Nhật ký chiến tranh (kỳ 16)

Vương Trí Nhàn

HÀ NỘI 25 – 28/12/1972

25/12

Trong nhiều năm nay, mùa hè đối với tôi là mùa đi xa, là mùa của công việc, dự định. Còn mùa đông, mùa rét, một ngọn đèn mờ, một trang giấy trắng, những điều phải làm, và chao ôi, mùa của ao ước về những hạnh phúc gia đình, mùa của tình yêu và gợi ý về tình yêu. Vì tôi đang sống trong một thành phố, tuy là trụ sở đầu não chỉ huy của chiến tranh, song vẫn mang một nếp sống hòa bình. Chiến tranh tuy đã vào đến những chốn sâu xa của đời sống, song vẫn chưa phải là chạm tới cái cốt lõi cuối cùng.

Bây giờ thì khác.

Nhớ phần nhà chính ga Hàng Cỏ bị bom đánh đúng mấy hôm trước. Người đứng xem, sau bốn ngày, còn đông. Những khẩu hiệu để bên cạnh ga đỏ vàng một cách lạc lõng.

Một khoảng trống nứt ra ở cái nơi mà hôm qua nguyên lành. Ở đó, hôm qua, là một khung nhà. Hôm nay, đưa mắt nhìn lên, không thấy cái khung nhà ấy nữa. Hôm nay, là những đường viên lởm chởm, của một cái gì nứt ra, không thành hình gì cả.

Nhớ hôm đến khu tập thể ngõ Lý Thường Kiệt. Người đang bới đồ đạc, vôi bụi bám vào mặt vào mày, như là vừa từ đống bom đi ra. Một dây chuyền chuyển gạch vừa hình thành. Người ta mang vôi, đổ từ đống này sang đống kia. Một căn gác vặn vỏ đỗ đổ dở dang. Một cặp trung niên từ đó đi ra. Người đàn bà ăn mặc kiểu Hà Nội lịch sự. Người đàn ông áo bộ đội, mũ giải phóng, cầm cái gậy, như người ta thường nói, chiếc gậy Trường Sơn. Họ đi từ căn gác hai đang vặn vỏ đỗ lần xuống.

Tiếng mấy cô học trò cấp 3:

– Nhà cô Hằng đấy.

– Hết rồi còn gì.

– Cô bảo lúc đi chỉ người không.

– Giờ đồ đạc mất hết. Khổ. Khi sơ tán, cô giáo có mang cái gì lành lặn đi đâu.

– Thì cũng như chúng mình, toàn mang quần áo rách.

Buổi sáng hôm nay Thiên chúa giáng sinh. Tôi xuống bệnh viện Bạch Mai. Dãy nhà lá bên kia đường tơi tả. Bên này viện, căn nhà khoa tai mũi họng cũng sóng xoài. Mặt đường từ cửa trở vào còn đầy bùn đất. Cái cửa sắt bị vặn vẹo, trở nên sắc nhọn. Tôi đứng áp vào cái cửa để nhìn. Bên trong, nơi gian nhà đổ có mấy người đứng canh một manh chiếu cũ úp trên một cái gì đó. Lúc manh chiếu mở ra, thấy mấy cái áo quan. Mấy bát cơm đơm có ngọn, trên có những nén hương. Nhưng mà áo quan người ta chưa kịp đóng. Một lúc sau, mới thấy có người lấy búa ra, cầm búa gõ vào áo quan. Nẹp những cái đinh cuối cùng vào đó.

Tôi đứng ở cái cửa thường trực. Trong chốc lát, bao nhiêu người ra vào. Nhân viên đến hỏi địa điểm sẽ sơ tán. Con nhân viên đến chờ cha mẹ. Những người bộ đội đánh xe vào, một gã bộ đội nghênh nghênh đôi ủng.

Một ô tô chở công nhân đến thu dọn (nhiều người đã mặc áo mưa, mặc áo lao động, ngồi sắp hàng trên xe, vẻ mặt lộ rõ họ sắp bắt tay vào một việc quan trọng lắm).

