Đêm giữa ban ngày (kỳ 7)

Vũ Thư Hiên

11

– Anh ngủ tốt chớ, anh Hiên?

Không ngẩng lên, Huỳnh Ngự vừa lúi húi soạn chồng hồ sơ trên bàn vừa hỏi tôi thay lời chào. Tôi biết thừa: y chẳng bận gì hết, y làm ra vẻ bận bịu để bắt tôi phải chờ cho những gì sẽ xảy ra sau đó thêm phần quan trọng.

– Cảm ơn, tôi ngủ được. – tôi nhạt nhẽo đáp.

Ngồi vào vị trí thường ngày, tôi lơ đãng nhìn quanh.

Công việc hỏi cung được Huỳnh Ngự tiến hành theo lối du mục, không cố định một nơi, nay phòng này mai phòng khác, không hiểu tại Hỏa Lò thiếu phòng làm việc hay do nguyên nhân nào khác. Căn phòng hôm nay hẹp nên có vẻ ấm hơn. Cách bài trí bên trong thì phòng nào cũng như phòng nào – bàn chấp pháp đặt sát tường hậu, sau lưng chấp pháp là chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh, với vài băng khẩu hiệu bên dưới. Ghế cho “phạm”[1] được đặt cách chỗ ngồi của chấp pháp hơn một tầm với, chắc hẳn để đề phòng sự tấn công bất ngờ. Bên phải hoặc bên trái, là cái bàn nhỏ dành cho phạm viết lời khai, phần lớn là bàn mộc, cái nào cái nấy lem nhem mực tím. Ghế cho phạm là ghế đẩu, thấp hơn ghế chấp pháp. Ở vị trí này bao giờ người bị hỏi cung cũng phải ngước mắt lên mới nhìn được kẻ hỏi mình. Một cách tính toán rất trẻ con để nâng cao uy thế cho chấp pháp. Cũng có lần tôi được đưa tới một căn phòng khác loại, bài trí theo kiểu phòng khách, được ngồi ghế có tựa, ở khoảng cách gần chấp pháp hơn ở phòng này. Đó là khi tôi chấp nhận một sự lùi bước. Mới biết đám công an ngớ ngẩn bịa ra đến là lắm trò vè.

– Hừm, bữa hổm ta làm tới mô rồi hè? Anh nói anh ngủ được, hả? Vậy mà trong y bạ của anh vừa lấy về tui thấy bác sĩ toàn kê thuốc ngủ với thuốc an thần – Huỳnh Ngự nói, giọng thân mật cố ý – Dùng nhiều mấy thứ nớ hại lắm đó.

Tôi hiểu ẩn ý câu nói: anh bạn, tụi tui nghiên cứu anh kỹ lắm, anh khoẻ hay anh yếu, anh bị bệnh tật gì chúng tôi cũng biết; anh coi, tài liệu cả đống đây nè, tụi tui biết về anh không ít chút nào đâu[2].

Huỳnh Ngự sắp xếp xong đống giấy má, đặt gọn gàng vào góc bàn.

– Còn nếu khó ngủ thì tốt nhất là trước khi đi ngủ anh thở theo khí công. Anh biết luyện khí công chớ?

– Không, tôi chưa tập khí công bao giờ.

Tôi nói dối. Tôi biết cách tập khí công và yoga. Nhưng tôi thích nói dối Huỳnh Ngự, cho dù trong những chuyện chẳng có gì quan trọng. Tôi làm việc đó nhằm thăm dò xem Huỳnh Ngự biết những gì về tôi. Cách tốt nhất để đối thủ không hiểu được mình là tạo ra một mê cung lẫn lộn cái thật và cái giả. Thêm vào đấy, nói dối để thấy đối thủ bị mắc lừa cũng là một thú vui trong tù. Mà trong tù cần được vui lắm lắm. Nó làm cho mình thêm sức chịu đựng.

Huỳnh Ngự nghiêng ngó nhìn tôi:

– Tui sẽ bày cho anh cách chữa căn bản. Coi tui thị phạm[3] cho anh nè. Cứ làm theo cách tui bày ít lâu là bịnh mất ngủ hết liền à.

Y ngả người trên ghế, nhắm mắt lại, chầm chậm hít vào thở ra nhiều lần. Tôi cố nhịn cười. Cách nói “đi ngẩu” thay cho “đi ngủ” làm tôi nhớ tới một anh bạn tôi thường nhại vợ mình: “Eng ơi eng, téc đèng đi ngẩu![4] “. Ở vợ anh cái gì anh cũng ưa, trừ cách phát âm của cô, anh uốn mãi, nhưng cô không sửa được. Trong giọng nói, cách nói của Huỳnh Ngự sau hơn một chục năm ở đất Bắc đã không còn nguyên chất giọng quê hương, nhưng khi nào tức giận lên thì y nói một tràng dài, nói nhanh, thì tôi không hiểu gì cả.

– Phải hít cho thiệt sâu, hít vô bụng dưới nè, đẩy cái khí nớ xuống, nhịn thở lâu thiệt là lâu, sau đó mới thở ra từ từ, từ từ như rứa cho tới khi hết khí rồi vẫn còn vận nó lên hoành cách mô đặng tống cho bằng hớt ra ngoài. Cứ thở như vậy lối mươi, mười lăm phút là ngủ liền hà. – Huỳnh Ngự cười hì hì – Anh không biết chớ nhiều người ở Hỏa Lò nầy một thời gian ra là hớt sạch mọi bịnh đó.

Thảo nào, để tăng cường sức khỏe cho nhân dân Nhà nước tăng số lượng nhà tù lên vòn vọt trong một thời gian kỷ lục!

Chúng tôi thong thả uống trà, nói chuyện vãn. Huỳnh Ngự có sắc khí của người hài lòng về mình. Y có vẻ vừa vượt qua một chặng đường vất vả. Tôi đồ rằng cái đó có liên quan tới tình hình mới. Từ khi biết Đảng có quyết định mới về cách xử lý vụ án, có thể anh em trong vụ tôi cũng bớt căng thẳng với y.

Ngoài tôi ra, Huỳnh Ngự còn làm việc ít nhất cũng với mấy người nữa. Thường, y ngồi với tôi một lát, “ra đề” cho cuộc hỏi cung, nói theo cách của y, bảo tôi ngồi đó nhẩn nha viết, rồi tất bật chạy đi đâu đó. Lát sau y chạy về, sắc mặt khi buồn khi vui, bực bội nhiều hơn phấn khởi, thỉnh thoảng còn nổi khùng lên một cách vô lý, chắc hẳn vừa trải qua một cuộc cãi cọ căng thẳng.

Hỏi thăm sức khỏe tôi xong, Huỳnh Ngự huyên thuyên đủ mọi chuyện tầm phào. Thậm chí y còn quan tâm tới sắc đẹp của tôi nữa. Y hỏi tôi có muốn cạo râu không, râu tôi mọc dài, trông gớm chết, mất cả đẹp trai. Tôi cảm ơn, nói bữa khác cạo cũng được, trong xà lim bộ râu chẳng làm phiền tôi bao nhiêu, cái mà tôi cần bây giờ là bàn chải và thuốc đánh răng. Y phàn nàn nói đã nhắn vợ tôi gửi mấy thứ đó vào cho tôi rồi mà sao vẫn chưa gửi, chắc bả bận đi công tác địa phương.

Y nói dối ráo hoảnh – nhà tôi đông người, không người này đi gửi thì người khác đi, không khi nào để tôi ở đây phải thiếu.

– Trong tù mọi người đều dối trá, cả anh cai ngục lẫn anh tù. Môi trường nhào nặn con người theo mẫu của nó. – Thành nhận xét.

Chẳng cần nhiều thời gian ở tù tôi mới thấy Thành nói đúng.

– Mấy bữa rầy tui bận quá xá! – Huỳnh Ngự cười hì hì, tự mãn – Anh biết không, từ hôm biết tin Vũ Thư Hiên bị bắt, bè bạn anh nườm nượp kéo tới văn phòng xin được báo cáo, tiếp không xuể. Đành phải lên lịch tiếp từng người một.

Tôi nhìn y, lặng thinh,

– Bộ anh không tin hả?

Đành phải trương lên vẻ mặt hồn nhiên nhất.

– Có gì mà không tin – tôi làm bộ vui vẻ – Gặp cơ hội kiếm chác được trong thời buổi khó khăn này chắc có khối kẻ bâu lại. Đảng rất khuyến khích sự lập công: “thành khẩn bộc lộ khuyết điểm của mình và hăng hái tố cáo người khác là thước đo lòng trung thành với Đảng”, Đảng sẽ chiếu cố. Có điều những người này có thực là bạn tôi không? Bạn của cơ quan công an là cái chắc rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.

– Nè, bỏ cái lối xóc óc đi nghen. Chẳng có lợi chi cho anh đâu, thiệt đó. May cho anh gặp tui, chớ phải người khác họ quyết không để cho anh yên.

– Tôi cũng nghĩ thế, may thật!

Huỳnh Ngự nguýt tôi một cái dài.

Công bằng mà xét, Huỳnh Ngự không phải người xấu. Y chẳng qua là một công bộc trung thành với nhà nước hoặc với cái ghế y được ngồi – y làm việc như một robot không biết đến hỏng hóc. Y ngầy ngà, y dai hoi, nhưng y cũng không làm gì tồi tệ hơn, đôi lần tôi thấy y có vẻ ái ngại cho tôi nữa là khác. Nếu Đảng mang tôi đi bắn chắc y cũng bùi ngùi một phút, mà cũng có thể là hai.

– Hôm nay ta không làm tiếp việc bữa trước, mà bắt đầu làm việc chính thức. – y bình thản nối điếu thuốc kế tiếp rồi thong thả nhả khói về phía tôi. – Trước tui hỏi anh, anh trả lời, nay anh tự khai báo với Đảng những tội lỗi của anh cũng như của những kẻ mà anh có liên quan.

– ??

– Tức là tui sẽ đề ra câu hỏi. Anh trả lời bằng miệng. Tui gợi ý thêm. Anh khai vô giấy. Đơn giản vậy thôi hà. Anh hiểu chớ?

Buồn cười thật! Tôi tự khai báo, nhưng y vẫn hỏi cung tôi. Y như cũ.

Tôi đáp gọn lỏn:

– Không.

Cặp kính trắng loáng lên:

– Không cái chi?

– Tôi không hiểu.

– Sao lại không? Có chi khó hiểu đâu.

Huỳnh Ngự ngừng hút, điếu thuốc thây lẩy trên môi.

Tôi nói:

– Tôi không phải là phạm nhân, sao lại phải khai?

Huỳnh Ngự hiểu ra.

– Bộ anh không thấy anh là người có tội với Đảng à?

– Tội gì chứ?

Huỳnh Ngự nhếch mép, không ra cười, không ra định bĩu môi:

– Anh nghĩ đi, nghĩ cho kỹ, anh sẽ thấy anh có tội chi! Nếu không có tội thử hỏi Đảng bắt anh làm chi?

Cái lô-gích tuyệt vời này chỉ có ở những kẻ ấm đầu! Nhưng tôi không muốn cãi nhau với y. Tôi chỉ muốn cù nhầy một chút để suy nghĩ: thằng cha định lái câu chuyện đi theo hướng nào?

– Anh không phủ nhận anh không có tội với Đảng chớ?

– Tôi phủ nhận.

Câu trả lời tỉnh bơ làm y sững sờ.

– Anh? Phủ nhận?

– Tôi đã kiên nhẫn chờ đợi, – tôi lạnh lùng – nhưng rất tiếc, cho đến hôm nay tôi vẫn chưa được nghe Đảng công bố cho tôi biết tôi phạm tội gì?

Huỳnh Ngự trợn mắt. Y bắt đầu mất bình tĩnh.

– Anh không biết thiệt? Đến hôm ni vẫn không biết?

– Đúng thế! Khi bị bắt, tôi nghĩ Đảng buộc phải đưa tôi vào đây để hỏi vài điều gì đó mà để tôi ở ngoài hỏi thì không tiện, như anh gì hôm nọ nói. Sau, được nghe phổ biến cách xử lý của Đảng đối với vụ này tôi lại càng tin mình hiểu đúng.

– Hứ?

– Thật vậy, một mâu thuẫn đã được coi là mâu thuẫn nội bộ thì không phải là vụ án. Mà đã không có vụ án thì không thể có phạm nhân. Tôi hoan nghênh Đảng đặt việc này trong phạm trù mâu thuẫn nội bộ. Nhưng tôi thắc mắc: bất kỳ đảng chính trị nào cũng chỉ có những hình thức kỷ luật như phê bình, cảnh cáo, nặng quá thì khai trừ, tuyệt nhiên không có chuyện giam giữ, đúng thế không ạ? Huống hồ tôi không phải đảng viên.

– Hừm.

– Muốn giam giữ một công dân, chế độ nào cũng phải thông qua các thủ tục tố tụng thông thường, phải có lệnh khởi tố, lệnh tạm giam, mà tạm giam cũng chỉ được phép trong thời hạn luật định. Tôi không hiểu sao trong vụ này lại không có những cái tôi vừa nói. Như vậy có quá đáng không? Hơn nữa, tôi thấy tôi chẳng có tội gì, nếu đối chiếu các việc làm của tôi với Hiến pháp và luật pháp nhà nước…

Huỳnh Ngự lúng túng. Y không chờ đợi ở tôi một thái độ ngang như cua sau khi đã được nghe phổ biến về ân sủng của trên.

– Tui đã biểu anh rồi mà, cứ nghĩ cho kỹ đi khắc hiểu vì sao anh bị bắt.

– Nghĩ kỹ đến mấy cũng thế mà thôi. Tôi thật sự không hiểu, và nếu Đảng không cho biết thì tôi đành chịu tiếng ngu mà hỏi nữa, hỏi mãi, cho tới khi nào hiểu được mới thôi.

– Tui đã biểu đừng vội mà. Chưa nghĩ kỹ đừng trả lời.

Vui thật, thì ra người ta bắt tôi vào đây để ra cho tôi một câu đố: đố đằng ấy biết tại sao đằng ấy bị bắt?

– Một công dân bị bắt có quyền đặt câu hỏi: họ bị bắt vì tội gì, thậm chí có quyền không trả lời khi chưa được gặp luật sư của mình.

Huỳnh Ngự cười ngất. Tiếng cười hé hé căng thẳng, giả tạo của y vang to đơn độc trong căn phòng trống.

– Chà, sao mà hai cha con nhà anh giống nhau quá vậy! Anh còn trẻ hổng nói làm chi chớ ông già anh hoạt động cách mạng từng ấy năm mà vẫn còn mơ hồ mới lạ! Trong đầu cha con nhà anh rặt một thứ khái niệm dân chủ tư sản! Anh phải hiểu: nền dân chủ của ta khác hẳn nền dân chủ tư sản, như ánh sáng và bóng tối, như đêm với ngày, nghĩa là khác về chất, rõ chưa nào? Bởi vì nó là nền dân chủ được xây dựng trên cơ sở chuyên chính vô sản, một nền chuyên chính vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động chống lại thiểu số bóc lột… Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới thiệt là dân chủ, nó dân chủ gấp triệu lần nền dân chủ của các ngài tư sản, như Lênin đã dạy…

Lại một cách chạy trốn câu hỏi trực diện.

– Tuyên bố với người phạm tội về tội của họ phỏng có mâu thuẫn gì với chuyên chính vô sản? – tôi tiến tới – Chuyên chính vô sản là đường lối công khai, Đảng tuyên bố thẳng thắn, Đảng cần gì phải giấu giếm hành động chuyên chính của mình?

Huỳnh Ngự đỏ bừng mặt.

– Anh tưởng Đảng không biết chi về những hành động của các anh sao? Chẳng qua Đảng muốn anh tự giác nhận ra tội mình mà thành khẩn khai báo, để qua đó đánh giá mức giác ngộ của anh mà thôi.

Tôi vặn lại:

– Nhưng nếu chính tôi không biết mình phạm tội gì thì làm sao tôi có thể trình bày với Đảng tội của tôi được. Tội lỗi là một khái niệm không đồng nhất. Cái mà người này coi là tội, người kia lại coi là không.

Huỳnh Ngự phát bẳn.

– Nói rứa mà nghe được! Vô đây mà còn lý sự. Trước hết anh phải thấy mình có tội với Đảng cái đã! – giọng y bắt đầu the thé – Anh phải khẳng định một ngàn lần rằng Đảng-là-anh-minh, Đảng-bao giờ-cũng-sáng-suốt, Đảng-bao-giờ-cũng-đúng-đắn. Bắt cán bộ của mình Đảng xót xa lắm chớ. Anh không có tội thì không đời nào Đảng bắt anh. Anh có biết phương châm của Đảng chỉ cho chúng tui ra răng không? Nếu bắt cũng được mà không bắt cũng được thì kiên quyết không bắt!

Trong các nghị quyết của Đảng, nói cho công bằng, tôi không thấy có phương châm này. Theo tôi biết, nó chỉ là một câu nói của Trần Quốc Hoàn trong một huấn thị cho cán bộ ngành công an, có thể trong một cơn bốc đồng, rồi nó được ngành này khoe khoang ầm ĩ như thể đó là mẫu mực của lòng nhân ái vô sản. Tại sao lại có thể bắt cũng được mà không bắt cũng được? Đáng ngạc nhiên là một chủ trương phô bày sự đần độn như thế lại được tờ Học Tập, tạp chí lý luận của Đảng nhiệt liệt tán dương.

– Thế những người bị xử trí oan trong Cải cách ruộng đất thì sao? – mặc cho Huỳnh Ngự giận dữ, tôi lại vặn tiếp – Họ bị quy kết, bị bắt buộc phải nhận tội, rồi sau đó Đảng phải thừa nhận sai lầm, phải xin lỗi, phải sửa sai…

– Anh đừng có móc máy chuyện Cải cách ruộng đất! – y vỗ bàn, gầm lên – Từ bấy tới chừ cách mạng ta đã tiến bộ rất nhiều, cả về lý luận lẫn thực tiễn. Không phải Đảng cứ sai một lần thì những lần khác Đảng cũng sai mô… Rồi coi: lần ni Đảng có sai không?

