đánh bà mày thế à!” cứ mỗi người một câu trong một bài đồng ca trật nhịp. Loa phóng thanh ồm ồm “Đồng bào để chúng tôi thi hành công vụ”. Tiếng đồng thanh đáp trả “Công vụ gì, đi ăn cướp đất thì có, tiên sư bố chúng mày!”.

Đầu gấu khai triển đội hình, bắt đầu xông lên. Các mẹ các chị tuột quần tuột áo, tồng ngồng hàng chục người đứng lên xe trâu chăng khẩu hiệu, hô “Cứu lấy dân!”, vừa hô vừa vỗ bì bạch vào những… phần đặc biệt dưới hạ thể. Đây là thế võ quần chúng chống đàn áp được phổ biến ít nhiều rộng rãi trong tập thể dân oan. Cô Đồng cũng định làm như mọi người, nhưng sau khi tụt xuống thì không biết nghĩ gì mà lại thôi, kéo quần lên, chỉ gào “Thánh thần sẽ vặn cổ chúng mày, đồ liếm máu l… khốn nạn!”. Anh Giáo đứng cạnh, bị một gậy vào cổ, ngã lăn quay. Đứng lên, anh xiêu vẹo, nhưng bà cụ nẫy bị đánh níu lại, bảo: “Hô cho dân mình nằm xuống, đừng để chúng nó đánh!”.

Anh Giáo kêu:

– Bà con mình, nằm xuống, đừng chống lại bằng gậy gộc… Cứ nằm xuống, tay bám lấy tay người bên cạnh…

Bà con nằm, không ai bảo ai, cùng cất tiếng hát “Bác đang cùng chúng cháu hành quân”. Tiếng hát vang vang đến tận tuyến ba, các cháu thiếu nhi cháu ngoan bác Hồ quen miệng liền hát theo. Không khí cách mạng tưởng chết yểu bỗng phục sinh, và những bóng ma mở miệng như ngày xửa ngày xưa, rống lên “trùng trùng đoàn ta bước theo con đường của bác”, lời ca vẫn hùng nhưng nay có chút gì không còn chi mấy phù hợp.

Đó là lúc đồng chí Đại tá gọi điện thoại về Hà Nội, và khi xin phép nổ súng không được mà còn bị chửi là ngu thì có người ở “trên” gợi ý dùng xe vòi rồng xịt nước, đồng chí vội gọi cho Huyện, rồi Tỉnh, không quên nhấn mạnh trong chương “Quân Sử trận Ngọc Trần” đều có tên tuổi mọi đồng chí có vai trò lịch sử trong chiến công chống bạo loạn này. Phải nói, “trên” rất quyền biến, linh động, và cũng như những ngày chống ngoại xâm, nay đã đánh trúng yếu huyệt nhân dân, đói từ sáng và co quắp trong cái lạnh một chiều thu đến vội. “Trên” cũng không có ý kiến khi kiêu binh và đám dân phòng vào đập nát đền Ngọc Trần, móc từng hòn gạch lên hôi của, và nhận nước cô Đồng bắt khai nơi giấu tiền đến độ cô chết đi sống lại đôi ba lần.

Ngày hôm sau, Anh Giáo bị biệt giam trong một căn phòng 4 mét vuông, không cửa sổ, tối om om, và khai nồng nặc. Bó gối, Anh Giáo lo không biết Kiều, người bạn cùng anh lên đền Ngọc Trần có bị bắt hay không. Tội nghiệp, thân gái sa vào nơi hang hùm miệng sói, chẳng hiểu sẽ ra sao. Nhưng quan trọng hơn cả là Kiều có bảo quản được cái máy vi tính mà anh giữ như vật hộ thân không? Nếu để lọt vào tay đám kiêu binh, chắc chắn chẳng chỉ thân mình mà bao nhiêu người quen biết đồng hành với anh trong công việc bênh vực dân oan sẽ liên lụy.

Không biết cô Đồng khai báo thế nào mà Anh Giáo được xếp vào thành phần chủ mưu của một diễn biến có tính bạo loạn, mục đích chống phá chính sách Kinh tế mở và đa dạng nhằm thúc đẩy vốn đầu tư ngoại quốc FDI vào công cuộc xây dựng đất nước ta đang khom lưng hội nhập vào thế giới phằng phằng phẳng hiện đại. Những bức đơn anh viết hộ chủ đền Ngọc Trần cùng toàn thể tín nữ đạo Mẫu gửi đến các vị trong Bộ Chính Trị, Ban Bí thư Trung Ương, Quốc Hội, Ủy ban Tôn Giáo, Mặt Trận Tổ Quốc và nhân dịp tuồn đến nào BBC, RFA, RFI… chắc chắn là thủ đoạn diễn biến hòa bình phá hoại Nhà nước ta một cách tinh vi và thâm độc. Quản giáo trại giam thông báo, mắt nháy nháy, giọng đêu đểu, “Anh số đỏ, đích thân đồng chí Đại tá sẽ trực tiếp xuống đây điều tra đấy!”.