Ở cái đất nước này, chết chóc nghe đã trở thành bình thường. Những ngày từ sơ tán về Hà Nội lần này, tôi thấy nhiều vành khăn tang, nhiều người khóc chồng khóc con, mắt khóc sưng lên đi trên đường. Mấy trăm người? Mấy nghìn người cho vừa? Không thể quen được…

Những nỗi khổ còn lại đổ lên vai những người sống – trong buổi chiều lễ giáng sinh, tôi thấy tình cảnh ở khu vực bãi An Dương ven sông Hồng là rõ hơn cả. Nhà sập kệ nó, người ta đi trốn. Làm nhà, làm hầm ở giữa bãi cát. Ghếch cái bếp ra bên cạnh. Những xô nước đục ngầu. Một người mẹ còn trẻ giặt tã lót cho đứa con đầu lòng, phơi ngay trên mấy cành dâu bẻ vội.

Có một Hà Nội không phải phố xá, Hà Nội dọc bờ sông. Lũ lụt không bằng giặc phá. Lần đầu tiên, An Dương bị bom. Cả khu dân cư như đứa con nhà nghèo, bị lột trần ra, người ngợm xám ngoét. Những mái nhà bật tung lên, cát thì hất lên mái nhà. Nhìn ra bãi cát chỗ ngã ba sông, trước khi đổ ra bãi giữa, tôi thấy hình ảnh một Hà Nội muốn lẫn đi trong cái bao la của thiên nhiên – không phải thứ bao la hùng tráng ta quen nghĩ mà là thứ bao la nặng nề mờ đục. Chiến đấu, súng cũng vùi trong cát. Xe ô tô tải, xe xích tìm một chỗ cuộn trong cát. Vài tốp người bỏ nhà khênh những tấm ván ra làm hầm tạm bợ. Trong buổi chiều mùa đông, đất trời ảm đạm, cây dâu xanh trông tối sầm như những cây khô lẫn vào màu đất, màu nước bạc cũng hóa tối xỉn. Thấy cuộc đời này vẫn chuyển động, vẫn sinh sôi, mà lại nặng nề, chậm chạp, buồn tủi biến đi, song mãi không sao nhập vào được cõi vô tận.

Tôi không cầm được nước mắt, khi thấy một đứa bé đi theo mẹ ra hầm. Em bé gái độ 3-4 tuổi, cái áo đông xuân cũ của người nhớn mặc trùm tới măt cá chân em cầm cái chổi lúa vừa đi, vừa nói với mẹ. “Con cầm chổi đi, như là con ra trường làm vệ sinh, mẹ nhỉ.” Thế nghĩa là em còn nghĩ tới bao nhiêu điều tốt đẹp. Em còn nghĩ đến ngày em đi học.

26/12

Tối hôm qua, đi cùng với Tính trong một buổi tối vắng người. Và tôi tưởng tôi có thể đi suốt cả tối, đi trong im lặng, đi trong niềm vui duy nhất: có một người cùng đi với mình, thế là được rồi. Ngoài ra thì tôi không muốn nói gì nữa, và cũng gần như không muốn nghe gì nữa.

Hạnh phúc, mất mát tất cả đều là có thật. Hy vọng ư? Nên lắm. Vô vọng ư? Tất nhiên thôi. Cuộc đời là mong manh, là thay đổi, là bị vượt qua – tôi đã già đi, đã yếu đi. Tôi đã cảm thấy bất lực trong mọi ý nghĩ. Nhưng rõ ràng, vẫn có đó, một đời sống, một hy vọng, một cái gì thành nếp. Có những người đẹp, những ngôi nhà rêu phong như có những niềm vui, những niềm vui trong sạch thật sự chứ không phải những niềm vui thấp hèn – nó đều là những gì có thật. Còn con người, làm sao được? Sau đạn bom, tất cả những gì còn lại, đã là minh chứng sự hiện hữu của con người. Và chúng ta, những người sống, là sống cùng với tất cả những gì còn lại đó.