Tôi mỉm cười, nhớ tới câu nói dân dã: “Một lần ỉa bậy, lần sau thấy cứt người ta gọi đến”.

Mặt Huỳnh Ngự tím lại:

– Nè, đừng giỡn mặt tui nghen. Bất cứ khi mô Đảng cũng có thể thay đổi nhận định hôm ni đối với lũ các anh. Tới lúc đó thì chỗ của các anh không phải là xà lim nữa, mà là pháp trường, pháp trường! Các anh là bọn phản Đảng. Mà phản Đảng coi bằng phản quốc. Chỉ có đem bắn. Bắn tuốt!

Bàn tay cầm điếu thuốc của y run bần bật.

Chúng tôi nhìn thẳng vào mắt nhau. Giống như trong trò chơi trẻ con, bên nào chớp mắt trước bên ấy thua, chúng tôi nhìn nhau trừng trừng, không ai chịu ai.

Tôi quyết thắng. Nếu tôi thua, tôi không chỉ thua trong trò chơi. Tôi thua có nghĩa là tôi sợ Huỳnh Ngự, có nghĩa là tôi có tội, nhưng không có can đảm nhận tội.

Huỳnh Ngự bỏ cuộc. Y quay đi, không chịu nổi cái nhìn lạnh giá của tôi. Nhưng chẳng bao giờ tôi có địa vị kẻ thắng, ngay cả trong trò chơi này. Vấn đề thua hay không thua chỉ đặt ra trước một mình tôi thôi.

Tôi được đưa trở lại xà lim.

Tôi làm mất thời giờ bạn đọc, kể một câu chuyện nhạt phèo. Nhưng câu chuyện dù có nhạt tới mấy cũng không nhạt bằng cái thực tế mà tôi gặp. Nó chẳng những nhạt mà còn phi lý. Phi lý đến mức không tưởng tượng nổi. Như thực tế trong một nhà thương điên.

Tôi mệt rũ. Tôi chán nản. Tôi tuyệt vọng.

Thành đã trải qua cảm xúc đó. Anh khuyên tôi phải luyện cho mình thói quen không ngạc nhiên trước bất cứ điều gì:

– Ông ngây thơ lắm. Với Nhà nước ta, công dân nào mà chẳng có tội. Khác nhau ở chỗ tội nhiều hay tội ít mà thôi. Nghĩ mà xem: nếu mỗi công dân lúc nào cũng nơm nớp thấy mình có tội thì tiện cho Đảng lắm chứ! Đảng chỉ còn việc nghĩ xem có nên bắt thằng A hay thằng B không, bắt hôm nay hay để đến mai? Ông cho là tôi nói quá à? Tôi không nói quá đâu. Ông cười? Đừng cười, bởi vì nó đúng là như thế đấy. Bộ máy chính quyền nào cũng gồm những con người, như ông với tôi đây, nó cũng biết nghĩ đấy, nó có bản năng tự vệ của nó đấy… Nó biết lo lắng, biết sợ hãi cho sự sinh tồn của nó đấy, nó biết tự bảo vệ đấy. Ngoài cái đó ra, bộ máy chính quyền nào cũng sĩ diện lắm. Nó thích được ca ngợi, nó không thích bị chỉ trích, bao giờ nó cũng tìm cách phô rằng nó sạch sẽ… Ông có biết rằng khi bắt một đảng viên, người ta phải khai trừ anh ta trước đã để làm gì không? Để đến lúc bị bắt anh ta không còn là người của Đảng nữa, để Đảng không phải xấu hổ…

Chuyện khai trừ Đảng trước khi bị bắt đã không xảy ra với những người trong vụ “nhóm xét lại chống Đảng”[5]. Tại sao, tôi không hiểu. Tôi cho rằng trong thời điểm đó những nhà lãnh đạo chưa có thái độ dứt khoát trong sự trấn áp những người cộng sản bất tuân. Việt Nam không phải là Trung Quốc. Những việc mà người Trung Quốc làm phứa không cần suy tính thì ở Việt Nam người ta còn phải dò dẫm, cân nhắc.

Cái ngoại lệ này kể cũng lạ. Tên cục trưởng Cục chấp pháp nói đúng chăng? Hiểu theo lời y thì một hình thức trấn phản chưa có tiền lệ đang được dùng cho chúng tôi: vừa bắt vừa không bắt. Xử lý nội bộ được hiểu như người bị Đảng còng tay đưa đi không phải bị giam giữ, mà chỉ bị gom lại một chỗ để giáo dục thôi (!).

– Khi bắt một con người, việc trước tiên người ta phải làm là bắt hắn nhận tội cái đã. – Thành giảng giải – Có tội hay không có tội, mặc. Đã bảo Đảng không bao giờ sai lầm cơ mà. Thế thì bằng bất cứ giá nào trong tay Đảng phải có bản nhận tội của thằng bị Đảng bắt cái đã. Nó có nhận tội thì rồi ra Đảng mới không sai, cho dù có bắt nhầm. Vụ việc để đó, xét sau cũng chẳng muộn…

Huỳnh Ngự đang cố gắng áp dụng bài bản này với tôi. Tôi muốn Thành phát triển đề tài mà tôi muốn biết nên vờ thích thú:

– Như thế đâu có được.

– Rồi ra ông còn biết ối chuyện lạ hơn nữa kia. – Thành nói – Tôi biết có người hoàn toàn vô tội, ở tù sơ sơ cũng vài năm, thế mà ra tù rồi cậy miệng anh ta cũng không dám nói anh ta bị oan. Thậm chí anh ta còn một mực nói Đảng bắt anh ta là đúng, rằng sở dĩ anh ta được tha, không bị đem ra xử là nhờ lượng khoan hồng của Đảng… Ông có biết vì sao không? Là vì anh ta nhận tội rồi, ký vào bản cung người ta mớm cho rồi, bây giờ há miệng mắc quai, lại còn sợ bị trả thù vì phản cung nữa chứ. Tội nghiệp, bị oan rồi mà đến một cái lệnh tha cũng chẳng được cấp, chỉ được thí cho một cái lệnh tạm tha thôi. Tạm tha là thế nào? Là người ta tạm cho về, nhưng coi chừng, bất cứ lúc nào anh cũng có thể bị bắt lại, đừng có đùa! Trong lệnh tạm tha người ta ghi: xét tội trạng chưa tới mức phải xử lý theo pháp luật…

Tôi kêu lên:

– Như thế là vi phạm nhân quyền!

Thành cười hức hức:

– Ông bạn ngốc nghếch của tôi ơi! Để có thể vi phạm một cái quyền thì điều kiện tiên quyết là phải có nó đã, ông bạn ạ!

Rồi anh thở dài, giọng yếm thế:

– Trong xã hội chúng ta, ông ạ, mỗi công dân chỉ là một người tù dự khuyết.

Tôi im lặng. Tôi buồn.

Có tiếng gào khóc ở đâu đó vọng đến, không biết từ xà lim nào. Thành lắng tai nghe.

– Cái gì thế, anh Thành?

– Tôi không rõ. Trong xà lim nghe tiếng khóc là chuyện thường. Khi nào nghe người ta cười, ấy là có người đã phát điên.

– Công an ở đây có tra tấn tù không?

Thành lắc đầu:

– Không. Nghe nói thỉnh thoảng người ta cũng đánh bọn lưu manh. Bọn ấy đánh là phải, tôi không thương. Với những can phạm khác thì không, họ không đánh, tôi chưa thấy. Âu cũng còn là cái tốt của chế độ. Tra tấn can phạm bây giờ bị cấm ngặt.

Chuyện bọn lưu manh bị đánh tôi có nghe. Nhưng đó là việc xảy ra ở những trại xa nào chứ ở Hỏa Lò thì tuyệt nhiên không có, tôi không thấy. Tôi có anh bạn tên Quý, biệt hiệu Quý Cao, làm chấp pháp trong Hỏa Lò, chuyên điều tra tù hình sự. Quý Cao kể rằng bọn lưu manh rất biết tính anh. Đứa nào bị anh gọi ra hỏi cung mà được anh cho một cái tát rồi đuổi về thì đứa ấy mừng rơn, tí tởn khoe với bè bạn: “Bố Quý vừa tát tao một cái!” Đó là điềm lành, nó cầm chắc được tha. Chúng sợ nhất khi anh ân cần hỏi thăm gia cảnh, tỏ vẻ thương hại, cho điếu thuốc hút tại chỗ rồi mới vỗ vai cho về – như thế chúng sẽ còn nằm lâu, có thể đến mùa quít. Không phải mình có ý gì hoặc giở trò nghịch ác đâu, Quý Cao nói, mình thương chúng nó chứ, chúng nó xấp xỉ bằng thằng lớn nhà mình, nhìn chúng nó lại nhớ tới con mình, tội nghiệp lắm.

Từ hôm vào Hỏa Lò tôi có ý nhìn ngó xem có thấy Quý Cao không, nhưng không thấy. Trước khi bị bắt tôi hay chạy lại anh để hỏi thăm tin tức cha tôi, nhưng anh chẳng biết gì. Vụ án được giữ bí mật, ngay cả với công an. Tôi bao giờ cũng cẩn thận cắt đuôi rồi mới tới Quý Cao, nhưng làm sao biết chắc không còn cái đuôi nào vẫn lẵng nhẵng theo được tới nhà anh? Có lần tôi đã cắt đuôi rồi đến ở nhà anh mấy ngày liền, làm cho bọn cá chìm đi theo tưởng tôi đã trốn mất. Quý Cao đã không bán bạn, điều đó được khẳng định. Là công an, anh vẫn còn là một con người.

Một hôm tôi đang bị Huỳnh Ngự hỏi cung thì nghe có tiếng kêu khóc thảm thiết trong một phòng gần đấy, kèm theo là tiếng vật lộn huỳnh huỵch, tiếng quát tháo om xòm. Tôi đoán đây là trò Huỳnh Ngự bày ra nhằm áp đảo tinh thần tôi. Tôi chưa lần nào bị tra tấn, chính mắt tôi cũng chưa thấy người khác bị tra tấn. Khi tôi ra tù có nhiều bạn hỏi, tôi trả lời nhưng họ không tin. Không phải là vì sợ mà tôi không dám nói, đúng như vậy – chuyện tra tấn là không có, mắt tôi không thấy.

Nhục hình khác thì có. Chẳng hạn những người không chịu khai, hoặc có hành động chống lại trong khi hỏi cung thì bị cùm chân dài ngày, có khi cả tháng. Hình thức này bản thân tôi rồi cũng nếm trải. Tuy nhiên, nhục hình chưa phải là cái ác lớn nhất. Có cái còn ác hơn.

Do nhu cầu hiểu biết, tôi có dịp làm quen với hình pháp học. Những tác phẩm về ngành học này không có nhiều ở nước ta, tôi có được vài cuốn là nhờ người đi nước ngoài mua giùm. Nhưng khi chưa bị tù tôi còn là kẻ cuồng tín, tôi nhìn mọi vấn đề qua lăng kính lý thuyết đấu tranh giai cấp của Marx, cho nên sự đọc của tôi không công bằng. Chỉ cần thấy Cezare Lombroso, Émile Durkheim[6] không phải mác-xít là tôi đã coi thường tác phẩm của hai ông rồi. Xem ra đọc sách không phải dễ. Nếu mình đã mang định kiến thì không thể tiếp nhận những gì được viết trong những cuốn sách một cách khách quan, vô tư.

Ở Việt Nam, cho tới khi tôi đi tù về, cũng chưa có nhà xã hội học nào đụng chạm tới lĩnh vực hình pháp học. Không phải vì nó quá khó, mà vì nó nằm trong phạm vi của sự độc quyền. Nếu không có người ở trong ngành công an đụng tới nó thì người ngoài chớ có mó máy vào.

Trong lĩnh vực này, tôi chỉ thừa nhận mỗi một Kudriavsev[7] với những luận điểm siêu hình của ông ta, như nhiều năm về sau này tôi mới hiểu ra, đặc biệt là những hiểu biết thực tế trong nhà tù. Cái đáng tiếc hơn cả những cuốn sách dày cộp về khoa học hình sự của cả phe xã hội chủ nghĩa lẫn phe tư bản chủ nghĩa đã chẳng mang lại cho tôi điều gì hữu dụng.

Thành nhận xét, trong công tác giam giữ, công an Việt Nam về cơ bản du nhập kinh nghiệm của Trung Quốc. Gần đây, tức là vào đầu thập niên 60, người ta có xu hướng chú trọng học tập kinh nghiệm của nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức, cho rằng trong phe xã hội chủ nghĩa nước này có nhiều thành tựu tiên tiến nhất do phải trực diện đối đầu với đế quốc. Kinh nghiệm của Liên Xô không được Việt Nam chú ý, trước hết vì Liên Xô là một xã hội khác xa Việt Nam, gì thì gì cũng là “Tây”, Trung Quốc gần gụi hơn vì là nước đàn anh châu Á, lề thói giống Việt Nam. Người ta coi trọng kinh nghiệm Cộng Hòa Dân Chủ Đức còn vì sau Đại hội XX mọi cái của Liên Xô đều bị coi là xấu, là dở, là “xét lại”. Hệ thống trừng phạt vốn đã khắc nghiệt của Liên Xô, theo báo chí phương Tây mô tả, thế mà ở Việt Nam nó vẫn còn bị phê phán là quá nhân đạo. Người ta nói hệ thống trừng phạt ở Liên Xô bị ảnh hưởng nặng nề “chủ nghĩa xét lại hiện đại”, trong luật pháp Liên Xô còn đầy rẫy yếu tố tư sản.

Xà lim ở một số trại giam bây giờ, đặc biệt ở các trại mới được xây dựng, rập khuôn theo hình mẫu Stasi[8], hiện đại hơn của thực dân Pháp nhiều – có nước máy dẫn vào tận nơi, tù cả năm không bước ra ngoài trừ khi đi cung, phòng hỏi cung thì được đặt ngay trong khu xà lim, tiện lắm. Như vậy khả năng quan sát vị trí nhà tù bị hạn chế tối đa, với những nhà tù kiểu mới ấy ý muốn vượt ngục bị triệt tiêu hoàn toàn. Hệ thống nghe trộm điện thoại của Đức nhập về đã hoàn tất năm 1964.

– Dân có điện thoại đâu mà phải nghe trộm họ nói gì? – tôi ngạc nhiên.

Vào thời kỳ này hầu như chẳng có nhà dân nào có điện thoại. Tôi nói hầu như cho chắc ăn, lỡ có ngoại lệ nào chăng, biết đâu có nhà được mắc điện thoại mà mình không biết. Điện thoại chỉ có ở các cơ quan và trong nhà các ông kễnh.

Thành cười khục khục trong họng.

– Các vị theo dõi nhau là chính chứ. – anh thì thào – Ông tưởng các ông kễnh tin nhau lắm sao? Còn lâu. Thời nào cũng vậy cả thôi, ông ơi.

Tôi đồng ý với anh. Đến ngay hoàng đế Napoléon cũng còn sử dụng mật thám riêng nữa là. Có điều mình quen hình dung xã hội chủ nghĩa là tốt đẹp, là tình nghĩa, cho nên mình mới ngỡ ngàng, mình mới cho là không thể có chuyện đó mà thôi.

Vào thời kỳ có “cuộc đấu tranh giữa hai đường lối”, việc nhiều nhân vật cao cấp cũng bị công an mật theo dõi không còn là chuyện lạ. Thậm chí các công an viên được phân công theo dõi đại tướng Võ Nguyên Giáp còn khoe với bạn bè công việc vinh quang của họ. Đến nhà cách mạng cao niên rất mực hiền lành Tôn Đức Thắng cũng không thoát khỏi con mắt cú vọ của Lê Đức Thọ. Mà cụ đâu phải người thèm muốn chức quyền. Với đám con cháu, cụ Tôn bảo: “Tụi bay đừng có kêu tao bằng phó chủ tịch nước, nghe ngứa cái con ráy lắm! Chúng nó đặt đâu tao ngồi đó, chớ tao không màng cái chức chi hết”. Ngoài việc dự các nghi lễ long trọng bắt buộc phải có mặt cụ, cụ không làm việc gì khác ngoài một việc cụ thích thú hơn cả là sửa xe đạp. Làm phó chủ tịch nước, ông thợ máy ngày trước buồn tay buồn chân. Hết xe đạp hỏng cho cụ chữa, anh em bộ đội bảo vệ và nhân viên phục vụ phải lấy xe của người nhà mang vào cho cụ chữa, kẻo ngồi không cụ buồn. Thương cụ quá, đôi khi họ còn tự mình làm cho xe trục trặcđể cho cụ sửa. Nhà văn Thái Hồng, bạn tôi, hay lui tới thăm cụ Tôn, chả là cha anh trước kia là đàn em của cụ, kể cho tôi nghe rằng một hôm anh đến thăm cụ, trúng thời gian Nghị quyết 9, thì cụ dắt anh vào phòng riêng thì thào: “Mầy có thấy lính kín[9] theo mầy tới đây không mầy?” Anh ngạc nhiên quá, nhìn cụ chằm chằm. Tưởng anh lo lắng cho cụ, cụ mỉm cười hiền hậu: “Là tao lo cho tụi bây, chớ tao hổng lo cho tao. Trong nhà tao nè, lính kín hổng có thiếu”.