Không phải ai cũng có cái hân hạnh được một sĩ quan an ninh cao cấp lưu tâm. Trường hợp Anh Giáo đặc biệt. Nơi cư trú của anh ghi rõ ràng là quận Tây hồ, nơi dành cho một lớp người đặc tuyển. Đại tá biết thừa điều này, và ông cho điều tra thân thế anh. Sống quen với cái châm ngôn nhất thân nhì thế, nay gánh thêm cái thứ ba là tiền, Đại tá cho Anh Giáo nếm mùi biệt giam thêm một tuần, hưởng ba trận đòn “thân ái”, mục đích là dọa cho sợ. Khi gọi anh lên, Đại tá đã sửa soạn kịch bản và chủ động đóng vai chính, đứng dậy đến bên vỗ vai, miệng giả lả:

– Tôi biết cậu là con nhà cách mạng, ông cụ từng là trợ lý của lãnh đạo cấp cao, tại sao cậu lại làm những chuyện có tính cách chống đối phản động? Đại tá lấy giọng buồn buồn hỏi.

Anh Giáo cười nhạt, hàng ria mấp máy, nhưng khinh khỉnh không đáp.

– Thời gian tới, bà cụ thân sinh sẽ lên đây thăm anh. Ông Đại tá nghiêm giọng – Tôi đặc biệt chiếu cố lắm mới được vậy đấy.

Nhìn lên trần nhà, Anh Giáo nói như nói vào trống không:

– Tôi không muốn gặp ai hết trước khi các ông đưa tôi ra toà định tội rồi xét xử…Thật ra, tội tôi thì cái đầu gối tôi là ông công tố viên tòa án đã phán rồi, biết thêm chẳng để làm gì!

Đại tá đứng dậy giả như không nghe, phẩy tay gọi lính rồi quay sang Anh Giáo, mềm mỏng:

– Anh nghĩ khoẻ nhé… Bình tĩnh, ta sẽ trao đổi sau!

*

Anh Giáo họ Đặng Vũ, tên Thiện, con trai duy nhất một nhà tư tưởng gia Mác-Lênin, kẻ từng đào tạo 2,3 lớp lãnh đạo chóp bu qua hàng chục khóa học của trường Nguyễn Ái Quốc. Vào Đại học, Thiện học Kinh tế. Nhưng vớ được cuốn sách nhập môn của Samuelson – kẻ đoạt giải Nobel Kinh tế – được bộ Ngoại Giao ta mang dịch, ngấu nghiến đọc rồi mang bệnh xét lại, tệ hơn, bệnh biến chất tư bản mà quên mất là nền dân chủ của xã hội ta hơn ngàn lần vạn lần cái đồ giả hiệu made in USA. Giữa Thiện và cha, mối bất đồng ý kiến, thậm chí bất đồng lý tưởng, dẫn đến bất hòa phụ tử. Mácxít nhưng lại giữ truyền thống nhà Nho quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử, cha Thiện kết luận Thiện bất hiếu với cha, bất trung với Đảng, và bất nghĩa với những thế hệ cha anh đã hiến mình hy sinh cho Tổ Quốc. Nghe kết tội đến đó, Thiện cười khẩy, đánh một câu tổ quốc cũng như tổ cò, cứ ra mà xem dân sống ra sao thì biết chẳng có cái loại chim nào – trừ chim cu – mà ở nhà vila, đi xe Lexus, và sau họp hành gật gù và… liên hoan với những chân dài, bụng thon, đầu thì bé tí teo thì hẳn vui còn hơn ngày Giải phóng 30 tháng tư.