Ban đầu, chúng tôi đi vào khu phố mạn Quan Thánh, Hàng Bún.

Hàng Bún vắng, tối, sự vắng vẻ đáng yêu mọi ngày trở thành nỗi ghê sợ. Tất cả các nhà người đều đã bỏ đi hết. Tưởng nhiều nhà là cái nhà hoang, xộc vào, ở trong sẽ có ma. Chúng tôi không vào, chỉ ngước lên trời. Bầu trời Hà Nội trong các ngõ vắng bị khuôn giữa những đường thẳng, bầu trời hình chữ nhật, hình vuông, một thứ bầu trời giữa các nhà ha tầng, ba tầng. Đã có chỗ thấy những bầu trời qua các mái ngói bị lật tung ra. Bầu trời thành từng ô, từng ô. Nó cũng bị xé rách.

Đi vào phố Cửa Bắc, rồi chúng tôi đến gần nhà máy điện. Ban ngày, đã thấy hai ống khói vặn vẹo. Ban đêm, người ta chứng kiến một bộ mặt của cái chết kinh khủng hơn – cái chết yên lặng. Cái nhà máy vốn ồn ào. Vắng những tiếng tuyếc bin mọi khi, hôm nay nó như một nhà mồ. Tính bảo hình như nó phát ra cả hơi lạnh nữa. Tính nhớ tới những cái bốt hồi kháng chiến chống Pháp. Đi qua đấy, mẹ bảo phải im không được ho không được khóc. Cái nhà máy điện ấm nhất thành phố, nóng nhất thành phố, hôm nay như vậy. Không thấy cả người lính Công An Nhân Dân Vũ Trang đứng gác mọi khi. Ở một vòm đá, trông như cái mũ chào mào thò ra, còn ánh sáng, không chừng có ai còn ở trong.

Chúng tôi đã đi quanh nhà máy. Trở lại phố Hàng Bún, đi quành phố hàng Than. Đường phố Hà Nội mấy hôm nay sao trớ trêu, có quãng điện sáng y mọi ngày. Có quãng ngọn đèn chỉ là một chấm đỏ y như những chấm hương. Và cả phố là một cái áo quan thật dài. Những liên tưởng hơi tệ chăng? Nhưng chưa bao giờ Hà Nội biết đến chiến tranh kinh khủng như vậy. Ở phố Hồng Phúc đã thấy người ta đào hầm ngay bên hè, đất đắp cao lên, như một thứ hầm kiểu riêng của thành phố. Nhìn xuống dưới hầm, một ngọn đèn dầu, mấy mặt người nhóa nhòa bên trong. Tính bảo như Quảng Trị.

Không hiểu sao, trong những ngày này, tôi lại nghĩ nhiều đến tình nghĩa. Nghĩ đến các bạn đồng nghiệp. Muốn đến mọi người để mà biết rằng họ không việc gì trong những ngày bom đạn vừa qua. Khi gặp nhau chúng tôi ngồi im lặng. Không biết nói chuyện gì. Không dám cười, không dám đùa dỡn nói xấu nhau – như mọi khi vẫn làm. Chỉ ngồi đấy, nghĩ rằng có nhau. Có cái cuộc đời buồn bã này.

Trên con đường Yên Phụ, một đôi nam nữ sóng đôi bước chậm, điếu thuốc lá của người con trai đỏ lên trong đêm. Ở phố Hàng Than chúng tôi thấy một đám cưới. 7g30 tối, đám cưới đã không còn khách nữa. Hai hàng ghế sạch bóng. Có lẽ chẳng có mấy khách, đèn sáng, trên tường tấm vải đỏ dán chữ song hỉ thật trắng.