Tôi ngày càng mến Thành. Tuy nhiên, tôi vẫn tránh đụng chạm tới chuyện chính trị. Nhưng có chuyện gì ở nước này mà không dính dáng tới chính trị kia chứ? Đành phải ngậm miệng khi Thành vô tình hỏi đến vụ án chúng tôi. Thành linh cảm được điều đó và anh lảng xa vùng cấm. Tôi chắc Thành cũng biết mong manh về tôi. Anh không có ý moi móc những gì tôi không muốn nói, và là cái công an muốn biết. Rất có thể người ta đã chiêu mộ anh làm chỉ điểm, cái thế của anh buộc anh phải nhận, không nhận không xong với họ, nhưng trong thâm tâm anh không tán thành việc làm vô sỉ đó, vì thế anh nhận đấy nhưng lại hành động ngược lại. Mấy ngày ở gần anh cho tôi cảm giác như vậy. Để giúp tôi đối phó với chấp pháp anh kín đáo đưa ra những lời khuyên dưới dạng những câu chuyện kể về đời tù, những chuyện tiếu lâm vô thưởng vô phạt. Nhờ những lời khuyên của anh mà tôi biết cách ứng xử khéo léo hơn trong những cuộc hỏi cung, và nói chung chúng rất có ích cho tôi trong cuộc sống trong tù những năm sau.

Ngoài sân, con chó béc-giê được thả vào. Nó bắt đầu lồng lộn trong những chồng tôn vứt hỗn độn. Nhưng chúng tôi đã quen rồi.

Phía xà lim xế cửa có tiếng sụt sùi.

Thành nói: anh tù khóc vừa được tin mẹ chết. Anh này nằm xà lim đã hơn ba năm.

Bình thường là người tù có kỷ luật, bỗng dưng anh ta nổi khùng, chửi loạn xạ từ ông quản giáo đến ông Đảng, ông Nhà nước, và các lãnh tụ. Phớt lờ những hình phạt mà người tù xà lim nào cũng sợ, anh ta cứ chõ ra hành lang mà kể lể. Rằng mẹ anh ta ở nhà chết đói mà anh ta chẳng tội tình gì thì cứ phải ở mãi nơi này. Rằng anh ta là đứa con duy nhất, tại Đảng mà trở thành bất hiếu, không nuôi được mẹ, để mẹ chết thảm. Quản giáo rầm rập chạy vào, đè nghiến anh ta xuống, nhét giẻ vào miệng, cùm lại. Việc xảy ra buổi sáng, lúc tôi đi cung.

Nhân sự kiện này Thành kể cho tôi nghe ở một số trại còn có cả dụng cụ chuyên dùng để bịt miệng những người tù kêu la. Nó trông tựa cái hàm thiếc ngựa. Nếu người tù chửi bới, anh ta sẽ bị đóng hàm thiếc vào, cùm chân lại, cho tới khi chịu ngừng chửi bới mới thôi. Ở trong khu xà lim chuyện này vẫn thường xảy ra. Chẳng phải những người tù có tư tưởng chống Đảng chống điếc gì hết. Bị giữ trong xà lim quá lâu, thế là vào một ngày nào đó họ nổi cơn điên.

K. Marx viết trong cuốn Gia Đình Thiêng Liêng rằng chế độ giam giữ người trong xà lim cá nhân quá lâu là vô nhân đạo. “Con người chỉ có thể chịu đựng một sự giam giữ như thế trong giới hạn năm năm. Vượt quá giới hạn này người bị giam sẽ mất trí”, ông nhận định như vậy trong khi điểm cuốn Những Bí Mật Thành Paris của Eugène Sue[10].

Những kẻ tự xưng là học trò Marx, là người kế tục sự nghiệp của Người (viết hoa) đang thực hiện điều mà Marx lên án.

Tôi muốn an ủi Marx quá: thôi mặc họ, ông ơi, chấp làm chi ba cái chuyện vặt ấy! Mà ông cũng chẳng phải xấu hổ – đám mao-ít vô học và thất học nọ có bao giờ là học trò ông đâu. Họ tự xưng mác-xít, nhưng chưa bao giờ đọc ông hết, trừ những cuốn sách giản lược về chủ nghĩa Marx mà nội dung đã bị vo tròn bóp méo đến mức, nói thật, chính ông cũng không nhận ra là của ông nữa. Vong linh ông hẳn phải biết, Marx của tôi ơi, sách của ông cũng bị làm mồi cho lửa, không phải một lần. Cùng với sách của các đại văn hào được cả loài người kính trọng. Nói cho công bằng, những nhà chuyên chính vô sản ở nước tôi cũng không chủ bụng đốt sách của ông đâu, dù sao ông cũng được họ tôn làm thầy kia mà, dù sao họ cũng xưng là trò của ông kia mà. Khốn nạn cho ông là sách của ông lại in bằng tiếng Tây. Sách của bất kỳ ai, phàm được in bằng tiếng Tây thì đều bị đốt tất, không cần phân biệt, trong những đợt truy quét cái gọi là văn hóa độc hại. Cũng có một số sách may mắn không bị đốt mà chỉ bị thu, chúng được chất thành đống trong kho Hỏa Lò đấy. Tôi biết chuyện này là vì mấy anh bạn công an của tôi đã tha về cho tôi một số sách của ông, và của cả ông Engels nữa, từ khi tôi còn chưa biết Hỏa Lò là thế nào.

Ông nên lấy làm mừng đã ra đời ở một thế kỷ khác, ở một nước khác, chứ không phải ở Việt Nam (hay Trung Quốc, hay Bắc Triều Tiên) trong những năm rồ dại này. Với tư tưởng ngạo ngược của ông, tôi đoán chắc ông phải ở đâu đây, bên cạnh tôi, trong một xà lim nào đó.

Xà lim Hỏa Lò làm cho con người mất trí nhanh hơn xà lim thời Les Mystères De Paris nhiều, Marx vĩ đại ạ.

Với sự giúp đỡ của những con chó.

12

Sáng chủ nhật, khác với thường lệ, tôi bỗng bị gọi đi cung.

Khi Hách mở cửa, tôi còn ngái ngủ. Ngày thường tù xà lim phải dậy sớm để lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng đi cung, tuy chuyện đi cung đối với số đông tù xà lim chỉ năm thì mười họa. Cũng theo quy định, khi quản giáo mở cửa cho tù đi đổ bô, rửa ráy và ăn sáng thì tù phải ăn vận nếu không chỉnh tề thì cũng không được lôi thôi. Cái đó chứng tỏ sự tôn trọng chính quyền. Tiếng là ăn sáng, là điểm tâm cho oai, chứ cái suất ăn sáng ở đây chỉ điểm vào cái tâm mình một cái khe khẽ gọi là có. Một khúc sắn ôi, ba củ khoai hà – bữa lót dạ cho tù là thế.

Chủ nhật tù không có tiêu chuẩn ăn sáng, quản giáo vào xà lim chậm, cho nên tha hồ dậy muộn. Cứ tưởng trong xà lim ngày nào cũng như ngày nào, hóa ra không phải. Người tù xà lim cũng như người ở ngoài kia, cũng ngong ngóng mong chủ nhật như thường. Không phải vì nó là ngày nghỉ, mà vì nó là cái mốc thời gian. Mỗi chủ nhật qua đi là anh ta tiến gần thêm cái đích trở về nơi cái chân trời xa tít tắp. Còn có một nét tâm lý này nữa: được một ngày khác với ngày thường, dù sao cũng vẫn là ngày không bị dựng dậy đi cung, người tù có thể nằm ườn đến tận trưa, cái đó làm cho anh ta thấy mình giống với người ở bên ngoài.

Trong Hỏa Lò hiếm khi tù bị gọi đi cung vào chủ nhật. Trường hợp đi cung chủ nhật chỉ xảy ra với những can phạm vừa mới bị bắt, mà phải là can phạm trọng án kia, chấp pháp cần lấy cung gấp kia, chứ can phạm thường thì có thể yên tâm ngủ kỹ. Chủ nhật, ngày của Chúa, mọi người đều nghỉ, kẻ tin Chúa cũng như kẻ vô thần, kẻ bắt tù lẫn kẻ ở tù. Không hiểu Huỳnh Ngự giở giói bắt tội tôi phải thức dậy khi chưa đẫy giấc làm gì? Y chưa chán đấu khẩu với tôi sao?

Tính ra đã bốn tuần lễ trôi qua kể từ hôm tôi bị bắt. Đúng là thời gian thấm thoắt thoi đưa!

Ấy là nhờ Thành thông báo tôi mới biết chứ tôi chẳng nhớ gì hết. Tôi đã nhất định không tính đếm là không tính đếm. Đếm những ngày ngồi tù làm gì kia chứ? Để vận công thức “nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” ra mà so mình với ông Bành Tổ chăng? Chao ôi, khi nghĩ tới thời gian thì cái thời gian xà lim nó dài lắm, chẳng có cái thời gian nào dài bằng nó! Tốt nhất là hãy quên đi, quên ngày quên tháng, quên mẹ quên cha, quên con quên vợ, quên nhiều thứ khác nữa, quên tuốt tuột. Như thế mới chịu đựng nổi, mới không phát điên, mới không xé quần áo chăn màn ra mà bện lấy một sợi thừng treo cổ. Chỗ để treo thì bao giờ cũng có, ở đâu mà chả có, mặc dầu thoạt nhìn thì cái xà lim trống trơn có vẻ như chẳng có chỗ nào để mà treo. Thành kể, có người tù buộc dây ngay vào cái song sắt bé tí tẹo nơi cửa kiểm tra (le judas) mà treo. Thế mà chết đấy! Nhưng phải rất quyết tâm kia, phải rất có gan kia: le judas chỉ cao ngang mặt một người tầm thước.

Tôi hình dung mình treo ở cái song sắt đó, đầu ngoẹo về một bên. Không, mình sẽ không chọn cái chết như thế. Trông chẳng ra làm sao cả! Nếu có chết thì cũng phải chết sao cho đẹp đẹp một tí.

Thỉnh thoảng, như thể động viên tôi, Thành lại ngâm nga hai câu thơ chẳng rõ của anh hay của ai:

Còn trời còn đất còn non nước,

Có lẽ ta đâu mãi thế này!

Hách chăm chú quan sát tôi mặc thêm áo bông, đi giày. Tôi cảm thấy cái nhìn của y lướt trên thân mình, như thể cái nhìn của y có sức nặng. Hách có cái nhìn vô tình, nhìn người mà như thể nhìn vào khoảng không hoặc nhìn đồ vật. Dưới cái nhìn như thế, người tù thấy mình thuộc về cái phần nhân loại bỏ đi theo cách phân loại nazi[i][11], không đáng được sống, chỉ đáng quẳng vào lò thiêu. Trong khi người tù chưa vào đó, Hách chẳng thương xót cũng chẳng ghét bỏ. Y ở trên cao, dửng dưng ngó xuống.

Cũng có khi tôi tưởng tượng ra điều không có, tôi suy diễn, chứ trong khi đi cùng y ra phòng hỏi cung, Hách cư xử với tôi cũng chẳng đến nỗi nào. Ngắm cái đầu bù xù của tôi một lát, y nói bằng giọng ôn tồn:

– Tóc anh tốt rồi đấy! Chiều rỗi, tôi cắt cho.

Huỳnh Ngự đón tôi trong chiếc áo bông khoác ngoài bộ dạ đen kiểu Tôn Trung-sơn thường lệ. Trời lạnh cắt da. Ngồi trong phòng đóng kín cửa mà tôi vẫn còn thấy cái run từ trong ruột.

Trong tù không có gương. Chẳng biết mình già, trẻ? Thành vẫn thường ngâm nga câu ấy.

Nhìn cổ tay tôi biết mình gày đi nhiều. Ăn uống như thế không gày đi sao được? Còn già đi bao nhiêu thì không biết. Trong Hỏa Lò tôi chưa bao giờ gặp một cái gương. Tôi mới ba mươi tư tuổi. Nỗi lo sợ cái già chưa làm phiền tôi.

Bên ấm trà, Huỳnh Ngự tào lao với tôi một lúc lâu. Qua câu chuyện lấp lửng, đầy những câu úp mở của y, tưởng chừng lấp ló đâu đây, ngay sau lưng y một tương lai nếu không sán lạn thì cũng rất dễ chịu – chẳng còn bao lâu nữa chúng tôi sẽ được trở về với gia đình. Rồi đây Đảng vô cùng anh minh và rất mực nhân từ[12] sẽ bố trí cho chúng tôi mỗi người một công tác thích hợp và một vị trí xứng đáng.

Tôi im lặng nhấp từng ngụm trà đặc, lơ đãng nghe.

Khi nào Huỳnh Ngự lên cơn giảng đạo thì nét mặt y thay đổi hẳn. Y không phải hiền đi, mặt y khó mà hiền được, nhưng nó ngây ngô hẳn, ngớ ngẩn hẳn, lúc nhe răng cười không thành tiếng, lúc bậm môi lại, răng nghiến ken két. Khi nào thật bốc, y nói liên chi hồ điệp, tán như khiếu, khiến tôi lại nhớ tới câu nói “nghe Việt Minh nói, kiến trong lỗ cũng phải bò ra” mà bật cười. Thế mà hồi trước nghe ai nói thế, tôi giận lắm đấy. Tôi cũng là Việt Minh mà. Về sau này, khoảng 1954 trở đi, dần dà thiên hạ biết sợ, không còn ai dám nói cái câu châm chọc ấy nữa.

Giũa chừng của buổi giảng đạo có một người đàn ông đứng tuổi bước vào, lẳng lặng ngồi xuống ghế bên cạnh Huỳnh Ngự.

Người đàn ông có gương mặt xương xương này dường như tôi đã gặp ở đâu đó nhưng tôi không nhớ ra. Chỉ thấy Huỳnh Ngự đối với anh ta có vẻ kính nể, y định ngừng lời để chào hỏi, hoặc để giới thiệu cho tôi biết, nhưng anh ta lạnh lùng phẩy tay ra hiệu cứ tiếp tục. Về sau tôi mới biết là một nhân vật quan trọng – cục trưởng Cục bảo vệ Đảng Nguyễn Trung Thành.

Đang thao thao bất tuyệt, bỗng Huỳnh Ngự sực nhớ ra điều gì, y lục lọi trong các túi rồi rút ra một mảnh giấy:

– Nè, anh nhận ra nét chữ ai đây không?

Y vui vẻ khoắng khoắng mảnh giấy trước mặt tôi.

Tôi nhận ra ngay nét chữ của cha tôi, mặc dầu khoảng cách khá xa. Cha tôi thuộc thế hệ nho học cuối cùng, bỏ chữ nho đi học chữ quốc ngữ. Vào thời ông còn trai trẻ, và rất lâu sau đó, người ta đặc biệt chú trọng chữ viết – học trò phải tập viết nắn nót cho đến khi đạt được cách viết chữ đẹp như chữ mẫu trong sách giáo khoa. Trong học đường, giờ tập viết được coi trọng không kém gì các môn học khác. Không hiểu thực dân Pháp cần đào tạo lớp thư lại mẫu mực cho chính quyền thuộc địa hoặc giả nền giáo dục thời trước thích bề ngoài hào nhoáng, nhưng thế hệ cha tôi đã được rèn cặp để viết chữ rất đẹp. Thế hệ tôi viết tồi hơn nhiều. Thế hệ sau tôi còn tồi hơn nữa.

Tôi vờ nheo mắt, chăm chú. Rồi lắc đầu:

– Không, tôi không nhận ra.

Huỳnh Ngự đưa mảnh giấy lại gần thêm chút nữa:

– Nhận ra chưa nào?

Tôi vẫn lắc đầu.

– Mắt anh kém đến thế kia à?

– Cũng không đến nỗi kém lắm.

– Vậy mà anh không nhận ra đó.

Y thú vị với trò trẻ con của y.

– Chừ nhận ra chưa?

Màn kịch hôm ấy về sau hóa ra có lợi. Tưởng tôi cận thị nhẹ không chịu mang kính, Huỳnh Ngự thường hớ hênh để những bản cung trên bàn không che đậy, trong tầm mắt tôi. Nhờ đó tôi biết ai mới bị bắt, ai đã yếu lòng.

– Nè, thư ông già anh gởi cho anh đó! – Huỳnh Ngự đặt mảnh giấy xuống trước mặt tôi – Đọc đi. Tui qua bển một lát.

Người đàn ông chú mục theo dõi thái độ của tôi. Tôi đoán anh ta đến để quan sát hiệu quả của việc tôi đọc bức thư.

Huỳnh Ngự chờ một lát cho tôi bắt đầu chú ý đọc rồi mới đứng lên, cùng một lúc với cục trưởng Cục bảo vệ Đảng. Hai người đi ra ngoài.

Thư cha tôi viết:

“Con của bố,

Bố mấy hôm nay trong người yếu lắm. Bố rất lo lắng cho mẹ và các con ở nhà. Mẹ và các con cứ yên tâm về bố, ở đây bố có đủ thuốc men và được chăm sóc chu đáo. Đảng bắt bố là việc vạn bất đắc dĩ, Đảng buộc lòng phải làm như vậy vì bố có tội với Đảng, là đảng viên hoạt động cách mạng lâu năm, nhưng bố có khuyết điểm chỉ nhìn thấy những điều bất đồng chứ không nhìn thấy cái chung lớn lao, do thiếu ý thức tổ chức mà phạm vào những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho Đảng. Bố mong con nghe lời bố thật thà báo cáo hết với Đảng những sai lầm khuyết điểm của mình trong bước ngoặt này của cách mạng. Phương châm của Đảng là trị bệnh cứu người, chứ với cán bộ cách mạng, Đảng không có mục đích trừng trị. Bố”.

Họ đi rồi, tôi nghiến ngấu đọc bức thư không chờ đợi.

Cảm giác duy nhất của tôi lúc ấy, khi đọc xong, tôi nhớ rất rõ, là xấu hổ, xấu hổ vô cùng. Mặt tôi nóng bừng. Mồ hôi vã ra. Đúng như người ta thường nói, tôi muốn có một lỗ nẻ để chui xuống đất.

Nguyên nhân nào đã khiến cha tôi viết cho tôi một bức thư như thế? Chao ôi, đó là cái gì nếu không phải là sự đầu hàng nhục nhã. Trong khi chúng tôi vô tội. Trong khi chúng tôi đang cắn răng lại để được ngẩng cao đầu. Trong khi chúng tôi đang đòi bọn độc tài phải trả lời trước công luận.