Dĩ nhiên Thiện không thể tiếp tục học Kinh tế kiểu kế hoạch tập trung mà không bất đồng đến gây đổ vỡ với lớp thày bà chuyên tụng những bài về sở hữu phương tiện sinh ra quan hệ sản xuất, tính biện chứng duy vật lịch sử và giai cấp đấu tranh là động cơ cấu thành và phát triển xã hội, vân vân. Học ở trường chán, về nhà thì nghe cha mình rao giảng, cũng một bài, nhưng với giọng điệu còn chắc hơn trăm lần đinh đóng cột, Thiện sẵng “Cứ làm được mấy cái đinh mà không phải nhập từ Tàu vào rồi hẵng nói!”. Cha hiện quát, như từng đã quát, “Đi, mày đi đâu thì đi đi!”. Bỏ học lang thang một năm, và dưới áp lực của mẹ, Thiện xin vào Đại học Sư phạm, khoa Văn và Ngôn ngữ. Ra trường, Thiện thành anh giáo cấp 2 một thời gian ngắn, nhưng cái họa sách vở tiếp tục như một nghiệp chướng. Tình cờ đọc được cuốn “Độ không của lối viết” do nhà văn Nguyên Ngọc dịch từ tác phẩm của một người Pháp có cái tên lạ hoắc là Roland Barthe, Thiện say mê Tiểu thuyết Mới, thấy những nhà văn “ta” hơi bị cũ, và ôm mộng viết văn. Trò chơi hiểm nghèo này không dễ hợp với mọi tạng người. Viết, rồi xé, rồi viết, rồi lại xé, Thiện quanh quẩn với những con chữ chưa định hình, rơi vào trạng thái trầm cảm khá nặng nề. Thời gian đó, Kiều xuất hiện như một cứu rỗi. Thiện gọi Kiều là Thánh nữ của mình, người quan tâm đến phần tâm linh hững hụt bấy lâu mà Thiện không ý thức. Chính với Kiều mà Thiện dấn mình vào những sự vụ như viết đơn kêu oan, kiện cáo, và những bài trên Blog về những vấn đề dân sinh nhức nhối. Blog có tên là Anh Giáo, nay thành tên tục của Thiện.

Dăm ngày sau khi Thiện bị bắt, Kiều đến bấm chuông một vila nằm cạnh hồ Tây. Vila sơn vôi trắng, sân trước khá rộng để đậu xe hơi, đầu tường cắm đầy những miểng chai nhọn hoắt, và ngay góc sân cây hoa đại phủ bóng lên mặt một cái hồ cá và ông Lã Vọng bé tí đang thả cần câu làm bằng plastic. Có tiếng dép loẹt quẹt. Hai con béc giê bất ngờ xông ra, nhe răng trắng nhởn, lưỡi đỏ lòm, sủa oăng oẳng. Tiếng ai đó mắng chó. Một khuôn mặt thò ra cái cửa sổ bé bằng năm bàn tay chụm lại.

– Chị hỏi gì? Tìm việc thì không có đâu. Tôi là ô-sin rồi!

– Dạ không, tôi là người quen của anh Thiện, có việc gấp muốn nhắn người nhà!

– Thì nhắn đi… Quay nhìn hai con chó vẫn gầm gừ, chị ô-sin tiếp – đến là chó, người sang đi xe ô tô thì chẳng dám sủa, nếu không thì cứ nhặng xị lên!

Kiều ngần ngừ, bối rối:

– Anh Thiện dặn em là phải gặp bà thân sinh mới được!

Không đáp, chị ô-sin đóng sầm cái cửa sổ, quay ngoắt đi vào. Lát sau, chị ta lại ra đuổi chó, thò chìa khóa vặn hai ổ khóa buộc một sợi xích sắt to bằng ba ngón tay cái, kéo cánh cổng vừa vặn mở cho một người vào. Kiều lách người, nhớn nhác nhìn, vẫn e dè hai con chó thôi không sủa nhưng chạy loanh quoanh chân. Chị ô-sin đóng cổng, lại khóa, giọng sõng sượt “Theo tôi!”.

Căn phòng khách villa trần thiết khá đơn giản. Chình ình ngay bức tường án ngữ lối vào là ảnh Bác, râu tóc đầy đủ, mắt long lanh sáng. Tường bên trái, một cái ban thờ trên cao treo ảnh phục chế của một vị đầu đội khăn xếp, dưới một bát hương đựng cả chục chân hương màu đỏ tía, một đĩa trái cây, và một cái chuông đồng bé bằng nắm tay. Tường bên phải, một bức tranh khổ 80×120, ở dưới gắn một miếng đồng bóng nhoáng, ghi “Déjeuner sur l’herbe – Manet 1863”. Bức tranh vẽ cảnh một người đàn bà lõa lồ ngồi pích-ních với dăm người đàn ông mũ áo đàng hoàng. Đánh giá là tạo một cuộc cách mạng nghệ thuật, bức tranh từng gây xì-căng-đan kích dục bên Âu Châu rất “đạo đức” ở thế kỷ 19 được một họa sĩ tài danh Hà thành sao chép rất đạt, nay không gây phản cảm nào trong bối cảnh Hà Nội thế kỷ 21 có định hướng xã hội chủ nghĩa, có lẽ nhờ ảnh một cụ nhà nho và ảnh Bác đã tạo được thế cân bằng trong công cuộc hội nhập với thế giới văn minh. Bác vẫn râu vẫn tóc, vẫn cái cười ung dung, mặc dầu tranh người đàn bà trần truồng nằm chềnh ềnh đấy nhưng bác mình thánh thiện nào có động lòng bao giờ đâu, nhất là từ khi nguyện vọng đoàn tụ với người vợ cũ tên Tăng Tuyết Minh bên Trung Quốc không được Đảng “bạn” đồng lòng.