Hạnh phúc? Chưa chắc. Nhưng vẫn là hạnh phúc. Lúc này, người ta vẫn phải cưới nhau, vì cái hạnh phúc bao lâu nay chuẩn bị, bây giờ đã chín muồi, cuộc sống của cả đất nước ngưng lại, nhưng cuộc sống của mỗi người vẫn là phải vận động, và đó là một bi kịch.

27/12

Khi một người đứng đắn nhất cũng đã phải kêu, thì không phải chuyện thường

Hữu Mai:

– Năm 72, ông ấy bị bao nhiêu chuyện bất ngờ. Nixon qua Trung quốc Liên Xô, nó làm được như thế, là một thứ bất ngờ. Đánh vào Quảng Trị, dân không nổi dậy – bất ngờ. Quân ngụy trụ vững – bất ngờ nữa. Cuối cùng, là việc nó đánh ra như thế này. Trong một năm, bị bao nhiêu chuyện bổ chửng cả ra thế, hỏi còn nói gì được nữa.

Văn Thảo Nguyên kể ở trên một chuyến đò qua sông Hồng, dân chửi loại các ông trên như chủ tịch Hà Nội Trần Duy Hưng: “Nó chỉ sướng cái thân nó. Nó có hầm có hố cẩn thận rồi mà.”

Một người nói bậy. Mội người khác bực bội uốn nắn lại. Đều là cáu lắm, tưởng có thể vứt nhau xuống sông.

Đại khái dân thắc mắc vậy mà người ta thì làm công tác tuyên truyền theo kiểu vậy. Một lần, ông Cục phó của chúng tôi còn dám mở mồm bảo: Nó đánh B52 thế này là mình càng có dịp lập công. Còn trên đã dự kiến rồi, ta không chịu đi sơ tán, ta chết là tại ta.

Khốn khổ, lúc nào cũng nói là ta đã dự kiến rồi. Y như một người bị đánh hộc máu mũi nói với thằng khốn nạn nó đánh mình “biết mà, biết mà, biết là mày sẽ đánh hộc máu mũi tao mà.”

Nhiều cán bộ nói một cách vô liêm sỉ: Bây giờ nó chỉ còn có cách đánh Hà Nội là cùng chứ gì?

Cứ dương dương tự đắc về một thứ thế cùng mà mình bị nó dồn vào như vậy.

Không ai nghĩ đến dân chết. Rất nhiều dân chết.

Anh em loại cơ quan tôi như bọn thì còn khá hơn. Có người nhớ tới chiến tranh thế giới thứ 2. Nhật hoàng vì thương dân mới quyết định đầu hàng. (Theo công bố trong tuần đầu Mỹ đã ném xuống một khối lượng bom bằng 2 lần số thuốc nổ quả bom ném ở Hirôsima)

Lại xoay sang tình hình chiến sự. Đài bên kia công bố họ đòi 5.000 quân kiểm soát. Ta chỉ cho có 250, lại không có điện đài, phương tiện. Âm mưu là để giữ quyền tiếp tục khống chế miền Nam.

– Ta nghĩ cạn lắm cơ. Nghĩ rằng mình có quyền ràng buộc nó vào một hiệp nghị. Nghĩ rằng nó sẽ phải tôn trọng trong khi thực tế, nếu cần lúc nào nó cũng xé toang những cái đó.

– Đánh mãi đã không thắng nổi nó lại còn tính chuyện thắng nó trong tương lai!

Và người ta mở rộng ra:

– Phen này ta vào Sài Gòn xem không một vụ chém giết kinh khủng chắc? Rồi đưa dân Sài Gòn đi, chiếm nhà, có khi lại còn chiếm vợ con người ta nữa. Giá ký hiệp ước ngày 26/10, mình không làm một cú tràn xương máu ấy à.

– Nghĩ cho cùng cách mạng mấy chục năm nay, chỉ thấy phá chưa thấy xây gì. Hưng Yên, Nam Định, Phủ Lý ngày xưa lúc thị xã nhỏ đẹp lắm… Phá thành phố, phá đình chùa, phá cả những nền nếp cũ.