Bức thư của ông đặt vào tay chúng bằng chứng nhận tội. Cái gì là phạm vào những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho Đảng? Một bức thư rõ ràng không có lợi gì cho chúng tôi. Tôi như nhìn thấy bộ mặt Huỳnh Ngự nhăn nhở trong tiếng cười khoái trá.

Những dòng chữ thân thương của cha tôi quay cuồng trước mắt.

Trời hỡi, cha tôi, mà tôi quen nhìn như một anh hùng, lại hèn nhát đến thế ư?

Trong phút ấy, lạy Trời, tôi là đứa con bất hiếu! Tôi chỉ muốn cha tôi chết đi, nhưng hãy chết như một anh hùng! Tôi không muốn ông sống hèn hạ như thế này! Chết đứng còn hơn sống quỳ, chẳng phải chính ông đã dạy tôi như vậy sao?

Chúng tôi, những đứa con của ông, chúng tôi đã yêu ông biết mấy, đã kính trọng ông biết mấy!

Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi là tôi sẽ đứng vững đến cùng. Cha tôi có thể đầu hàng, nhưng tôi thì không[13]!

Trong phút ấy, tôi sợ nhất phải gặp Huỳnh Ngự để y nhìn thấy sắc mặt tôi biến đổi. Y có thể quay về bất cứ lúc nào. Cái rét run biến đâu mất. Mồ hôi toát ra. Tôi chưa đầu hàng. Vậy mà cha tôi đã kéo cờ trắng thay cho tôi. Tôi sẽ chẳng dám nhìn thẳng vào mặt Huỳnh Ngự như trước. Nước mắt tôi ứa ra.

Tôi cứ ngồi bất động, đọc đi đọc lại bức thư, trong lòng tê tái. Tôi quên hẳn anh chàng công an phụ tá của Huỳnh Ngự vẫn ngồi lặng lẽ trong một góc, một người thấp bé, trán hói, gương mặt hiền lành, giống một thầy giáo làng.

Cục 2[14], người ta kể, có những tay tổ trong nghề giả mạo chữ viết ở trong bộ phận chuyên làm giả giấy tờ cho các điệp viên. Người ta đã tổng kết rằng chưa từng có điệp viên nào bị lộ vì sử dụng giấy tờ giả được Cục 2 cung cấp. Sau khi hòa bình lập lại (1954) Nha Công an Việt Nam đổi thành Thứ bộ Công an rồi Bộ Công an, Cục 2 đã chuyển cho Cục tình báo của bộ này một số chuyên gia của nó.

Bức thư có thể là của giả chăng?

Đáng buồn cho tôi, càng đọc kỹ, càng xem kỹ, tôi càng tin công an không làm giả bức thư. Chính là nét chữ của cha tôi.

Nhưng tôi cũng không tin cha tôi hèn nhát. Ông không phải người như thế. Cần bình tĩnh tìm bên trong bức thư quá khiêm nhường này những lời nhắn nhủ khác.

Trước ngày bị bắt, công an có chuyển đến cho tôi một bức thư cũng của cha tôi, trong đó ông khuyên tôi đến Ban tổ chức Trung ương để báo cáo về những khuyết điểm của mình. Tôi không tin đó là cha tôi viết. Tôi cũng không đến Ban tổ chức Trung ương. Không dại gì đi nhận những cái tội không có, tôi nghĩ, để Lê Đức Thọ sử dụng nó vào việc hại người khác. Mà nếu tôi không nhận tội theo ý Thọ thì báo cáo hay không báo cáo kết quả cũng như nhau.

Liệu cha tôi có biết tôi bị bắt không? Căn cứ lời lẽ trong thư, tất nhiên không rõ ràng, thì nhiều phần là không, ông chưa biết tôi bị bắt. Thì đây, nếu biết tôi bị bắt ông đã không viết “bố rất lo lắng cho mẹ và các con”. Như vậy là ông viết trong hoàn cảnh muốn bảo vệ vợ con trước sự đe dọa của bọn Duẩn-Thọ. Cha tôi muốn cứu tôi. Ông sợ nếu tôi cũng bị bắt nốt thì một mình mẹ tôi sẽ khó bề xoay xỏa để gia đình không tan nát.

Tại sao bức thư lại bị cắt ngắn ở phía dưới. Phải chăng người ta đã cắt đi dòng đề ngày tháng? Hoặc ở đó có dòng tái bút không vừa ý kẻ kiểm duyệt

Tại sao ông lại viết: “Bố rất lo lắng cho mẹ và các con”? Cái gì làm ông phải lo lắng? Ông lo ông bị bắt, không có lương của ông thì mẹ tôi không nuôi nổi con cái chăng? Đành rằng Đảng đã xích chặt cán bộ với mình bằng đồng lương – cán bộ đã quen sống bao cấp đến nỗi anh ta không thể sống nổi nếu anh ta bị cắt lìa khỏi cái vú Nhà nước. Nhưng mẹ tôi là người tháo vát. Bà có thể ra đường với một gánh hàng rong chứ không chịu vì mình mà chồng phải khuất phục cường quyền. Cha tôi chắc chắn phải hiểu điều đó. Chưa bao giờ tôi thấy ông viết một câu tương tự trong những bức thư gửi cho mẹ tôi. Mẹ tôi đã cho ông thấy không phải một lần rằng bà biết tự mình chèo chống khi vắng ông. Mà ông thường xuyên vắng nhà trong cuộc đời hoạt động cách mạng của hai người.

Ghép những câu đùa bỡn của bạn bè cha mẹ tôi với những câu chuyện mẹ kể về thời trẻ của hai ông bà, tôi mường tượng ra mối tình của hai người. Nó bắt đầu từ cuộc gặp gỡ giữa hai tổ chức yêu nước để bàn việc hợp nhất cho mục đích cách mạng. Tổ chức của mẹ tôi gồm một nhóm nữ sinh tự động kết hợp với nhau mà thành[15]. Trong sách sử người ta ghi lại tình hình này bằng câu: các tổ chức cách mạng mọc lên như nấm. Trong thời kỳ này mẹ tôi, một nữ sinh trường trung học Brieux, đã cùng các bạn tổ chức một cuộc bãi khóa bảo vệ Phạm Tất Đắc[16], tác giả bài thơ nổi tiếng Chiêu Hồn Nước.

Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội hồi bấy giờ đã là một tổ chức vững chắc, có uy tín trong dân chúng. Cha tôi đại diện cho tổ chức này đi chắp nối với các tổ chức yêu nước khác, kêu gọi hợp nhất để tăng thêm sức mạnh. Mối tình của hai người nảy nở từ những cuộc gặp gỡ đó[17]. Đó là một mối tình lãng mạn, đầy chất thơ cộng với lòng yêu nước nồng nhiệt của hai con người quyết không chịu sống trong thân phận nô lệ.

Chúng tôi lần lượt ra đời. Không thể nào cả hai ông bà cùng đi hoạt động để không còn ai trông nom dạy dỗ con cái. Trong hai người phải có một người ở nhà làm việc đó. Người phải ở nhà tất nhiên là mẹ tôi. Bà vừa trông con, vừa làm các công tác thích hợp được Đảng giao phó – lo toan kinh tế cho đoàn thể, giữ liên lạc với các đồng chí. Các ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Trần Huy Liệu, Trần Đình Long, Xuân Thủy[18], Nguyễn Duy Trinh, Lê Quang Đạo, Văn Tiến Dũng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Khuất Duy Tiến, Đặng Châu Tuệ[19], Đặng Kim Giang, Bùi Lâm, Đặng Việt Châu[20]… đều đã qua lại cơ sở được đảm bảo chắc chắn này của cách mạng.

Vậy thì lần này, lần kế tiếp của những sóng gió xảy ra trong cuộc đời đôi vợ chồng cách mạng, cái gì đã làm cho cha tôi lo lắng đến như thế?

Tôi suy nghĩ rất lung.

Cuối cùng rồi tôi cũng nhận ra những lời đích thực mà cha tôi muốn nhắn nhủ, đặt những dòng viết vào trong văn cảnh thời hiện tại: “bố lo bọn chúng sẽ không từ một thủ đoạn khủng bố nào để đàn áp những người dám cưỡng lại ý chúng… ”

Chính mẹ tôi cũng đã căn dặn chúng tôi:

– Xem ra chuyện này không đơn giản đâu, các con ạ. Nó rất không bình thường. Hoàn toàn không phải chuyện địch dựng vụ để ta tàn sát lẫn nhau như đã từng xảy ra[21]. Có điều cần phải nhận rõ rằng chính quyền ngày nay không phải của ta nữa rồi. Bọn lợi dụng thành quả cách mạng chỉ còn chưa xưng vương được mà thôi. Chúng đã leo được lên đầu lên cổ nhân dân, chúng sẽ không dừng lại. Phải biết giả câm giả điếc mà sống qua giai đoạn này, các con ạ. Nếu chúng nó bắt mẹ thì Hiên trông các em. Nếu Hiên cũng bị bắt thì đến Phương… Cứ thế mà trông nom nhau.

Bà đưa chúng tôi vào Hà Đông để thăm bác Đinh Chương Dương.

Bác Đinh là người đưa cha tôi vào đường cách mạng, cho nên cha tôi coi bác như nghĩa huynh. Hai người gặp nhau khi cha tôi còn là một học sinh 15 tuổi, tại thị xã Tuyên Quang. Ông Vũ Đình Linh, anh cả của cha tôi, hồi ấy làm công chức cho Pháp trên tỉnh mạn ngược này.

Những người tù chính trị làm cỏ-vê[22] ở núi Cố đã giác ngộ lòng yêu nước cho cha tôi, trong đó bác Đinh gần gụi với cha tôi hơn cả. Cha tôi đã nhịn quà sáng, xin thêm tiền chị dâu để sắm quần áo cho cuộc vượt ngục của bác Đinh và một số đồng chí. Sau đó, mất liên lạc với bác Đinh, cha tôi tự viết truyền đơn, tự tay đi rải ở thị xã Thái Bình và ở đây ông bị bắt lần đầu. Tôi có hỏi vì sao ông làm một hành động tự phát và nông nổi như vậy thì ông bảo lúc ấy ông nghĩ rằng chỉ có bằng cách đó ông mới có thể tìm ra con đường dẫn ông tới với ông Đinh Chương Dương và tổ chức cách mạng.

“Huỳnh ơi! Huỳnh ơi! Huỳnh ơi!” Nghe tin dữ, bác Đinh đang nằm liệt đập tay xuống giường kêu lên ba lần, khóc nức nở. Nhìn người già lăn lộn khóc lóc, lòng tôi đau quặn. Mẹ tôi nói với bác Đinh: “Em cũng có thể bị chúng nó bắt, bởi vì em cũng biết nhiều điều bí mật chồng em biết. Nếu em bị bắt thì cháu Hiên sẽ thay mặt vợ chồng em vào thăm bác, cháu Hiên bị, còn cháu Phương, còn lại một đứa nào trong mười đứa con em thì còn có đứa vào đây thăm bác”. Rồi mẹ tôi nghẹn ngào, nụ cười méo xệch: “Đẻ nhiều đâm ra những lúc như thế này lại có lợi, bác ạ!”. Bác Đinh hỏi tôi: “Cháu có nhớ chuyện “giật giải mũ”[23] không?”. Tôi thưa có. Bác nói: “Người xưa còn thế được, người nay mà thế a?!”

Mẹ tôi ít đọc sách, nhưng trái tim trong sáng luôn mách bảo bà, giúp bà nhìn thấu bản chất sự việc. Tại sao tôi lại không nghĩ ra nhỉ? Phải chăng trong góc sâu kín nào của tâm hồn, tôi vẫn còn ngờ có những điều cha tôi giấu tôi. Phải chăng vì ông có giao du với những người mưu toan cướp chính quyền, nên lãnh đạo Đảng mới bắt ông? Nhiều người ngây thơ cũng đã nghĩ như tôi, sau này ra tù rồi tôi mới được biết. Chúng tôi tin Đảng, như bây giờ người ta nói, hơi bị nhiều.

Dưới thời Stalin không ít người cộng sản vô tội bị hãm hại, giờ ai cũng biết. Điều ít ai biết là những người này, sau một thời gian được xử lý tại các xà lim, đã nhận những tội họ không hề phạm, đã nói những lời ăn năn, hối lỗi. Những nhà nghiên cứu đã tìm hiểu hiện tượng này và họ thống nhất trong nhận định: nguyên nhân của sự đầu hàng chóng vánh là bộ máy đàn áp hứa hẹn chắc chắn sẽ thanh toán, hiểu theo nghĩa tiêu diệt, cả gia đình họ nếu họ không chịu nhận tội. Trong nỗi tuyệt vọng trước viễn cảnh đen tối, những người bị trấn áp chỉ còn một con đường duy nhất: làm ra vẻ khuất phục để ít nhất cũng cứu được vợ con[24].

Huỳnh Ngự nhắc khéo tôi:

– Hôm rồi vợ anh dắt các cháu tới đây xin cho các cháu gặp ba! Các cháu xinh xắn hỉ? Chị khóc, các cháu khóc, chúng nó nhớ ba, trông mà ái ngại. Anh phải nghĩ tới vợ con anh chớ. Ai người ta cho vợ một tên chống Đảng ở trong biên chế Nhà nước nữa? Mất việc rồi chị ấy lấy chi nuôi con? Rồi đây con cái anh sẽ ra sao? Chúng nó sẽ đứng đường, một khi anh vẫn ngoan cố, vẫn không chịu hối cải để được Đảng khoan thứ. Đừng sợ Đảng trừng trị mà giấu giếm tội lỗi. Hãy lo mình chưa tận trung. Đảng bao giờ cũng giơ cao đánh sẽ… [25]

Một hôm khác y dụ dỗ:

– Này, anh phải cố gắng lên chứ. Anh Sáu nói ảnh sẽ bố trí thời gian cho anh được gặp đấy. Nhưng anh phải thế nào chứ cứ thế này thì chẳng cho gặp đâu. Được gặp anh Sáu anh cứ xin ảnh, biết đâu ảnh chẳng thương tình mà cho về…

– Tôi không hiểu cố gắng nghĩa là thế nào.

– Còn nghĩa là thế nào nữa! Là phải thành khẩn khai báo, phải nhận mọi tội lỗi với Đảng, thì Đảng sẽ khoan hồng.

Tôi nhớ tới bức thư của cha tôi. Từ hôm được đọc bức thư, nó không rời khỏi đầu tôi. Cha tôi nói, ông “có tội với Đảng… thiếu ý thức tổ chức, do đó phạm những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho Đảng”. Những sai lầm nghiêm trọng nào? Ông nhận tội gì kia chứ? Ông nhận ông thiếu ý thức tổ chức, nhưng ý thức tổ chức là cái gì khi chính cái tổ chức không còn là tổ chức của ông?

Thời gian cuối trước khi hai cha con bị bắt, do thường xuyên công tác xa nhà, tôi ít có dịp gần cha tôi. Qua những buổi tâm sự rời rạc tôi hiểu cha tôi cuối cùng đã giác ngộ được điều mà người ngoài Đảng đã biết từ lâu: Đảng không còn là Đảng trước kia nữa.

Tôi không tin ông chống Đảng theo quan niệm thông thường. Do tính cố chấp nhà nho, lòng ông bất nhẫn khi phải chống lại tổ chức mà trước kia ông từng là thành viên. Ông không bằng lòng nó, ông giận nó, ông muốn cải tổ nó, ông muốn nhiều thứ, trừ việc xoá bỏ nó.

Hay ông bị người khác lôi cuốn vào những việc làm chống Đảng mà chính ông không biết? Có thể người ta lợi dụng ông, người ta cần đến những nhà cách mạng lão thành như cần một ngọn cờ?

Chuyện đó cũng không thể có. Ông không đến nỗi ngây thơ để bị lợi dụng. Ông cũng chưa lú lẫn. Trong ông niềm tin ở Đảng chưa tắt. Ông vẫn hy vọng Đảng sẽ thay đổi. Không thể nào một Đảng đã kiên cường đấu tranh cho độc lập dân tộc như thế lại không hiểu được rằng nền độc lập sẽ không thể là độc lập, khi lệ thuộc ngoại bang, rằng tự do không thể là tự do, nếu không có tự do tư tưởng.

Vậy thì mâu thuẫn gây ra cuộc trấn áp tàn bạo chỉ nằm trong sự không đồng nhất của những quan điểm về chủ nghĩa cộng sản chăng?

Khi Lê Đức Thọ xưng “Đảng là tao!”, khi Lê Duẩn tuyên bố “Kẻ nào không theo ta, kẻ đó chống ta”, thì bất cứ ai nghĩ khác họ trong bất cứ lĩnh vực nào cũng là kẻ chống Đảng.

Và kẻ chống Đảng phải bị trấn áp.

Nhờ ảnh hưởng văn hóa phương Tây, ảnh hưởng tinh thần tự do của Đại Cách mạng Pháp 1789, cha tôi không sùng bái cá nhân. Tuy nhiều năm làm việc với ông Hồ, cha tôi chỉ kính trọng ông như kính trọng một nhà cách mạng lão thành, một nhà lãnh đạo tài ba, nhưng không bao giờ mù quáng sùng phục ông Hồ. Với cha tôi, không có thánh nhân trong các đồng chí. Mỗi người cộng sản lãnh một chức trách để thực hiện mục đích của cách mạng. Vị trí anh ta ở đó, giá trị anh ta cũng ở đó. Ông khinh bỉ thói luồn cúi.

Cũng không phải ông Hồ Chí Minh khó chịu với cha tôi mà sai Lê Đức Thọ bắt ông. Giữa hai người quả đã có những mâu thuẫn về quan điểm đối với vấn đề ruộng đất, trong thái độ đối xử với trí thức, với những nhà tư sản và địa chủ yêu nước. Nhưng mâu thuẫn ấy chưa bao giờ đi tới mức hận thù nhau. Lê Đức Thọ, và cả Lê Duẩn nữa, chắc phải xúc xiểm nhiều lắm, bịa đặt nhiều lắm mới làm cho ông Hồ bằng lòng bỏ tù một loạt cán bộ có công với cách mạng. Ông Hồ mà không bằng lòng thì Duẩn-Thọ không thể làm một việc có thể ảnh hưởng tới uy tín của Đảng đến như thế.