Kiều không dám ngồi xuống chiếc xô pha đặt sau một cái bàn lộng kiếng, đứng lớ ngớ ôm cái bị làm bằng vải thô. Dăm phút sau, cửa hông phòng khách mở. Một bà ước chừng U60 lề mề bước ra, mặt dồi phấn, môi tô son đỏ chót, hất hàm:

– Cháu có chuyện gì ?

Kiều kể chuyện Thiện bị bắt trong trận càn đền Ngọc Trần, được báo chí chính thức giật tít “Thành công lớn trong chiến dịch bài trừ mê tín”, ỉm chuyện chiếm đất xây sân gôn và làm khách sạn theo kế hoạch du lịch sinh thái của tỉnh Y với sự đồng thuận của đồng chí X. Bà nghe, dửng dưng:

– Thế Thiện nó nhắn gì cho bác? Con dại thì lại cái mang, phải không?

Hai tay rút cái laptop khỏi bị, Kiều trịnh trọng:

– Anh ấy xin bác giữ hộ…

Bà mẹ Thiện hừ một tiếng, đứng lên đỡ cái laptop. Lạnh lùng, bà hỏi:

– Cháu cần gì, cứ nói. Công cháu lặn lội đến đây! Nhớ để lại số điện thoại tay, sau có tin tức gì bác sẽ liên lạc…

Kiều lắc đầu, biết là lúc phải đi, lí nhí cám ơn.

Ra đến sân, Kiều lại đưa mắt xem hai con béc giê đâu. Ngoảnh lại, Kiều thấy bà mẹ Thiện vạch rèm nhìn theo, nàng sợ như bị hớp hồn, nỗi sợ chẳng kém gì sợ bị chó cắn như lúc vào nhà Thiện sáng nay.

*

Nếu Kiều biết chuyện ông Đại tá đã điện thoại hẹn đến thăm gia đình Thiện thì chắc nàng bớt ngạc nhiên về thái độ lạnh lùng dửng dưng của bà mẹ. Bà nghi Kiều là người tiền đạo đi dò đường cho ông Đại tá, quan sát “địch tình” và báo cáo để ông ta xác định động thái của mình. Với nghiệp vụ chuyên môn, ông đã tóm được lý lịch nhà Đặng Vũ, biết quá trình hoạt động và sự thăng tiến của ông thân sinh ra Thiện, và suy nghĩ đắn đo về vụ đánh quả làm sao cho “hai bên cùng có lợi”. Hôm ông điện thoại, người bắt máy là ông thân sinh ra Thiện. Sau khi lan man kể chuyện “quân sử” chống nổi dậy ở đền Ngọc Trần, ông đề cập đến việc bắt Thiện ra sao, Thiện phản ứng hung bạo đến độ cắn hai chiến sĩ công an, một suýt đứt ngón tay, còn một thì bị một miếng vào bắp chân hiện vẩn chống nạng mới đi được. Rõ ràng ông luận tội Thiện là chống người thi hành công vụ, thậm chí cả tội có hành động “lật đổ”, chuyện dĩ nhiên không phải nhỏ. Nghe Đại tá kể, ông thân sinh ra Thiện cứ ậm ừ, có nói thì độc một câu, “tôi nghe đây”, miệng chép chép như khi xỉa răng.

– Thưa anh, cậu Thiện chúng tôi chỉ tạm giam, hồ sơ để trắng chờ cứu xét. Chúng tôi tất nhiên phải tham khảo anh, tìm phương hướng giải quyết tối ưu… Dù sao, trong hàng ngũ ta, làm gì cũng phải có tình có lý!