Mỗi ngày đài lại có những bình luận:

– Tai họa Việt Nam cũng tựa tai họa của Ni-ca-ra-goa.

– Kẻ thù của loài người là vô vọng.

– Chiến tranh hiện nay: chiến tranh tùy theo sự tức giận.

– E. Kennedy: Người ta đã phải nghe quá nhiều lý do đã trở thành nhàm tai từ cả hai phía, mưu chiến cũng như phản chiến.

28/12

Tôi đang cùng mọi người ngồi trên khu sơ tán Hương Ngải để điểm lại. Tối 26/12, bom dữ dội ném trúng khu Khâm Thiên. Tối 27, một B.52 rơi Bách Thảo.

Tiếp tục họp được với nó, tưởng đã có thể xong. Có một hồi đã có nhận định bây giờ sức mạnh của nó là không gì ngăn cản nổi mình phải lựa mà ký đi. Nhưng rồi lại miệng khôn trôn dại, lại vẫn ì ra, im, kệ. Thương nhất là dân những nhà bị sập. Hết đám này bới chưa xong, lại đến đám kia.

Nhị Ca: Biết cách làm ăn của mình rồi. Ngay thời thịnh trị, có mỗi cái máy mà toàn phu khuân tay, phu thì đói làm ăn ra gì, chỉ thấy toàn khẩu hiệu.

Một ngày của người ở sơ tán bây giờ là như thế này. Sáng đến gặp nhau, bàn nhau “Hôm qua nghe ghê quá, nhất là mạn Hà Nội”. Trưa ra đứng đường, chờ xem có ai Hà Nội lên, hỏi tin tức. Tối, 6-7 giờ, ngồi nghe đài – nghe BBC mà tiếng nhạc hiệu luôn luôn là niềm mong đợi đến mức ai đó có lúc buột miệng nói đùa là thân yêu như quốc ca.

Nguyễn Khải: Nghe nói bây giờ mình lại có lý luận về sức ép tối đa. Cố qua kỳ sức ép tối đa này, rồi mới tính được mọi chuyện. Bây giờ mà nó lui, thì lại bảo nó không thể chịu đựng được đòn phòng thủ của ta. Phương châm của ta là đánh tiêu diệt cơ mà.

Nguyễn Minh Châu: Lúc cần thì ca ngợi Hà Nội ghê lắm. Lúc này thì hy sinh cả Hà Nội cũng sẵn sàng.

Trong những ngày đánh phá ác liệt chuyện gia đình vẫn điểm xuyết vào, nhẹ nhàng mà xót xa.

Ng Khải:

–Lắm lúc nghĩ mình cũng thấy buồn cười. Cả đời mình đóng vai một thứ nhà văn quân đội, cũng đi chiến trường, cũng được tiếng là xông xáo. Thế mà động thấy xác chết, là tôi cứ sa sẩm mặt mày, cứ buồn nôn thôi. Trong năm nay, có một chuyện nhiều lần phiền muộn. Đứa con lớn xin đi bộ đội. Tôi đã phải nói rất trang trọng: “Bố nhận là bố có lỗi, với con. Nhưng con ạ, sao con không lo tiếp tục học cho giỏi đi”. “Con không muốn rèn luyện dưới mái trường XHCN nữa. Bây giờ là lúc chiến tranh, con muốn rèn luyện ngoài chiến trường.”

Nghĩa là nó toàn dùng những chữ thật sáo cả. Thế nên mình cứ bấm bụng chịu, mình cũng phải dùng những chữ sáo ngược lại. Khổ, ăn nói học theo văn chương ông Hồ Phương cả. Cái loại này, đúng là đưa sang Trung Quốc làm cách mạng văn hoá thì đắt lắm đây.

… Bây giờ mà viết một quyển sách, nói bố thì sợ chiến tranh con thì thích chiến tranh, toàn bộ hai bố con lý lẽ với nhau, suy nghĩ khác nhau thế nào. Viết độ 150 trang thôi, ra hết vấn đề rồi còn gì.