Cha tôi, theo tôi nhận xét, là người công bằng và độc lập trong cách nhìn nhận sự việc. Căn cứ những gì ông biết trong thời gian làm việc bên cạnh ông Hồ Chí Minh, mặc dầu có nhiều tình cảm với ông Hồ Chí Minh, ông vẫn khẳng định người chịu trách nhiệm chính trong Cải cách ruộng đất là ông Hồ, chứ không phải Trường Chinh, như đã có sự ngộ nhận kéo dài nhiều năm. Bởi vì ông Hồ trong giai đoạn ấy là người nắm toàn quyền lãnh đạo, với tư cách chủ tịch Đảng và chủ tịch nước. Không một ai trong ban lãnh đạo Đảng có cái quyền to lớn ấy. Trường Chinh là con dê tế thần cho sai lầm của ông Hồ. Tuy nhiên, Trường Chinh cũng không phải vô can. Không phải là người khởi xướng và quyết định, nhưng Trường Chinh là người rất hăng hái tiến hành cải cách ruộng đất để dùng nó mà củng cố uy tín cá nhân, với tư cách người kế vị hiển nhiên của “Cha già dân tộc”.

Vụ cải cách ruộng đất không đơn giản như nhiều người nghĩ. Nó là tội ác. Điều đó không cần phải bàn cãi. Tội ác là cái nằm ở hậu quả sau cùng của sự việc, nó là tên gọi của kết luận. Ông Hồ Chí Minh là người chịu trách nhiệm chính, lớn nhất, nặng nhất trong việc khởi đầu tội ác đó. Nhưng, công bằng mà nói, lại chính ông Hồ là người trần trừ nhiều nhất đối với việc làm hay không làm cải cách ruộng đất. Trong thâm tâm ông không muốn tiến hành Cải cách ruộng đất giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bước vào giai đoạn quyết liệt. Ông không muốn chính quyền cách mạng yếu đi, trong lúc trước mặt là kẻ thù xâm lược vẫn còn đủ mạnh để kéo dài cuộc chiến tranh không thể biết chắc chắn bao giờ sẽ chấm dứt. Ông đã buộc phải nghe theo lời khuyên của Mao, hay gọi là chỉ thị của Mao thì cũng thế, và dường như của cả Stalin nữa, khi họ thấy sau vụ Đảng cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán (vờ) vào cuối năm 1946, một Hồ Chí Minh không giống như những người cộng sản staliniste khác, đã tỏ ra không tin tưởng ông.

Trong quyết định cho Quốc hội ra Sắc lệnh cải cách ruộng đất năm 1953 khía cạnh tâm lý có tầm quan trọng lớn: ông Hồ không muốn bị vu vạ thêm một lần như ông đã từng bị Quốc tế cộng sản vu vạ (hay nhận định đúng?) rằng ông là người quốc gia chủ nghĩa, không có lập trường mác-xít [26].

Như vậy, Cải cách ruộng đất được quyết định trong hoàn cảnh có sự thúc ép mạnh mẽ từ bên ngoài là có thực[27]. Nó bắt đầu vào những năm 1953-1954, khi tình hình các chiến trường, tình hình trong nước và thế giới trở nên đặc biệt thuận lợi cho cuộc kháng chiến chống Pháp, làm cho ông Hồ có cảm giác chiến thắng cuối cùng đã gần kề.

Những nhân vật kế cận ông Hồ như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan[28], Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt… vốn là những mao-ít nòi. Được dịp để thi thố khả năng, họ vừa thúc bách ông, vừa hùn vào quyết định còn đang lung lay của ông.

Tuy nhiên, đối với ông Hồ Chí Minh họ lúc nào cũng giữ bộ mặt những học trò khiêm tốn. Bên cạnh ngôi sao sáng Hồ Chí Minh, tổng bí thư Trường Chinh không có vai trò lớn như nhiều người lầm tưởng. Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp không bao giờ dám, và cũng không bao giờ được phép tự mình quyết định những chủ trương lớn.

Vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, khi ở vùng tự do Thanh Hóa, Nghệ An thuộc Liên khu 4 cán bộ giảm tô giảm tức kích động nông dân hành hạ dã man những địa chủ, nói cho đúng là những nông dân giàu có, cha tôi tức tốc lên Việt Bắc báo cáo tình hình xảy ra với chủ tịch. Ông Hồ hốt hoảng hạ lệnh đình chỉ tức khắc cuộc giảm tô giảm tức cường đạo và gửi thư xin lỗi đồng bào.

Ông Hồ đã nghe cha tôi vào thời kỳ ấy, nhưng đến Cải cách ruộng đất thì ông không nghe nữa. Lúc ấy ông đã bị các cố vấn Trung Quốc và những lý thuyết gia mao-ít nội hóa thuyết phục hoàn toàn. Vả lại, ông nghe làm sao được khi trên báo Nhân Dân ngày nào cũng tràn ngập tin tức về những thắng lợi rực rỡ của cuộc cách mạng long trời lở đất.

Câu chuyện về Hồ Chí Minh trong thâm tâm chống lại chủ trương Cải cách ruộng đất, bực bội vì nó mở màn bằng việc bắn một người đàn bà, như một số người muốn bào chữa cho ông, theo tôi nghĩ, là chuyện tầm phào. Một lệnh ông Hồ ban ra không chỉ cứu một bà Nguyễn Thị Năm[29], nó còn cứu hàng ngàn người bị giết oan trong Cải cách ruộng đất lẫn Chỉnh đốn tổ chức do Lê Văn Lương song song tiến hành. Ông Hồ đã không cứu bà Năm. Ông không cứu ai cho tới khi những sai lầm tích tụ lại thành cái nhọt bọc. Lúc cái nhọt bọc vỡ ra ông mới tỉnh cơn mê.

Nhưng đã muộn.

Trong những ngày u ám đó, cha tôi được cử làm bí thư Đoàn ủy một đoàn Cải cách ruộng đất. Là người có kinh nghiệm vận động quần chúng, ông thấy ngay rằng Cải cách ruộng đất đang mắc sai lầm. Nó đi chệch mục tiêu “người cày có ruộng”, theo ông nghĩ, biến thành một cuộc tàn sát chỉ để tàn sát, một dịch cuồng amok[30] của châu Á. Trong cuộc đời cách mạng của ông, ông đi nhiều, tiếp xúc nhiều, ông hiểu đất nước ông, ông hiểu đồng bào ông. Ông không tin kết luận của các thầy Tàu nói phàm nông dân giàu có đều là địa chủ chống cách mạng, chống kháng chiến. Ông tin ở lòng yêu nước của đồng bào. Chính những nông dân giàu có, những địa chủ nhỏ, theo ông, là những người sớm giác ngộ cách mạng do ý thức được tự giải phóng khỏi thân phận nô lệ hơn lớp bần cố nông do quá nghèo đói và mù chữ không có điều kiện tiếp xúc với trí tuệ cách mạng. Những nông dân giàu đã có công lớn trong việc cnuôi cán bộ, bộ đội trong những ngày đầu kháng chiến, khi chính quyền cách mạng còn trứng nước. Không phải sự nghèo khổ làm cho người ta có ý thức cách mạng. Trong chuyện này người ta quên hẳn lời những nhà kinh điển của chủ nghĩa Marx “ý thức cao nhất của công nhân chỉ là ý thức công đoàn”.

Cải cách ruộng đất ở Việt Nam và hình mẫu của nó là cải cách thổ địa ở Trung Quốc có một đặc điểm chung: những người cộng sản hoàn toàn không nghĩ tới việc giải quyết vấn đề ruộng đất cho dân cày. Khẩu hiệu người cày có ruộng về thực chất là một khẩu hiệu suông. Đây là chuyện có thể kiểm chứng: trước khi tiến hành cải cách ruộng đất thậm chí người ta không hề làm một cuộc điều tra khoa học nào về tình hình ruộng đất, nhất là về sự phân bố ruộng đất, ở trong nước. Chỉ có những báo cáo ước chừng, hoàn toàn không có cơ sở khoa học, dùng để tuyên truyền. Hồ Chí Minh, chủ tịch nước kiêm chủ tịch Đảng, và Trường Chinh, tổng bí thư – hai nhân vật chính của cuộc cải cách ruộng đất long trời lở đất – muốn xua quần chúng vào một cuộc chém giết mà mục đích thực của nó là thay thế hàng loạt cán bộ đã làm ra Cách mạng Tháng Tám bằng một lớp cán bộ hoàn toàn mới, rất mực trung thành với Đảng, hay ban lãnh đạo Đảng, vì lòng biết ơn đối với các vị đã cho mình được đổi đời. Trường Chinh và bộ sậu không mong muốn gì hơn thế.

Sự tráo trở được dựng thành lý thuyết: những nhà giàu mà những người cầm đầu cuộc cách mạng gọi bằng các nhà hằng tâm hằng sản khi cần đến sự giúp đỡ của họ chỉ là đồng minh giai đoạn của Đảng, gọi theo đúng chữ dùng trong các tài liệu học tập cho cán bộ, không giấu giếm. Giờ đây, khi cách mạng đã qua cái giai đoạn cần họ, thì họ bị lập tức coi như kẻ thù. Ăn cháo đá bát, không có định nghĩa nào đúng hơn cho Đảng cộng sản trong thời kỳ đã có chính quyền vững mạnh và bộ máy đàn áp hữu hiệu trong tay.

Lại một lần nữa, cha tôi bỏ việc về Hà Nội gặp ông Hồ Chí Minh. Đang trong cơn đau gan nặng, ông chống gậy lên Chủ tịch phủ. Ông nói lớn với ông Hồ: “Máu đồng bào, đồng chí đã đổ mà Bác còn ngồi yên được à? Chúng ta tuy không có học, chúng ta dốt, chúng ta phải vừa làm vừa học xây dựng chính quyền, vì dốt nát chúng ta mắc mọi sai lầm, nhưng chúng ta không có quyền để tay chúng ta nhuốm máu đồng bào, đồng chí!”[31].

Sau sai lầm Cải cách ruộng đất, ông Hồ và những người phụ tá luôn bị ám ảnh rằng mọi người đều lên án họ. Do đó ai nói đụng tới Cải cách ruộng đất cũng đều làm cho họ khó chịu. Trường Chinh ngay trong Cải cách ruộng đất đã phàn nàn rằng cha tôi giờ bất mãn với Đảng, trở thành cái loa cho bọn tư sản, địa chủ.

Mà cha tôi bất mãn thật. Ông bất mãn về nhiều việc làm của Đảng mà ông cho là không quân tử, không đạo đức. Ông bất mãn vì nhìn thấy cuộc cách mạng mà ông tham gia cuối cùng đã dựng nên một xã hội không tử tế.

Ông không bằng lòng cách Đảng giải quyết vụ Nhân văn – Giai phẩm, trấn áp và hạ nhục nhiều trí thức và văn nghệ sĩ, là những người có tâm huyết với đất nước. Ông buồn rầu nói với các bạn: “đối xử với nhân sĩ, trí thức như thế không phản động họ cũng thành phản động”.

Cha tôi thương Nguyễn Hữu Đang, đồng chí của ông từ thời kỳ hoạt động bí mật. Khi ở Liên Xô về, tôi hỏi ông về vụ Nhân văn – Giai phẩm thì cha tôi nói: “Đó là một vụ bày đặt. Nguyễn Hữu Đang đâu có ý định chống Đảng. Anh ta chỉ muốn cách mạng tốt hơn. Vu oan giá họa cho người ta là không quân tử”. Ông Đặng Kim Giang có mặt hôm đó nói: “Đang cũng có khuyết điểm, lúc Đảng gặp khó khăn làm tình hình đã rối rắm rồi lại càng rối rắm thêm, thì không nên. Nhưng cách Đảng giải quyết vụ này cũng rất tồi”. Ông kính trọng sĩ khí của cụ Phan Khôi[32]: “Đó là một nhà nho đúng nghĩa nhà nho, không biết cúi đầu. Có thể tranh luận với ông ấy, nhưng dùng lối bịt miệng, vu cáo người ta thì hèn quá!”.

Vào thời kỳ ấy, cả cha tôi, cả ông Đặng Kim Giang, và nói chung những người cộng sản thuộc thế hệ già, chưa thoát khỏi cách suy nghĩ bị trói trong khuôn phép của cái gọi là ý thức tổ chức. Họ không đồng tình với Đảng đấy, nhưng họ chỉ biết than thở với nhau. Nếu thấy hậu quả việc làm của Đảng không đến nỗi quá tai hại, quá nghiêm trọng, theo như họ nghĩ, thì họ buồn rầu cho qua, tôn trọng quyết định của lãnh đạo.

Những chính sách của Đảng sau khi Lê Duẩn lên ngôi làm cho cha tôi không bằng lòng ngày một nhiều thêm. Mỗi ngày ông xa Đảng thêm một chút.

Cha tôi bất bình với việc Đảng đẩy dần nhân sĩ trí thức ra ngoài bộ máy Nhà nước để thay vào đó những đảng viên bất tài, kém học. Ông cảm thấy ông có lỗi với những người trước kia ông vật nài, lôi kéo họ tham gia chính phủ lâm thời năm 1945-1946, như các ông Nguyễn Văn Tố, Bùi Bằng Đoàn, Phan Kế Toại, Hoàng Minh Giám, Đặng Phúc Thông, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Văn Huyên, Hồ Đắc Di, Trần Đăng Khoa, Vũ Đình Tụng, Trần Duy Hưng[33]… Chế độ đảng trị càng vững chắc thì quyền dân chủ của nhân dân càng mỏng manh, càng bị cắt xén.

Cha tôi cũng không đồng tình với đường lối của Lê Duẩn lấy chiến tranh làm phương sách duy nhất để thống nhất đất nước. Ông cho rằng từ giữa thập niên 50 tình hình thế giới đã có những tiền đề thuận lợi cho việc giải quyết các cuộc tranh chấp quốc tế cũng như trong một quốc gia mà không cần tới bạo lực. Cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt giữa hai miền Nam Bắc đem đến đau khổ cho mọi nhà. Cần phải tích cực tìm kiếm giải pháp hòa bình, chứ không loại trừ nó ngay từ đầu. Không tìm là sai lầm. Tìm mà không được là chuyện khác.

Nhân chuyện thống nhất đất nước, tôi xin nói tới một mẩu lịch sử ít người biết. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ông Ngô Đình Diệm[34] bị bắt. Tại Hà Nội, ông Diệm bị giam không phải ở Hỏa Lò mà ngay trong Bắc Bộ phủ. Theo ông Chu Đình Xương, nguyên giám đốc Sở Liêm phóng Hà Nội, thì Ngô Đình Diệm bị giam tại Bắc Bộ phủ là do ông Hồ Chí Minh quyết định. Tại sao ông Hồ lại có quyết định đó thì ông Chu Đình Xương không hiểu. Rất có thể do những dây mơ rễ má nào đó giữa gia đình ông Hồ (đặc biệt là gia đình Hồ Sĩ Tạo[35]) với các quan lại triều Nguyễn trong quá khứ mà ông Hồ Chí Minh lo cho số phận của Ngô Đình Diệm, không muốn để mặc tính mạng con người nổi tiếng chống Cộng này nằm trong tay những đồng chí nóng tính.

Cha tôi là người giữ chìa khóa phòng giam. Đến bữa, cảnh vệ lên lấy chìa khóa, cho Ngô Đình Diệm ăn xong thì nộp lại. Một hôm, ông Hồ bảo cha tôi: “Anh Huỳnh ạ, tôi tính nên thả ông Diệm. Mình làm ân cho người ta tốt hơn là làm oán”. Cha tôi bàn với ông Lê Giản[36]. Hai ông cho rằng để ngăn ngừa những hành động chống cách mạng của ông Diệm cách tốt nhất là để cho ông ta được hưởng chế độ câu lưu tại Việt Bắc. Ông ta sẽ sống như dân thường, chỉ bị hạn chế tự do đi lại mà thôi.

Ông Hồ Chí Minh bỏ ngoài tai ý kiến phản bác, ông đã định thả là ông thả: “Các anh không ở Huế không biết, chớ dân Huế có câu “Đầy vua không Khả, đào mả không Bài[37]“ là nói về cụ thân sinh ông Diệm đấy. Vị người cha thả người con là việc nên làm lắm chứ. Các anh không nên hẹp hòi!”

Nhiều người nhận xét, khi ở cương vị tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ông Ngô Đình Diệm không bao giờ có những lời khiếm nhã đối với chủ tịch Hồ Chí Minh. Một trong những nguyên nhân, theo tôi nghĩ, có thể là do ông Diệm không quên ơn ông Hồ đã tha mạng mình, là điều không phải khó hiểu. Có người còn nói tới quan hệ giữa hai gia đình họ Hồ[38] và họ Ngô trong triều đình nhà Nguyễn cũng là một nguyên nhân dẫn tới cách đối xử của ông Hồ trong việc thả ông Diệm, nhưng việc này tôi không rõ có thật không.

Cho tới khi “cuộc đấu tranh giữa hai đường lối” nổ ra ráo riết thì Hồ Chí Minh rơi vào tình trạng khó xử. Trước hết là do ông không hiểu nó ra làm sao, thực sự nó thế nào. Ông lại là người không mấy quyết đoán trong việc giải quyết những mâu thuẫn nội bộ. Ông thích cái sự ăn ở hòa thuận, có gì không nên không phải thì đóng cửa bảo nhau, cùng nhau bàn bạc tìm cách giải quyết, không nên chửi bới, lại càng không nên thượng cẳng chân hạ cẳng tay. Chính ông, chứ không phải ai khác trong những nhà lãnh đạo, đã viết như sau: “Nghe người ta nói đấu tranh giai cấp mình cũng ra khẩu hiệu đấu tranh giai cấp mà không xét hoàn cảnh nước mình thế nào để làm cho đúng[39]“. Có lẽ đó là do ông ngán cái cảnh đấu tranh giai cấp mà ông được thấy tận mắt ở nước Nga xô-viết sau khi Lênin qua đời.