Ông thân sinh Thiện lúc ấy mới nói:

– Vâng, cám ơn anh. Tôi vô phúc sinh ra một thằng khùng. Nói thật, tôi đã từ nó rồi, nhà này chỉ có mẹ nó là có giữ liên lạc với nó. Phần tôi, tôi coi tôi vô can, anh có cần chuyện trò với nhà tôi thì cứ hẹn. Lúc này tôi rất bận, tí nữa phải đi họp ở Tuyên Giáo để sửa soạn đề cương về chính sách Tuyên Truyền Thông Tin thời Internet, sau phải về các tỉnh phổ biến, vậy anh thông cảm…

Nghe đến đó, Đại tá hiểu ngay ông ra oai và đá banh sang cho vợ. Ông vô can thì mới bảo đảm là không có “thiệt hại song le” mà những đối thủ của ông trong guồng quyền lực có thể gây ra với mục đích hất cẳng ông. Thế là Đại tá vâng vâng dạ dạ rồi lấy hẹn đến thăm “gia đình ta”.

Hôm ấy là chủ nhật, một hôm trời đột nhiên trở lạnh, hai ngày sau khi Kiều đến mang laptop gửi bà thân sinh ra Thiện. Đại tá diện thường phục, mặc côm-plê xám, sơ-mi hồng, cà vạt đỏ, và gọi taxi chứ không dùng xe công vụ. Bấm chuông, hai con Béc giê xồ ra, nhưng đích thân bà thân sinh ra Thiện quát chó, rồi chính bà ra mở cổng, mời:

– Thưa anh, hân hạnh… Mời anh vào! Anh khéo mặc, cà vạt đỏ trên nền hồng thật là nổi, trẻ trung lắm!

Đại tá lùi xa ngắm bà thân sinh ra Thiện, giọng thân mật:

– Chào chị, nhìn chị ngờ ngợ như bà chị ruột em… Thôi, mình cứ coi nhau như trong gia đình, cho em được làm em nhé!

Bà chị cười ngay:

– Thế thì còn gì bằng…

Ông em liền hềnh hệch:

– Thế gì còn gì bằng, nhất bà chị rồi…

Câu chuyện “gia đình” là hỏi đáp về tình cảnh tư riêng, nhưng ai nói mặc ai, chẳng ai tin ai. Thực chất, hai bên sửa soạn trận địa với những tuyến phòng ngự, chỗ tiến chỗ lùi, những cái bẫy thiết lập qua những câu nói ân tình lắm khi cảm động đến ứa nước mắt. Chẳng hạn: “Chị chỉ có mình nó, nhưng cháu không mấy bình thường, hơi bị tâm thần, có những hành vi gần như mất kiểm soát, Được cái bụng dạ nó tốt, thương người, nhưng dại lắm chú ạ!”. Chẳng hạn: “Dẫu em công tác lâu năm, một vợ ba con nhưng lương lậu ba cọc ba đồng, lắm lúc cuối tháng là phải chạy vạy từng bữa…”. Chẳng hạn: “Bây giờ ông nhà tôi không coi nó như con, bỏ mặc một mình chị… Cũng như chú, công nhân viên Nhà nước thì lương chỉ 8 triệu, bổng lộc trong công tác tư tưởng đâu có như chuyện xây dựng cầu đường, hay đóng tầu, hay dầu hỏa khí đốt, bô xít Tây Nguyên. Lộc lâu lâu một lần, thường dịp Tết, là tiền từ các báo, các nhà xuất bản văn học, nhưng chỉ đủ để ăn cháo, loãng như cháo lá đa…”. Đại tá thở hắt ra: “Chặc chặc, tình hình nhà mình cũng như nhà em thôi, nhưng em phải đèo bồng mấy chục nhân viên dưới quyền, tìm cái cho chúng nó đủ ăn, chị ạ!”.

Trên cơ sở của tuyến phòng ngự, cuộc mặc cả chị – em cụ thể hơn nhiều. Có một khoản hợp đồng nằm ngoài dự đoán của chị khi cậu em thỏ thẻ:

– Kèm vào những thứ vật chất như chị em ta bàn, em có một nhu cầu khác…

– Nhu cầu gì?

– Nhu cầu trí tuệ. Em biết là trường nơi anh đào tạo cán bộ chính trị có những lớp tập huấn ngắn ngày, có thể học tại chức. Gì chứ hiểu biết đối với em quan trọng như…con ngươi tròng mắt. Em chỉ xin anh lưu tâm khi em làm đơn xin, anh chấp nhận là em có dịp sáng mắt sáng lòng!

– Được thôi, để chị nói với anh. Ông ấy thường thì khó tính lắm, đòi điều kiện này nọ, nhất là về trình độ thì cứ nằng nặc phải có cấp 3 trở lên!