Những người thường gặp ông Hồ Chí Minh kể lại rằng, nhìn tình hình loạn lạc bên nước láng giềng, ông tỏ ra rất lo lắng, ông không muốn Việt Nam bị cuốn vào cuộc đấu tranh lý thuyết đã vô bổ mà còn có thể gây ra cảnh nồi da nấu thịt.

– Ông Cụ phiền muộn vì cái vụ Liên Xô Trung Quốc chửi nhau này lắm – thiếu tướng Lê Liêm kể cho tôi sau một lần gặp ông Hồ – Ông Cụ nói với tôi: “Thế này thì phe xã hội chủ nghĩa còn mặt mũi nào nữa trước các nước nhược tiểu. Người ta trông cậy ở mình, mà trong nhà mình còn lục đục như rứa, nói ai người ta nghe… ”

Khi thấy đa số thành viên ban lãnh đạo Đảng ngả theo Bắc Kinh, ông Hồ còn buồn hơn. Ông hiểu Mao Trạch Đông hơn hẳn họ, hiểu tham vọng bá, tính cách bá của ông ta. Với đường lối “tọa sơn quan hổ đấu” (ngồi trên núi xem hổ đánh nhau) đã nhiều năm Mao xúi Liên Xô đụng đầu với Mỹ, nay ông ta lại khuyến khích Việt Nam xông trận. Mao sẵn sàng hy sinh đến người Việt Nam cuối cùng trong cuộc đấu tranh chống “con hổ giấy[40]”, là điều Hồ Chí Minh hiểu hơn ai hết.

Tôi được đọc nhiều lời buộc tội Hồ Chí Minh chia cắt đất nước. Tôi nghĩ điều này không đúng với thực tế. Khi phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đi dự hội nghị Genève về Đông Dương, vấn đề chia đôi Việt Nam không có trong hành trang của nó. Ông Hồ Chí Minh, hay bất cứ ai trong ban lãnh đạo Đảng cộng sản lúc bấy giờ, không hề nghĩ tới khả năng đó. Sự chia cắt, như một giải pháp hòa bình cho Đông Dương, được quyết định bởi các cường quốc, trước hết là Trung Quốc, rồi đến Liên Xô và Mỹ. Trước những sức ép quá mạnh, Hồ Chí Minh đành chịu. Dù sao mặc lòng đã đến lúc phải chấm dứt cuộc chiến tranh đã kéo quá dài.

Đó là nhận định của cha tôi, người gần gụi ông Hồ Chí Minh trong giai đoạn lịch sử đó.

Cũng theo cha tôi, sau hiệp định Genève[41], ông Hồ trong thâm tâm không nghĩ tới, không chủ trương dùng bạo lực để thống nhất đất nước. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ với sự nối liền nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà với cả phe xã hội chủ nghĩa hùng hậu thì mọi việc đều dễ dàng. Trong niềm lạc quan ấy, ông thật sự tin rằng sau hai năm đất nước bị chia cắt tạm thời sẽ có tổng tuyển cử và thắng lợi chắc chắn sẽ đến với những người cộng sản. Ông có nói tới những khó khăn trong sự tiên đoán về việc người Mỹ sẽ thay chân người Pháp ở miền Nam, nhưng trong niềm tin ở sức mạnh của Liên Xô, đó chỉ là lời nói có tính cách dự phòng, để không bị những tình huống bất ngờ, ngoài dự kiến, làm cho chới với.

Cha tôi cho rằng trong cách nhìn nhận một con người, điều quan trọng hơn cả là phải giữ được lẽ công bằng. Sau vụ bắt bớ, giam cầm những người cộng sản bất đồng chính kiến, nhiều người buộc tội ông Hồ Chí Minh, thậm chí gán cho ông những tính chất mà ông không có, như tính hiếu chiến, hiếu sát. Cha tôi giận ông Hồ, nhưng ông không đồng tình với lời buộc tội đó. Những ngày ở trong rừng Việt Bắc, cha tôi kể, mỗi khi sắp mở một chiến dịch ông Hồ trở nên bẳn gắt và hút thuốc lá luôn miệng, có khi thức trắng đêm. Hồ Chí Minh hiểu hơn ai rằng gắn liền với mỗi thắng lợi trên chiến trường là máu chiến sĩ, đồng bào phải đổ ra. Có lẽ trong những người cộng sản thế hệ nắm quyền đầu tiên, Hồ Chí Minh là người ít thích thú chiến tranh nhất.

Lê Duẩn thuộc loại người khác hẳn. Ông ta lớn lên nhờ chiến tranh. Ông ta có được địa vị nhờ chiến tranh. Không có chiến tranh Lê Duẩn không còn là Lê Duẩn. Lê Duẩn chẳng ngần ngại chê bai Hồ Chí Minh không dám chủ trương dùng bạo lực giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. “Bác còn do dự, chớ khi rời miền Nam tui đã chuẩn bị hết cả rồi. Với tui chỉ có uýnh thôi, uýnh cho tới thắng lợi cuối cùng”.

Chính Lê Duẩn là người chủ trương mời quân đội Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam để trấn giữ hộ miền Bắc trong khi toàn bộ quân đội miền Bắc được đưa vào chiến trường miền Nam. Chuyện này người ta cố ý lờ đi mỗi khi nói tới Lê Duẩn. Nhưng nếu không phải Lê Duẩn thì là ai có thể quyết định một việc trọng đại như thế. Cha tôi cho rằng việc ban lãnh đạo Đảng mời Giải phóng quân Trung Quốc vào Việt Nam là sai lầm vô cùng nguy hại. Sai lầm đó đã cho thấy hậu quả của nó trong vụ Trung Quốc xua quân vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam năm 1979 để “cho Việt Nam một bài học”, như Đặng Tiểu Bình tuyên bố. Nếu lúc đó không có mâu thuẫn giữa Trung Quốc và Liên Xô thì không biết quân Trung Quốc còn đi tới đâu trên đất nước ta.

Trong công tác phóng viên tôi đã đến Khu tự trị Việt Bắc và khu mỏ Hồng Quảng nhiều lần. Trở về tôi kể lại cho cha tôi những gì tôi thấy. Nghe chuyện dân vùng núi Việt Bắc không được phép kiếm củi trong những khu rừng quê hương, nay đã trở thành khu vực đóng quân của Trung Quốc, những người thợ mỏ muốn đi tắt qua phần đất đã được giao cho Trung Quốc bị bộ đội Trung Quốc xua đuổi[42], ông rơm rớm nước mắt.

Ông lo lắng trước tình hình nước nhà bị lệ thuộc. Ông tự đi thuyết phục các nhà lãnh đạo, họ đều là các đồng chí cũ của ông trong thời kỳ bí mật, kêu gọi họ cảnh giác trước chủ nghĩa bành trướng và bá quyền của nước láng giềng đã từng đô hộ Việt Nam[43]. Họ nghe ông với nụ cười mơ hồ, trịch thượng. Việc nước đã có họ lo, không cần đến ông.

Ông rất bất bình về việc Nguyễn Chí Thanh, người nắm thực quyền trong quân đội hồi ấy, đã đặt Cục đồ bản của Trung Quốc in bản đồ 1/1000, là thứ bản đồ dùng cho pháo binh. “Đó là bí mật quốc gia, không một nước nào tự nguyện trao cho nước khác. Sao nó ngu thế! Sao nó bậy thế!”, ông bực bội kêu lên.

Ông còn kêu ca nhiều về những chính sách không được lòng dân, về cách đối xử phân biệt đảng viên với quần chúng ngoài Đảng trong việc giao công tác. Lãnh đạo Đảng không nghe ông. Người ta không thích nghe những lời chỉ trích. Ông đành chia sẻ tâm sự mình với những đồng chí cũ đã về hưu thường đến thăm ông. Ông nghĩ rằng nếu mọi người đồng lòng can ngăn Trung ương trong những việc không nên làm thì Trung ương sẽ nghe theo. Ông tin ông trong sáng trong những ý kiến nhằm bảo vệ cách mạng. Ông không coi việc người cộng sản phát biểu ý kiến về các vấn đề của đất nước là có tội.

Ông cho rằng không những cần có dân chủ trong xã hội, mà ngay cả trong Đảng cũng phải có dân chủ. Việc trao quyền quá lớn cho riêng ban lãnh đạo hàm chứa hiểm hoạ của sự lộng quyền. Đảng viên không phải chỉ có nhiệm vụ, đảng viên phải có quyền hạn, và quyền mà người đảng viên cần có trước hết là quyền phản bác những quyết định của ban lãnh đạo nếu thấy chúng là sai trái. Dùng cái gọi là dân chủ tập trung để bắt buộc mọi người phải tuân thủ vô điều kiện mọi quyết định của Trung ương là một hiện tượng độc tài.

Trong chuyện này cha tôi đã lẫn lộn thời khắc. Năm 1964 không có gì giống với năm 1946. Đất nước, chính quyền, đã không còn là của chung mọi người.

Không! Một người như cha tôi không thể hèn. Phải có một nguyên nhân nào đó khiến ông phải hành động khác với bản chất của mình.

Thì ra ông nói ông “có tội với Đảng” là để nhấn mạnh ông không có tội với cái gì khác trừ ra với Đảng, hay nói cho đúng, với Trung ương Đảng. Ông không có tội với nhân dân, với Tổ quốc. Cần phải giải mã bức thư theo cách đó, tôi nghĩ. Ông nói ông phạm vào những sai lầm nghiêm trọng có phương hại cho Đảng là có ý nói cái hại ấy cũng lại chỉ cho Trung ương Đảng mà thôi. Những người nắm quyền lãnh đạo Đảng bắt ông vì ông có tội với họ.

Cũng có thể bằng những lời thú nhận, ông muốn lừa Lê Đức Thọ, để Thọ đưa ông ra xử. Lúc đó ông sẽ có điều kiện tuyên bố chính kiến, ông sẽ nói với đồng bào những điều ông muốn nói. Than ôi, đó chỉ là hy vọng hão huyền, là ý nghĩ ngây thơ thường có ở người bị cắt đứt với thế giới bên ngoài. Không bao giờ Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cho những người cách mạng được phép nói điều gì khác ngoài sự lặp lại những tín điều do họ ban bố.

Ông hiểu trong vụ án được dựng nên này, Lê Đức Thọ nắm vai trò chính, tính cách Thọ thế nào thì ông đã biết từ nhà tù Sơn La. Thọ đã nhiều lần mưu mô hạ uy tín các đồng chí lão thành cách mạng để tôn mình lên. Việc Thọ xúi giục một số đồng chí hăng hái thái quá buộc ông Trần Huy Liệu, cựu đảng viên Quốc dân đảng, phải lên án Đảng cũ của mình là manh động trong khởi nghĩa Yên Bái là một thí dụ. Ông Trần Huy Liệu đã xử sự như một kẻ sĩ ngoan cường. Ông cao ngạo và thẳng thừng từ chối không đọc một bản báo cáo như thế, ông không chịu đứng trên lập trường kẻ ngoài cuộc lên án những đồng chí của ông đã hy sinh. Kể lại câu chuyện này, ông nói với tôi rằng sự hy sinh của các chiến sĩ Quốc dân đảng trong cuộc khởi nghĩa thất bại có giá trị rất lớn là nó thức tỉnh lòng yêu nước trong nhân dân. Nguyễn Thái Học không phải không đoán trước được kết cục bi thảm của cuộc khởi nghĩa khi ông phát ra câu nói nổi tiếng “Chuyến này không thành công cũng thành nhân”.

Ngoài chuyện tính cách, chắc cha tôi còn có điều nghi ngờ Thọ trong sự liên lạc thậm thụt với công sứ Cousseau[44], mà ông biết trong thời gian ông làm thư ký trong nhà tù Sơn La. Vào những năm này, những cựu tù nhân Sơn La kể lại, Lê Đức Thọ một hồi được Cousseaulấy ra làm tạp dịch tại nhà y. Trong thời gian y làm việc cho Cousseau, một số việc bí mật của ban lãnh đạo tù nhân bị lộ. Tướng Đặng Kim Giang cũng có chung với cha tôi mối nghi ngờ đó. Trong một câu chuyện giữa hai người, tôi nghe tướng Giang nói: “Phải chi Tô Hiệu[45] còn sống, vía nó (chỉ Thọ) cũng không dám như vậy”. Nhưng cả hai im lặng. Với một Lê Đức Thọ quyền sinh quyền sát như thế, giữ im lặng là phải. Mặc dầu cùng tù với nhau ở Sơn La, cha tôi không bao giờ coi Thọ là bạn. Ông Đặng Kim Giang cũng vậy. Dưới con mắt của ông, Lê Đức Thọ là một tên hạ lưu hãnh tiến.

Cha tôi rõ ràng muốn nhắc tôi cảnh giác kẻo sa vào một âm mưu dựng vụ. Ông nhấn mạnh ông chỉ nhận thiếu ý thức tổ chức mà thôi. Về phần tôi, ông khuyên tôi phải thức thời, phải cúi mình xuống mà nhận khuyết điểm. Nhận sai lầm, khuyết điểm chứ không nhận tội, ông muốn nhấn mạnh, khuyên tôi không được cứng nhắc trong bước ngoặt này của cách mạng. Lời lẽ nhún nhường trong bức thư chỉ để pha loãng những ý chính, không cho bọn công an đoán ra những điều cha tôi nhắn nhủ.

Cũng không loại trừ việc Lê Đức Thọ không bẻ gãy được cha tôi trong việc ép buộc cha tôi phải nhận một tội nào đó, mà cái Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cần có để dùng nó triệt hạ những kẻ mà họ coi là đối thủ, đã buộc ông viết thư cho tôi, hòng dùng bức thư áp đảo tôi, hoặc may ra có thể kích thích tôi phản tỉnh mà bằng lòng khai ra một điều gì đó. Nếu tôi chịu khai người ta sẽ dùng chính lời khai của tôi để áp đảo cha tôi, áp đảo tướng Đặng Kim Giang và những anh em khác.

– Anh khỏi lo đi. Việt-Xô[46] đã chuyển bịnh án của ông già anh qua đây. Việc chăm sóc sức khỏe cho ổng vẫn do Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương cáng đáng. Mà ở nước ta thời nơi mô có đủ thuốc bằng Ban bảo vệ sức khỏe Trung ương? Nói chi thời nói chớ ông già anh vẫn là bậc lão thành cách mạng, vẫn có tiêu chuẩn đặc biệt, ổng được săn sóc tới nơi tới chốn. Nói chung, mấy bữa đầu, nói cho đúng, ổng cũng không được khỏe cho lắm, nhưng chừ đã bình thường…

– Tôi có được phép viết thư cho ông cụ tôi không?

– Tui nghĩ được.

– Tôi có được giữ bức thư không?

– Không. Anh đọc xong đưa lại cho tui. Có cần đọc lại lần nữa không? Anh ở một mình thì tui cho anh mang về.

Họ vẫn phải giữ kín vụ án. Tại sao lại như vậy?

– Tôi nhắc lại: anh không được phép kể cho người cùng phòng về vụ các anh. Vụ này thuộc về bí mật của Đảng!

Thì ra cái chỗ tôi đang ở gọi là “phòng”, chứ không phải xà lim.

Tôi cố gắng nhưng không sao hiểu câu nói của Huỳnh Ngự. Bắt người là việc bàn dân thiên hạ đều biết, vậy mà lại là bí mật của Đảng, buồn cười quá!

– Với cán bộ quản giáo cũng không được nói. Anh biết răng là giữ bí mật chớ?

– Tôi biết.

Điếu thuốc lá làm tôi buồn nôn. Mồ hôi lạnh rịn ra trên trán. Anh hương sư hói đầu đã pha xong ấm trà. Về món pha trà anh ta kém hẳn Huỳnh Ngự, loãng toẹt. Tôi uống liền hai chén.

– Các vị cách mạng lâu năm như ông già anh là vậy đó – Huỳnh Ngự phủ dụ – Khi chưa hiểu ra lẽ phải thì bướng bỉnh lắm, ngoan cố lắm, rứa mà được Đảng cảnh tỉnh rồi thì lại có tinh thần tự phê bôn-sê-vích rất đáng khâm phục. Hậu sinh chúng mình còn phải học tập các cụ nhiều. Anh tưởng tụi tui hổng biết trước đây ổng bị Pháp tra khảo ròng rã mấy tuần liền, đánh đập, tra điện, đi tàu bay, tàu ngầm[47] đủ kiểu, mà vẫn không khai hả? Tụi tui biết cả đó! Vậy mà vô đây Đảng hỏi, ông già khai sạch trơn, không hề giấu giếm chút mô…

Cha tôi đã làm gì để phải khai với bọn này sạch trơn? Chúng nó bịa mới ngon lành làm sao! Tôi còn nhớ khi anh Hoàng Minh Chính bị bắt, cha tôi còn nói với ông Lê Giản: “Tại sao chúng nó lại bắt thằng Chính? Nó làm gì mà bắt nó?”. Đáp lại, ông Lê Giản chỉ cười buồn. Lúc ra về ông nói với cha tôi: “Bắt đầu một thời kỳ mới rồi: thời kỳ người ta ngồi xổm lên dư luận và ỉa vào luật pháp. Chúng mình rồi chửa chắc đã được yên”.

Tôi lặng thinh. Trước mắt tôi hiện lên cái buổi sáng đã xa, tôi và mẹ tôi tới đây, vào trong chính nhà ngục này. Hồi ấy tôi còn nhỏ đến nỗi mẹ tôi có thể bế bổng tôi lên mà đút tôi qua ghi-sê nhận quà để cha tôi ôm hôn tôi. Những cái hôn cuống quýt của cha tôi lên trán, lên má tôi, bộ râu cứng của ông làm rát mặt tôi, tôi nhớ tới tận bây giờ.

Cha tôi bị bắt tại ga Hàng Cỏ ngay sau khi đưa Trường Chinh lên Phúc Yên chạy trốn cuộc tổng khủng bố. Đó là thời kỳ Mặt Trận Bình dân bên Pháp đi vào thoái trào. Chính quyền thuộc địa nhân cơ hội liền thẳng tay đàn áp các lực lượng cách mạng vừa mới trồi lên trong những hoạt động công khai. Đó là thời kỳ cam go nhất đối với những người cộng sản. Cha tôi thường xuyên không có mặt ở nhà. Ông chỉ về bất chợt, thoáng lại đi, trong đêm. Trong những giấc mơ tôi nghe tiếng ông thì thào với mẹ tôi.

Về việc cha tôi đưa Trường Chinh đi trốn tôi được biết thêm chi tiết trong câu chuyện hàn huyên giữa cha tôi và ông Xuân Thủy[48] sau khi hòa bình lập lại: “Thằng Thận đoảng vị lắm, mày biết đấy. – cha tôi kể – Nó nhớn nha nhớn nhác, mặt xám ngoét lại, cứ như bị mật thám đuổi sau đít, nằng nặc đòi tao bố trí cho nó ngay một chỗ trốn. Nó nói đi tìm mày không được. Tóm được Hạ Bá Cang ở Phủ Lý, nó bảo Hạ Bá Cang cho nó một chỗ, thằng Cang ừ hữ rồi biến. Thằng Thận thì chỉ chúi mũi vào sách vở, có bao giờ nó công tác quần chúng đâu, đến khi lâm sự mới cuống cà kê lên, sợ vãi ra quần. Nghe nó chửi thằng Cang tao chỉ cười. Chính tao đưa thằng Cang đi trốn chứ ai. Cơ sở thằng Cang có, nhưng vỡ rồi. Còn một cái thì lại không an toàn. Tao chỉ dặn thằng Thận cải dạng cho tốt rồi tao đón, mà nhớ đừng tha sách theo đấy nhá, mật thám đầy đường, tao bảo nó thế. Tao đưa nó lên nhà thằng Vần[49], mày nhớ thằng Vần chứ? Hồi ấy nó có cái trại con con gần thị xã Phúc Yên. Đưa thằng Thận đi xong, tao về đến ga Hà Nội thì bị tóm. Nằm ở Sở Liêm phóng ăn điện, đi tàu bay, tàu ngầm một tháng thì sang Hỏa Lò… Chúng nó chỉ hỏi tao hai câu: “Đặng Xuân Khu đâu? Hạ Bá Cang đâu?”. Mà sau này mày bị ở đâu nhỉ?”.

Tôi thích tình bạn thân thiết của các chiến sĩ cộng sản. Tôi yêu chủ nghĩa cộng sản một phần cũng vì lẽ đó. Trong ngôi nhà chật hẹp của gia đình tôi ở số 27 bis rồi số 65 phố Nhà Rượu, những người đồng chí của cha mẹ tôi đến ăn dầm nằm dề hàng tháng. Họ ngủ la liệt trên sàn gạch hoa, gối đầu trên những chồng báo, trên những cái chổi lúa, ngáy ầm ĩ. Khi tỉnh dậy họ lại tiếp tục tranh luận đến khản tiếng, nhưng không bao giờ cãi nhau. Những người này đến rồi đi, thay chân họ là những người khác, tất cả đều giống nhau ở tính tình cởi mở, thân thiết như ruột thịt. Mẹ tôi sung sướng được hầu hạ họ những bữa cơm ngon lành, tuy không sang trọng nhưng nhộn nhạo tiếng cười.

Và họ mới thương nhau làm sao! Tôi nhớ những ngày thực dân Pháp tổng khủng bố năm 1939. Một đêm tôi thức dậy bởi những tiếng thì thào. Tôi mở mắt thì thấy bác Ba Lâm (Bùi Lâm) đứng ở đầu giường. Tôi nhảy lên, ôm choàng lấy bác. Ông là người được lũ trẻ chúng tôi yêu nhất. Cao lộc ngộc, vụng về, ông không biết gọt khoai róc mía theo kiểu ta, mà chỉ biết làm theo kiểu tây, nghĩa là gọt ngược. Nhưng ông tham gia mọi trò chơi của chúng tôi như một đứa trẻ con lớn, say sưa. Đêm đó ông trở về nhà chỉ để mang tiền cho mẹ tôi trả thợ giặt, sợ mẹ tôi không còn tiền. Mẹ tôi thì lo ông bị bắt, giục giã bắt ông đi ngay…

Giờ đây chắc bà đau đớn lắm nhớ về những ngày xa xưa ấy. Bà đi dạy học, bán hàng thuê cho cửa hiệu tơ lụa Palais de Soie ở phố Tràng Tiền, của ông chủ người Ấn Độ tên là Kevarah. Ông Kevarah là một ông chủ tốt. Ông biết cha tôi bị bắt vì sao, ông đoán cha mẹ tôi là những người cách mạng, cho nên đối với mẹ tôi ông có sự trọng thị đặc biệt. Tuy mẹ tôi chỉ là người làm công, nhưng ông chủ Ấn Độ không bao giờ gò ép giờ giấc để bà có thể làm thêm những việc riêng của bà: “Tôi biết, tôi biết, bà còn bận nhiều việc quan trọng. Bà cứ về sớm đi, không sao cả. Tôi gửi lời chào ông. Chúc bà may mắn!”.

Những đồng tiền dành dụm được bà đưa cho cha tôi và các đồng chí. Khi ông Sao Đỏ Nguyễn Lương Bằng vượt ngục Sơn La về nhà tôi, mẹ tôi tẩm bổ cho ông bằng chim hầm hạt sen, chân giò tần thuốc bắc. Lũ con bà chưa bao giờ được biết đến những thức ăn sang trọng ấy. Tôi nhớ rất lâu món rau muống sống chấm bỗng rượu trong những thức ăn thường nhật trong gia đình tôi hồi ấy. Rau muống ăn sống thường được chẻ nhỏ, nhưng chị Tường, người ở trong nhà chúng tôi, quá bận việc, chị chỉ vặn cọng rau làm đôi làm ba rồi đập vào lòng bàn tay cho dập. Bỗng rượu thì đi xin. Nó chảy ri rỉ suốt ngày từ những lỗ thải ở tường Nhà máy Rượu làm cho cả phố sực mùi chua nồng. Bên lỗ thải bỗng, những chiếc xe bò quây cót chầu chực để nhận phần mua tháng, rồi trở ra ngoại thành bán cho dân nuôi lợn. Chỉ cần chìa cái bát ra là chủ xe đã múc cho, không tiếc rẻ.

Cách mạng thành công, tôi ít gặp lại các bác các chú ngày trước. Những người sau này vẫn còn lai vãng là các ông Trần Huy Liệu, Xuân Thủy, Lê Giản, Bùi Lâm, Khuất Duy Tiến, Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Thiều, Đặng Việt Châu, Đặng Châu Tuệ, Nguyễn Văn Hoan…

– Các bác ấy bận – mẹ tôi giải thích, nhưng dường như bà chẳng mấy tin ở lời mình.

Sau cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi càng ít gặp các bác các chú cách mạng ngày trước hơn nữa. Trong tôn ti trật tự mới, cha tôi ở phẩm trật thấp hơn những người bạn ngày trước và chúng tôi chỉ gặp ảnh họ trên mặt báo, thấy tên của họ trên bìa những cuốn sách chờ được thành kinh điển.

– Anh nghĩ sao về bức thơ của ông già? – Huỳnh Ngự hỏi.

Không nên đầu hàng quá dễ, chúng sinh nghi. Sau một lúc im lặng, tôi hỏi khẽ, giọng mệt mỏi:

– Chúng ta kết thúc buổi làm việc hôm nay ở đây được không?

– Anh mệt hả?

– Không. Lúc này tôi muốn ngồi một mình.

Huỳnh Ngự không hài lòng. Nhưng y chiều tôi.

– Được, cho anh về. – y nói, giọng ái ngại – Suy nghĩ kỹ đi rồi ta làm việc. Tui hy vọng anh đã hiểu ra.

Đưa tôi về, Hách bảo tôi đứng chờ ở khoảnh sân hẹp dẫn vào khu xà lim. Y không vội vã vào phòng trực lấy ra một cái ghế đẩu, ra hiệu cho tôi ngồi xuống. Lấy đồ nghề ra, không cần choàng khăn, y bắt đầu cắt tóc cho tôi.

Sau vụ chụp ảnh, lăn tay, cái sự cắt tóc trong tù làm cho tôi càng thêm tin rằng còn lâu tôi mới ra khỏi nơi này. Hách cắt rất vụng, đúng là tay mơ trong nghề, tông đơ rứt tóc làm tôi đau không chịu được. Râu ria tôi mọc dài, y phải húi chứ không cắt, mũi tông đơ cứ rúc vào nhân trung, hích mạnh vào đầu mũi, làm tôi cứ phải ngật đầu ra đàng sau, có khi phải rướn cả người lên cho y đừng làm mình bị thương. Hách thì lại không biết tôi đau. Y còn phấn khởi huýt sáo miệng nữa chứ. Nếu y dùng kéo mà cắt thì còn tốt hơn. Sau đó sẽ dùng dao cạo, như trong hiệu cắt tóc người ta thường làm. Nhưng y không có ý định cạo mặt cho tôi.

Tôi ngồi đấy, mặc y muốn làm gì với cái đầu tôi thì làm. Nhìn những túm tóc rơi lả tả xuống đất tôi thấy lẫn vào tóc đen đã có nhiều sợi bạc. Như vậy chuyện Ngũ Tử-tư qua một đêm suy nghĩ đến bạc cả mái đầu là chuyện có thật? Mà tôi thì đã bao nhiêu đêm?

Vừa sửa gáy cho tôi Hách vừa thủng thẳng tâm sự:

– Tôi còn chẵn hai năm nữa là hưu, anh ạ. Nhìn lại mới thấy đời người nhanh thật. Trên duyệt cho tôi về rồi.

– Sao? Bác còn trẻ mà.

– Trẻ gì, năm mươi ba rồi.

– Vẫn sớm. Phải bảy năm nữa kia.

– Tôi khác. Ăn nhau ở cái thành tích đóng góp. Tôi hưu không phải hưu đúng năm đúng tháng, cũng chẳng phải hưu non, mà là hưu ương ương, tức là được tính thêm cái thâm niên, cộng với lại thương tật…

– Trước bác ở sư nào?

– Tôi á? Trước ở địa phương quân, sau chuyển sang 320. Anh cũng đã ở bộ đội đấy hử?

– Vâng.

– Mình về hưu rồi cũng phải nghĩ cách kiếm ăn, anh ạ. Lương hưu, anh biết đấy, đủ sao được. Đảng dạy mình phải tự lực cánh sinh, tự lực tự cường, không được ỷ lại vào nhà nước, vào Đảng, là đúng lắm. Tôi tính chán ra rồi, cầm sổ hưu một cái là tôi mở ngay một hiệu cắt tóc, ngay lối vào chợ làng tôi, chỗ ấy thì hết ý. Chỉ sợ từ nay tới đó có thằng nào nó chõm mất chỗ đất ấy thì toi…

– Hai năm nữa còn lâu.

– Tôi đã dạm rồi. Đảng ủy, Uỷ ban nhất trí cả. Nhất định họ dành cho tôi. Được cái bí thư lại là ông em họ…

– Thế thì tốt quá.

– Tôi cắt tóc cho anh thế này là để tập thôi, cho nó lên tay, chứ cắt tóc cho phạm không phải việc tôi, đã có người khác…

Thì ra vị lãnh chúa của khu xà lim này từng là một đồng chí của tôi trong quân ngũ. Anh ta đang làm nốt những ngày cách mạng cuối cùng để trở về với cuộc sống dân thường, mà hy vọng lớn nhất là có được một cửa hiệu cắt tóc đông khách.

Lẽ ra tôi cũng nên như anh ta – sống cuộc sống bình dị của người dân thường với một ước mơ nho nhỏ.


[1] Một từ chung mà cán bộ ngành Công an dùng để chỉ bất cứ người nào bị bắt, còn trong thời kỳ giam cứu (điều tra) hay đã có án.

[2] Về sau này tôi mới được nhà văn Xuân Phượng, lúc ấy là y sĩ của cơ quan Văn hoá đối ngoại, cho biết bên Bộ NộI Vụ đã cho người mang theo y bạ của tôi đến để hỏi chị về tình trạng sức khoẻ của tôi. Tất nhiên, họ không quan tâm đến chuyện săn sóc sức khoẻ cho tôi, mà để tìm hiểu tình trạng tinh thần vật lý của tôi đặng tiện bề khai thác.

[3] Làm mẫu cho học trò học.

[4] Anh ơi anh, tắt đèn đi ngủ!

[5] Chỉ sau khi ra tù tôi mới biết các ủy viên Trung ương Đặng Kim Giang, Lê Liêm, Bùi Công Trừng, Ung Văn Khiêm và các cán bộ Trung ương Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Lưu Động… bị khai trừ cùng một lúc vào tháng 5-1968, có nghĩa là khoảng nửa năm sau khi bị bắt.

[6] Cezare Lombroso (1836-1909), bác sĩ thần kinh, giáo sư pháp y ở Turin (Italia). Cùng với Enricco Ferri (1856-1929), Raffaele Garofalo (1851-1954) sáng lập ra trường phái hình pháp học nhân chủng, chủ trương nguồn gốc tội phạm nằm trong sự cấu thành con người về mặt nhân chủng, nói cách khác, những tên tội phạm sống trong xã hội loài người như một loại hình riêng xét về nhân chủng học.

Emile Durkheim (1858-1917), nhà xã hội học người Pháp, tác giả Le Suicide (Sự Tự Sát) và cùng với Adolf Prins, tác giả La Défense Sociale et Les Transformations du Droit Pénal (Phòng Vệ Xã Hội Và Những Biến Thể Của Luật Hình), được các nhà tội phạm học châu Âu ngưỡng mộ bởi cách lý giải nguồn gốc tội phạm từ những điều kiện xã hội.

[7] Kudriavsev, tác giả cuốn Hình Pháp Học (Kriminologia), được coi như cuốn sách gối đầu giường của công an các nước xã hội chủ nghĩa, giải thích nguồn gốc tội phạm như hậu quả của xã hội có giai cấp, nơi ngự trị những quy luật người bóc lột người. Ở Việt Nam tôi không thấy có bản dịch cuốn này, hoặc nó có ở dạng tài liệu nội bộ mà tôi không biết.

[8] Statssicherheitsdienst, Bộ Mật vụ quốc gia của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức, tồn tại năm 1957 tới năm 1989. Cơ quan này có 85. 000 nhân viên và 500. 000 chỉ điểm viên. Người lãnh đạo Stasi từ năm 1957 là Erich Mielke, bị tống giam năm 1989.

[9] Mật thám, theo cách gọi ở Nam Bộ thời thuộc địa.

[10] Eugène Sue, tên thật là Marie Joseph Sue (1804-1857) tiểu thuyết gia Pháp, sinh tại Paris.

[11] Chủ nghĩa xã hội quốc gia, gọi tắt là Quốc Xã, một trào lưu chính trị khởi đầu từ năm 1920 cùng với sự thành lập Đảng công nhân quốc gia xã hội (Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, hoặc NSDAP), gọi tắt là Nazi.

[12] Hình như bệnh sáo ngữ là nét đặc trưng chung cho các quốc gia cộng sản sau khi chính quyền đã vững chắc. Ở Việt Nam những nhà báo biết dùng nhiều từ kêu oang oang được đánh giá là có tài.

[13] Về sau này, khi nói đến bức thư ấy, cha tôi trách tôi không thức thời. Theo ông, vì tôi không ở trong Đảng, tôi không phải đối tượng cần trấn áp thì không cần phải cứng rắn với bọn Duẩn – Thọ làm gì. Nếu tôi chịu hạ mình một chút thì không bị chúng giam thêm. Hơn nữa, vì sự cứng rắn vô ích, tôi có thể chết trong tù. "Con phải sống để có lúc phải nói lại chuyện này cho đồng bào nghe – cha tôi nói – Một xác chết, cho dù của người anh hùng, cũng chỉ là xác chết".

[14] Cục Quân báo (tình báo quân sự) được thành lập vào năm 1946, đến năm 1995 được nâng lên thành Tổng cục 2. Tổng cục này về mặt danh nghĩa trực thuộc Bộ Quốc phòng, trong thực tế nó trực thuộc Bộ Chính trị và Tổng bí thư Đảng.

[15] Sau này, trong nhóm các nữ sinh trong tổ chức ấy, mẹ tôi chỉ còn gặp lại bà Đỗ Đình Thiện, hoặc chỉ còn hai người vẫn giữ được tình bạn với nhau. Mẹ tôi kể có lần bị mật thám lùng bắt, bà Thiện đã dùng dây thừng tụt từ trên gác cao xuống trốn thoát, nhưng bàn tay mãi mãi vẫn còn mang vết sẹo. Cuộc bãi khoá đầu tiên nổ ra trong học đường để bảo vệ tác giả bài thơ Chiêu Hồn Nước là của nữ sinh trường trung học Brieux.

[16] Phạm Tất Đắc (1910-1935), học sinh trường Bưởi, tham gia truy điệu cụ Phan Chu Trinh rồi viết bài thơ nổi tiếng Chiêu Hồn Nước, được Nhà xuất bản Thanh Niên in, được chép tay để tán phát, nhiều người thuộc lòng bài thơ này. Vì những lý do trên, ông bị chính quyền thuộc địa bắt (1926), mãi tới năm 1930 mới thả ra.

[17] Trong những cuộc gặp gỡ này còn có bạn mẹ tôi, bà Đỗ Đình Thiện. Số tiền lớn nhất mà Đảng có thể chuẩn bị Cách Mạng Tháng Tám là của hai gia đình tư sản Trịnh Văn Bô và Đỗ Đình Thiện đóng góp.

[18] Xuân Thuỷ (1912-1985), nhà cách mạng, từng có chân trong Ban Bí thư trung ương Đảng, bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

[19] Nguyên chủ tịch tỉnh Ninh Bình thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp.