– Chịu, em chỉ mới vừa xong cấp 2, làm thế nào đây?

Bà chị mặt xịu xuống, giọng nghiêm và buồn như khi tụng kinh Phật:

– Để chị xem anh có thể châm chước thế nào…

Bụng bảo dạ, chắc cậu em đang có đường thăng quan tiến chức cần đến thị chứng trình độ, bà chị liền mạnh dạn nói, giọng nửa đùa nửa thật:

– Này, thế thì cái khoản kia em giảm ít nhiều cho chị, có qua có lại mà… Chị cũng vào bước đường cùng vì cái thằng nghịch tử đó rồi!

Nói tới đoạn này, bà chị đưa khăn tay lên chấm nước mắt. Ông em bùi ngùi đứng lên, hẹn sẽ trả lời sau. Bà chị tiễn ông em ra cổng, khẩn khoản:

– Em cho chị lên trại nhận cháu ra chứ?

– Hà? Có nên không chị?

Bà chị lúc đó thân mật nắm tay ông em, nhẹ giọng:

– Lên thấy cháu tận mắt thì chỉ là cốt cho “người thật việc thật”, có chi mà không nên!

*

Chiếc xe Land Rover – bà mẹ Thiện gọi là “xe lăn 4 bánh” – trượt trên mặt đường toàn bùn. Anh tài nghiến răng xoay tay lái, xe nhích dần rồi vượt được quãng dốc, từ từ tiến vào Trại mang độc một con số, số 17. Cán bộ trại có vẻ ngạc nhiên. Quan trên nào thình lình đến? Chắc để kiểm tra kiểm sát gì đó? Lãnh đạo làm việc như ma trơi, khi ẩn khi hiện, biết đường nào mà lo được chuyện tiếp rước lề lối. Anh Trung úy chỉ huy giơ tay ngang trán chào, lẩm bẩm “Đ.m… đéo báo mà cứ xông vào như chỗ không người!”.

Sáng sớm Đại tá tư lệnh an ninh huyện đã đến “làm việc” với ban lãnh đạo trại, dặn sửa soạn hồ sơ Đặng Vũ Thiện bị tình nghi chống lại nhân viên thi hành công vụ. Khi xe ngừng bánh, Đại tá bước ra nói nhỏ vào tai viên Trung úy rồi đi về phía xe, ân cần mỉm cười. Ngoài mẹ Thiện, còn Kiều mà bà liên lạc qua điện thoại báo tin. Kiều khẩn khoản xin được cùng lên trại tạm giam Anh Giáo.

Được gọi lên phòng khách của trại, Anh Giáo ngạc nhiên thấy mẹ và Kiều đã ngồi cạnh vị Đại tá. Anh Giáo lẳng lặng bước tới. Bà mẹ đứng lên, tay nắm lấy tay con, lắc lắc:

– Giời ơi là giời, làm gì mà tội tình thế hở con!

Anh Giáo nhìn Kiều, ánh mắt dò hỏi, khẽ gỡ tay ra. Đại tá nhìn thẳng vào mắt Anh Giáo, nghiêm nghị:

– Cơ quan an ninh huyện đã điều tra, không thấy có sai phạm gì đáng kể, chỉ cảnh cáo lưu ý can phạm nên lánh xa những nơi có biểu tình, hoặc khiếu kiện đông người, dễ bị bọn xấu lợi dụng phá phách…

Ông Đại tá tiếp tục nói, nhưng Anh Giáo nhìn đâu đâu, miệng nhếch lên cười tủm. Cụt hứng, Đại tá khà một tiếng, quay sang bà mẹ:

– Xin chị ký nhận giấy bảo lãnh người bị tạm giam đây…

Ký kết xong, mọi người lục tục đi ra. Đại tá khẽ kéo tay cho bà mẹ lui ra sau, khẽ hỏi: “Chị nhắc anh chuyện em xin đi tập huấn chưa?”. Bà mẹ gật. Lên xe, Đại tá giúi vào tay bà hồ sơ kẹp mấy cái giấy, bảo nhỏ: “Chị về cứ đốt đi, vậy là trắng chuyện!”. Bà mẹ nắm tay Đại tá thì thào cám ơn.

Phạm nhân vừa thoát tội ngồi cạnh mẹ băng sau, chồm lên trước hỏi Kiều: “Cái laptop đâu?” Kiều đáp em đã đưa gửi bà. Anh Giáo thở ra. Bà mẹ mặt sa xầm, nhìn xa xăm, giọng dỗi: “Toi mất trăm triệu đấy, con ơi là con !Đúng là oan gia!”.

Anh Giáo trước sau vẫn lầm lì, nhắm mắt như ngủ.

*

Ngoái ra sau thấy Anh Giáo, Kiều bắt chước, cũng cố ngủ sau gần nửa ngày đi hơn trăm cây số trên con đường đầy ổ trâu ổ gà. Mơ màng, nàng nhìn thấy chính mình và chẳng hiểu động cơ nào khiến đời nàng bỗng dưng thành thứ phim truyện nhiều kỳ trên truyền hình VTV. Kiều thành tài tử, người dong dỏng, tóc húi cao, không xấu không đẹp nhưng khá có duyên, khi cười một bên má lúm đồng tiền. Nói, giọng nàng nửa bắc nửa nam, nếu không hỏi mà đoán già đón non thì ngỡ là dân xưa tập kết. Nhưng không, nàng sinh ra sau Giải phóng ba năm, gần bến Ninh Kiều, thị xã Cần Thơ. Cha nàng mới là dân tập kết, phục viên sau 75, nhưng khi chiến tranh biên giới với Campuchia thì bị tái động viên. Mẹ nàng, Bắc chay, người Hưng Yên, thích xưng mình là con gái Hà Nội gốc. Nàng lên ba thì cha tử trận nghe đâu ở Kampong Thom, chết được thăng đại úy. Lương tử mẹ nàng lãnh ăn đâu được năm ngày là cạn. Nhưng thật may, bà nội không theo ông ra bắc, có hai mẫu đất hương hỏa. Khi qua đời, vì thương thằng con độc nhất anh dũng hy sinh cho đất nước, bà để mẹ con nàng thừa kế hai mẫu đất. Chẳng biết trồng trọt nên mẹ cho nông dân thuê, đến cuối vụ lấy một phần thu hoạch. Nhưng thế là địa tô, là “bóc lột”, giai cấp địa chủ ngo ngoe ngóc đầu, như rắn. Đội tiên phong công nông kiếm chuyện, rao giảng chính sách xây dựng nông trường, đất đai là sở hữu toàn dân, và cứ thế đẩy lùi mẹ con nàng từ mặt lộ vào tuốt luốt bên trong, cho phép dựng một cái nhà chòi được lợp mái. Lên sáu, nàng đi học, mỗi lần lội bộ 3 cây số mới tới được trường, đường thì đường ruộng lầy lội, mất gần 2 giờ. Nhưng nàng nằng nặc đi mỗi ngày, chẳng phải vì yêu chữ nghĩa mà là thích cùng bạn đồng lớp vỗ tay hát bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui Đại Thắng” hay bài “Đêm qua em mơ gặp Bác Hồ”. Tuy nhiên, đến khi lên tám, nàng cũng biết đọc biết viết.

Thời đó ngăn sông cấm chợ, đi từ chỗ này sang chỗ khác mà đem hơn 2,3 kilô gạo là bị bắt. Dân Sài Gòn phải ăn độn bobo, nhưng dân ăn được gì cứ ăn, nghị quyết thì thế mà làm, cấm hỏi. Với chính sách hộ khẩu, muốn đi khỏi địa phương là chuyện khó hơn lên trời. Mẹ con nàng chạy chọt xin lên Sài Gòn vì có họ hàng sẵn lòng cưu mang, nhưng bị mắng là phản cách mạng. Và với chính sách mỗi người dân là một người công an, mẹ con nàng đi đâu cũng bị dòm ngó. Đến năm 1987, chao ôi, đổi mới, đổi mới hay là chết. Tất nhiên, vì cứ không thay cũ thì dân đã ngắc ngoải rồi, chết sẽ là tất yếu thôi!