[20] Một cán bộ cách mạng lâu năm, trong thập niên 60 và 70 giữ chức phó thủ tướng.

[21] Mẹ tôi có ý nói tới vụ phản tình báo H 122 xảy ra trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Một điệp viên Việt Minh được cử vào nội thành trở thành người hầu cho viên sĩ quan chỉ huy Phòng Nhì Pháp. Viên sĩ quan phát hiện người hầu của mình là điệp viên của Việt Minh, nhưng anh ta vờ không biết, tạo hoàn cảnh thuận lợi cho điệp viên này đánh cắp một tài liệu tối mật để trong két sắt. Tài liệu giả lập tức được chuyển tới cơ quan đầu não của kháng chiến. Bị mắc lừa Phòng Nhì, cuộc trấn áp những cán bộ “bị địch mua chuộc” bắt đầu. Nhiều cán bộ, nhất là cán bộ quân đội, bị bắt giam, bị thẩm vấn bằng nhục hình. Một số không chịu đựng được đã tự sát. Vụ này do Hoàng Quốc Việt phụ trách.

[22] Từ tiếng Pháp corvée = lao dịch, theo nghĩa khổ sai.

[23] Trang Vương nước Sở (613-591 trước CN) đăng quang, mở tiệc đãi quần thần đã cùng nhà vua nằm gai nếm mật. Tiệc đang vui thì có ngọn gió làm tắt hết đèn nến. Nhân lúc nhá nhem, một viên quan đã xàm xỡ sờ vú hoàng hậu. Hoàng hậu giật được cái giải mũ đem mách vua. Nhà vua truyền cho các quan giật đứt hết giải mũ rồi mới được tiếp tục cuộc vui, thành thử sau đó không biết ai là người đã làm chuyện quấy nữa. Trang Vương về sau có một tôi trung, những lúc khó khăn gian khổ bao giờ cũng ở cạnh bên ông, chính là tên tiểu quan phạm tội (truyện lịch sử Trung Quốc).

[24] Chín năm sau, hai cha con gặp nhau tôi mới biết chính Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn đã vào tận xà lim cha tôi dụ hàng. Lúc đó cha tôi đang tuyệt thực. Thọ sợ cha tôi sẽ tuyệt thực đến chết trong khi âm mưu dựng vụ chưa xong sẽ gây ra dư luận xấu trong Đảng và ngoài xã hội. Y hứa danh dự sẽ không bắt tôi, nếu cha tôi chịu ngừng tuyệt thực ấy. Nhưng sau đó Thọ đã nuốt lời hứa.

[25] Trong thời gian xảy ra vụ Nhóm xét lại chống Đảng, con cái những người bị giam giữ trong vụ này không được thi vào đại học, thảng hoặc có trường hợp được thi thì chỉ được vào các trường kém vế như đại học nông lâm, đại học thư viện… Cho mãi tới năm 1981 con gái đầu của tôi tốt nghiệp đại học ngoại ngữ với điểm cao, đủ tiêu chuẩn được đi nước ngoài thực tập, nhưng không được đi vì "cha có tiền sự".

[26] Trong một bản hồi ký của Hoàng Tùng được lưu hành không chính thức có viết: “Bác có đi dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản nhưng không được bầu vào Ban chấp hành. Lần này sang, do cách hoạt động của mình, Bác bị Liên Xô nghi ngờ là chưa đủ tiêu chuẩn cộng sản. Sang Liên Xô Bác không được giao việc gì cả, không có chức vụ chính thức trong tổ chức quốc tế. Bác xin về, họ không cho tiền. Sau Bác phải xin tiền bạn bè để về. Bác về Xiêm tìm đến các gia đình người Nghệ như gia đình cụ Đặng Thúc Hứa. Bác hoạt động trong Việt kiều. Sau đó Bác có sang cả Lào để gây dựng cơ sở ở đó. Như thế việc Bác về Xiêm là do Bác chủ động chứ không phải là do Quốc tế phân công”.

[27] Cũng trong hồi ký nói trên Hoàng Tùng viết: “Thuyết của họ là không dựa vào tổ chức cũ mà tổ chức lại một số tổ chức khác của Đảng, họ phủ nhận hết các tổ chức khác như chính quyền, các đoàn thể. Ai lãnh đạo cách mạng tháng tám thành công, ai lãnh đạo cuộc kháng chiến từ năm 1945 đến năm 1953. Thế mà họ thẳng tay bỏ hết, trong đó có mấy ngàn người bị xử tử. Mục đích của họ không phải là cải cách ruộng đất mà là đánh vào Đảng ta. May mà đến năm 1956 ta kịp dừng lại, nếu không thì tan nát hết”. Cuốn hồi ký này có nhiều lời chứng và sự suy luận không đáng tin cậy, theo tôi.

[28] Hoàng Văn Hoan (1905-1994) Nhà hoạt động chính trị, nhân vật nổi tiếng trong Đảng cộng sản Việt Nam. Năm 1928, ông cùng với Hồ Chí Minh lập ra Đảng cộng sản Thái Lan, đảng viên chủ yếu là người Tàu và người Việt. Cùng nhau ra tờ Tiếng Chuông ở tỉnh Nakhuphanom. Ở Đại hội III ĐCSVN ông được bầu vào Bộ Chính trị, nhưng từ năm năm 1970, ông không được Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cho dự các cuộc họp của Bộ Chính trị, trên thực tế là bị loại khỏi cơ quan quyền lực tối cao của Đảng. Nhân một chuyến đi Đức chữa bệnh, ông bỏ trốn sang Trung Quốc từ Karachi (Pakistan). Chính quyền Việt Nam đã tuyên án xử tử vắng mặt đối với ông. Chết tại Bắc Kinh, ông được chôn cất tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn, nơi dành cho chức sắc cao cấp của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Mặc dầu khác nhau về quan điểm trong phong trào cộng sản quốc tế, cha tôi rất quý mến và kính trọng ông, với tư cách một đồng chí trung kiên, chí công vô tư, không màng tới bất cứ đặc quyền đặc lợi nào. Con cả của ông Hoàng Văn Hoan, anh Hoàng Nhật Tân, tuy không cùng quan điểm với cha, vẫn bị buộc tội có quan điểm xét lại. Trường Chinh nói với Hoàng Văn Hoan: "Coi chừng, quý công tử ảnh hưởng xét lại nặng lắm đấy!", và buộc anh Hoàng Nhật Tân phải đi lao động thực tế tại Thái Nguyên. Hoàng Nhật Tân may mắn không bị bắt trong vụ "nhóm xét lại chống Đảng".

[29] Hoàng Tùng, nguyên bí thư Trung ương Đảng, nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, viết trong hồi ký: “Nguyễn Thị Năm tức là Cát Hanh Long có một người con làm trung đoàn trưởng ở cục chính trị của Văn Tiến Dũng. Gia đình bà trong dịp Tuần lễ Vàng có hiến 100 lượng vàng. Bà còn tham gia công tác của Hội phụ nữ từ năm 1945 đến 1953. Tôi chưa đến đó lần nào, các anh Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ thường hay ăn cơm ở nhà bà. Gia đình Nguyễn Thị Năm cũng giống như các gia đình Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô giúp đỡ nhiều cho cách mạng. Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ chính trị Bác nói: " Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa". Lời của Hồ Chí Minh mà Hoàng Tùng dẫn khó có thể tin được, vì một lẽ đơn giản, các cố vấn Trung Quốc không có quyền quyết định xử tử một người cụ thể nào, quyền đó thuộc hai nhà lãnh đạo tối cao trong giai đoạn đó là Hồ Chí Minh và Trường Chinh.

[30] Những cơn cuồng giết chóc không kiềm chế nổi bất thần xâm chiếm cả một bộ lạc, một vùng ở châu Á, khi những con người như bị mụ mẫm đi khi lao vào cuộc chiến hỗn độn, giết nhau không vì cái gì.

[31] Ông Nguyễn Văn Hoan, phó chánh án Tòa Tối cao, kể cho tôi nghe chuyện này. Ông đang báo cáo với chủ tịch nước về tình hình công tác tư pháp thì cha tôi chống ba-toong bước vào (ông đang lên cơn đau gan). Thấy cha tôi quá bực mà to tiếng, ông Hồ bảo: "Ngồi xuống đã, từ từ nói tôi nghe, chi mà nóng như lửa vậy". Ông Hoan kết luận: "Ngày xưa triều đình phong kiến còn có chức gián quan chuyên một việc can vua. Bây giờ đâu có thế, người ta không trị bố cháu trước cũng trị sau". Ông Hoan vào Đảng cộng sản do chính ông Hồ giới thiệu. Trường Chinh vào Đảng cộng sản Đông Dương do ông Nguyễn Văn Hoan giới thiệu.

[32] Phan Khôi (1887-1959) học giả, nhà báo, nhà ngôn ngữ, bị đánh trong vụ Nhân văn – Giai phẩm, đặc biệt với truyện ngắn Ông Năm Chuột. Tên tuổi cho tới giờ, sau việc “xem lại” cho các văn nghệ sĩ bị trừng trị trong vụ "Nhân văn – Giai phẩm" vẫn không được nhắc đến. Cùng bị đánh một lượt với ông, với sự luận tội tương tự, còn có nhà phê bình Trương Tửu.

[33] Những bộ trưởng và nhân sĩ tham gia bộ máy chính quyền hồi đó. Về việc cha tôi đi mời các vị nói trên tham gia chính phủ như thế nào đã được nhà văn Sơn Tùng ghi lại đầy đủ trong một tác phẩm sẽ xuất bản về những ngày trứng nước của chính quyền cách mạng.

[34] Ngô Đình Diệm (1901-1963), sinh trưởng trong một gia đình quan lại, dưới triều Bảo Đại làm tới chức thượng thư. Bị Việt Minh bắt, được thả, Ngô Đình Diệm chạy ra nước ngoài (Mỹ, Pháp), sau năm 1954 trở về Việt Nam làm thủ tướng của chính quyền Bảo Đại. Năm 1955 Ngô Đình diệm lật Bảo Đại, tuyên bố miền Nam Việt Nam là nước cộng hòa và lên làm tổng thống. Năm 1963 bị phái quân nhân làm đảo chính giết chết.

[35] Hồ Sĩ Tạo (1869-1934), cử nhân làm việc trong triều đình Huế, dòng dõi Hồ Quý Ly. Theo một số nguồn tin thì Hồ Sĩ Tạo là ông nội theo huyết thống của Hồ Chí Minh.

[36] Tên thật là Tô Dĩ, đảng viên cộng sản, bị thực dân Pháp đầy đi Madagascar. Được quân đội Anh giải phóng, giao cho quân đội Mỹ. Theo ông Lê Giản kể cho tôi nghe thì một số tù nhân chính trị Việt Nam trong đó có ông và ông Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam) được OSS (Cục tình báo chiến lược, tiền thân của CIA) huấn luyện rồi thả dù xuống Hà Đông. Lê Giản mang điện đài, tiền và vũ khí về cho Đảng. Năm 1945 được ông Hồ Chí Minh cử làm Tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam. Sau, ban lãnh đạo Đảng nghe theo kinh nghiệm Trung Quốc không để cho người từng có thời gian sống với địch nắm những công tác quan trọng, gạt ông khỏi chức vụ. Trước khi về hưu Lê Giản là phó chánh án Tòa án tối cao. Ông Lê Giản có uy tín rất lớn trong những người cộng sản thế hệ già ngay khi đã về hưu.

[37] Cụ thân sinh ra ông Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Khả, thượng thư bộ Lễ trong triều đình Huế. Khi thực dân Pháp định bắt vua Thành Thái đi đày, cụ Ngô Đình Khả đã phản đối, không ký tên vào bản án. Một chí sĩ khác, Nguyễn Hữu Bài đã từ chối không ký tên vào văn bản đồng ý cho Khâm sứ Pháp Mahé đào lăng Tự Đức để lấy vàng bạc châu báu.

[38] Chuyện họ Hồ là họ thật của ông Hồ Chí Minh, chứ không phải họ Nguyễn, đến nay không còn là chuyện được nói đến lần đầu. Tôi được biết có một thủ bút của ông Nguyễn Sinh Khiêm (ông Cả Khiêm, anh ruột ông Hồ Chí Minh) khẳng định gia đình ông thuộc họ Hồ. Thủ bút này được nhà văn Sơn Tùng mà ông Cả Khiêm tin cậy cất tại một nơi kín đáo chờ tới ngày thuận tiện sẽ công bố theo ý muốn của ông Cả Khiêm.

[39] "Hồ Chí Minh – danh nhân văn hóa", Nhà xuất bản Văn hóa, 1991, tr. 232.

[40] Mao Trạch Đông thường ví đế quốc Mỹ là con hổ giấy để tỏ ra mới hơn Lênin khi Lênin ví đế quốc là “người khổng lồ chân đất sét”. Cách ví von “đế quốc Mỹ là con hổ giấy” của Mao Trạch Đông xuất hiện lần đầu tiên ở trong thời kỳ có cuộc chiến tranh trên bán đảo Triêu Tiên.

[41] Hội nghị Genève nhóm họp ngày 26. 4. 1954, nhưng cuộc họp về Đông Dương mãi 9. 5. 1954 mới bắt đầu. Ngày 7. 5. 1954, quân đội Pháp kéo cờ trắng trên toàn bộ mặt trận Điện Biên Phủ. Phái đoàn Phạm Văn Đồng đã rời khỏi căn cứ địa Việt Bắc từ nhiều ngày trước đó. Hiển nhiên là những người trong phái đoàn không thể biết được ngày kết thúc chiến cuộc ở Điện Biên Phủ và những gì xảy ra sau nó, trừ những dự kiến và niềm tin tất thắng. Phạm Văn Đồng ngay từ đầu đã chống lại việc chia đất nước làm hai miền. Ông tin rằng nếu tình hình cứ tiến triển theo đà hiện thời thì chiến thắng cuối cùng sẽ ở trong vòng một đến hai năm nữa. Lập trường của Phạm Văn Đồng gần với lập trường của Hoa Kỳ (có mặt ở hội nghị với tư cách quan sát viên) và Chính phủ Việt Nam Quốc gia trong chuyện không chia cắt. Nhưng những cuộc mà cả quốc tế đã đưa tới những lời khuyên ép buộc phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải đặt bút ký vào việc tạm thời chia Việt Nam thành hai miền với vĩ tuyến 17 làm giới tuyến (sau những cuộc tranh luận gay go: Pháp muốn giới tuyến ở vĩ tuyến 18, còn VNDCCH đòi ở vĩ tuyến 13).

[42] Những người lính Trung Quốc hào phóng đã nhiều lần tiếp xăng cho tôi chiếc xe máy Jawa của tôi trên những con đường Việt Bắc heo hút. Tôi đã múc nước với họ ở cùng một giếng tại Yên Sở (ngoại thành Hà Nội). Ông Hoàng Văn Hoan viết về sự kiện Hoa quân nhập Việt như sau: "Từ năm 1965 đến năm 1970… theo yêu cầu của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Mao Chủ tịch và Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc đã phái hơn ba mươi vạn bộ đội Trung Quốc… " vào Việt Nam. (Giọt Nước Trong Biển Cả, tr. 345, Hoàng Văn Hoan). Ta có thể tin con số mà ông Hoàng Văn Hoan đưa ra. Trong giai đoạn quân Trung Quốc vào Việt Nam, ông còn là ủy viên Bộ Chính trị, ông không thể không biết những việc lớn như việc này.

[43] Đáng chú ý là việc mời quân đội Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam đã không được đưa ra thảo luận trong Quốc hội.

[44] Công sứ Sơn La vào cuối thập niên 30, đầu thập niên 40.

[45] Một nhà cách mạng nổi tiếng, chết tại ngục Sơn La về bệnh lao. Tại nền cũ nhà ngục này có một cây đào được đặt tên là Cây đào Tô Hiệu, nhưng ông Trần Huy Liệu và cha tôi trong lần trở lại thăm nhà ngục Sơn La năm 1964 đã xác định nó không phải là cây đào do Tô Hiệu trồng. Do truyền thuyết về Cây đào Tô Hiệu, người ta đã mang một cây đào khác trồng thế vào đấy, nhưng không đúng chỗ.

[46] Bệnh viện ưu dành riêng cho cán bộ cao cấp, vốn là một nhánh của nhà thương Đồn Thuỷ mở rộng.

[47] Mấy cách tra khảo của mật thám Pháp trước đây: treo lên mà đánh (đi tàu bay), dìm vào bể nước (đi tàu ngầm).

[48] Nhà báo cách mạng, uỷ viên Trung ương Đảng cộng sản trong nhiều khoá, một thời gian làm bộ trưởng Bộ Ngoại giao.

[49] Ông Trần Văn Vần là một cơ sở tin cậy của Đảng trong thời kỳ bí mật. Ông đã nuôi và bảo vệ các ông Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Bùi Lâm, Xuân Thủy, Đặng Việt Châu… trong lúc các ông này phải lẩn trốn sự săn lùng gắt gao của mật thám Pháp. Nhiều năm sau khi nhà nước VNDCCH từ rừng Việt Bắc trở về đã đàng hoàng ở Hà Nội, ngay cả khi đất nước đã thống nhất, ông Vần vẫn sống nghèo khổ, nhiều lần xin chính quyền đăng ký kinh doanh một cửa hàng đồng nát cũng không được. Ông bèn gửi thư cho ông Trường Chinh xin được giúp đỡ. Ông Trường Chinh đã cho gặp, cho ông Vần hai gói trà Ba Đình và một gói kẹo Hải Châu, rồi sai thư ký xuống phường lo cho ông được đăng ký kinh doanh. Hiệu chữa xe với tấm biển "Hưởng Honda" do anh Trần Văn Hưởng, con trai ông đứng chủ, ở chợ Mơ là kết quả của sự giúp đỡ mà chủ tịch Quốc Hội Trường Chinh đã ban ơn cho người chứa chấp mình trong những ngày khốn khó.


(Còn tiếp)

Comments are closed.