Thời cơ đến, hai mẹ con lếch thếch đi Sài Gòn, dĩ nhiên vẫn phải ở chui nhưng dù sao cũng còn đỡ hơn sống trong cái nhà chòi gió thốc vô tội vạ đủ hai mùa mưa nắng. Hai năm mẹ tảo tần, chạy chợ, buôn thuốc tây và rồi gặp người làng, quyết định tái giá. Dượng là cán bộ kinh tài, tháo vát, lời ăn tiếng nói ngọt ngào. Vả lại, mẹ chưa đến nỗi già, góa bụa cũng 6,7 năm, và nói như dượng, thủ tiết như thế là vượt thời đại Hồ Chí Minh. Ngày đám cưới, người làng có hàng mấy chục người, ai nấy dzô dzô chúc tụng cho đúng thủ tục miền Nam thành đồng. Năm ấy Kiều mười lăm, tự nhủ sẽ coi dượng như cha đẻ, nhắm học xong cấp ba sẽ xin đi làm nhằm giúp đỡ gia đình. Hai năm sau, nhân một dịp mẹ đi vắng, dượng làm như say, tưởng Kiều là mẹ, cứ thế đè xuống làm cái việc Kiều từ đó kinh tởm. Những cơn ác mộng ùn ùn kéo về làm giông làm gió mỗi đêm khiến Kiều rạc người, mất hết sinh khí. Cực chẳng đã, khi kể cho mẹ nghe về cái sự cố “khốn nạn” ấy, mẹ Kiều đánh và cấm nói lại, kêu là Kiều dối trá nhằm chia rẽ dượng với mẹ. Giơ chiếc gậy tròn to bằng cánh tay quật xuống, mẹ rít “Ai bảo mà mày rắp tâm phá hoại hạnh phúc gia đình tao?”. Dượng sau này chẳng cần giả say, hưởng theo nhu cầu, đúng khẩu hiệu, theo sát chính sách. Có lẽ đoán được, ngày cũng như đêm, có dịp là mẹ khiêu khích cho chồng giải thoát sinh dục, cách làm ông ta kiệt sức hòng để Kiều yên. Và đến lượt ông ta mặt mũi nhợt nhạt, vừa nói lắp bắp vừa thở hào hển , thấy mặt mẹ là giơ tay như ngụy đầu hàng quân ta trên màn hình VTV.

Kiều ngậm tăm cho đến khi bị những cơn tức thở đến ngất đi. Vào nhà thương, Trường cử cô giáo phụ trách lớp đến thăm. Cô giáo biết ra cớ sự, báo cáo với trường xin can thiệp. Ban giám đốc bảo, chuyện gia đình người ta, đề nghị thông báo lên Phường nơi gia đình Kiều cư trú. Phường nắm thông tin, liền truyền lệnh xuống thôn, rồi khóm văn hóa, thúc đẩy điều tra một sự vụ hơi bị thiếu văn hoá. Khi ra khỏi nhà thương, Kiều quay về nhà, cắn răng tát vào mặt dượng, quát:

– Mày không bằng con chó!

Rồi Kiều bỏ ra đi. Đứa con gái 17 tuổi làm gì để sống? Bưng bê: lương và tiền boa, triệu bẩy đến hơn hai triệu, ăn và trả tiền thuê chiếu ngủ chung phòng với 2 đứa con gái khác khéo là vừa đủ. Muốn có boa hậu, phải để cho khách “tự do”. Điều này “tất yếu” nhưng chẳng phải kiểu tự do là tất yếu theo kinh sách Mác-Lê mà là cung cách “bốc hốt” tiền trao cháo múc của thị trường có định hướng khoái trá chủ nghĩa.

Từ bưng bê đến lên gái gọi chỉ là một bước quá độ. Kiều chửi, mất cha nó trinh tiết, còn đéo gì nữa mà phải giữ! Tình trạng buông thả sớm muộn cũng dẫn đến xì-ke ma túy nhằm mục đích quên, quên hết, quên luôn cả cái ý định tự kết liễu đời mình mà ban đầu ám ảnh Kiều. Thật lạ, khi tỉnh giấc lúc tàn canh, Kiều ôm quyển Đoạn trường tân thanh đọc đi đọc lại đến thuộc nằm lòng. Hận đời, nàng hận vì mình không còn cha để chuộc, bán thân chẳng biết là để cho ai và vì gì. Cuối cùng, thôi, vị nghệ thuật vậy. Và nàng tập những ngón tâm lý chiến trong sắc dục, kiểu rên rỉ, cắn vai, cào cấu, kêu nữa đi, hoặc khóc nức lên và lấy tay che mặt vì không có lấy một giọt nước mắt nào… Nàng trả thù lũ đàn ông qua cái nghệ thuật đó, khiến chúng bỏ con mất vợ, và cuối trận thì móc túi chi trả cho cái nghệ thuật chẳng phải ai cũng đạt được. Khi có kẻ tình si đến ngu muội, nàng lạnh lùng bảo, anh à, nơi nào có nghệ thuật làm tình thì nơi đó vắng tình yêu đích thực. Riêng nàng, xác thịt là chuyện nàng ghê tởm, sau chung đụng nàng tắm rửa cho thật sạch và kỳ cọ nhiều khi đến bật máu.

N.D.

(Xem tiếp kỳ sau)

Comments are closed.