29/12

Tối 28, bom tiếp tục ném Nhật Tân, Chèm…

Chiến tranh đến như thế nào? Chiến tranh len vào mỗi cá nhân, ví dụ như tôi, thật ra cũng không thiếu những phút hoảng loạn.

Nhưng trước hết, chiến tranh là những dằn vặt liên tiếp. Chiến tranh là những phút ngồi oán giận không biết gây ra từ nơi nào, và sẽ kết thúc ở nơi nào.

Trong chiến tranh, người ta sống bằng gì? Sống bằng hy vọng rằng nó sẽ qua đi. Rồi lúc chán quá thì tự an ủi rằng chiến tranh có thể mang lại cho mình những kinh nghiệm sống bổ ích. Cũng là một thứ A.Q.

NHỮNG TRANG GHI RIÊNG VỀ KHÂM THIÊN

29/12

Gần như mỗi ngày, tôi ra Khâm Thiên lại thấy một khác. Hôm nay, y như một công trường. Nước dềnh lên trên lòng đường. Máy đứng, cái tay gầu xoay ngang xoay dọc.

Nhiều kíp thợ cùng làm việc. Những cô Thanh niên xung phong hay những cô phu hồ, thôi gọi thế nào chẳng được. Giờ nghỉ, các cô ngồi chật cửa hàng bún, bánh.

Vài người thợ điện ngồi vắt vẻo trên cột điện kéo lại đường dây. Mấy bác lo chữa điện trong các gia đình thì cầm theo một đống công tơ. Cả thành phố đều có việc. Cả thành phố không thể vô can đối với sự kiện này.

Lâu nay đối với mỗi gia đình Hà Nội, cuộc chiến tranh mới là sự vắng mặt của người thân. Những ngày hòa bình như một thứ quá khứ vẫn còn hiện diện.

Từ nay, với Khâm Thiên, cả cái quá khứ hôm qua cũng đã đi xa. Ta có một quá khứ khác.

Khâm Thiên như một cái gì đó chỉ ra rằng lâu nay Hà Nội đã có một bộ mặt mới mà ta không biết, nay với Khâm thiên ta bắt đầu biết. Mỗi lần, có chuyện gì đấy, chúng ta lại nghĩ tới Khâm Thiên.

Mai đây ra sao? Có phải chiến tranh đến với thành phố là phải ngưng lại? Không chắc! Nguyễn Minh Châu thì bảo không biết đây là mở đầu, hay là kết thúc của cái thời chiến như một đêm đen dài dằng dặc này nữa.

Có một Hà Nội ở sau các phố xá. Thường đi qua Hàng Bột, nhìn qua lối ngõ, tôi vẫn cứ thấy một vệt rau màu xanh. Tôi biết có một Hà Nội bề mặt và Hà Nội sau lưng cái bề mặt ấy, một Hà Nội các xóm nghèo.

Không một quả bom nào rơi trúng lòng đường Hà Nội. Phố Khâm Thiên cũng vậy. Nên lần nào đến Khâm Thiên, tôi cũng đi vào phía trong của phố.

Hóa ra nơi đây, có một cái hồ lớn, chứa nước cống của thành phố. Còn nhớ hôm nọ, trong đêm, tiếng nước rơi xuống đá kêu lanh tanh.

Đoàn Công Tính tỏ ý hơi lạ khi những người dân hai bên hồ vẫn ra hồ rửa ráy. Nhưng Hà Nội lâu nay vẫn vậy.
(Trong bài ký tên Anh Thơ để viết tựa cho thơ Vân Đài, Tô Hoài từng kể “Nhà chị Vân Đài ngày trước gần Hồ Gươm, thường ra đó để giặt dũ “)

Thành phố chúng ta nghèo… như một niềm chung thuỷ, một cách sống nhũn nhặn, một triết lý bám vào cuộc sống mà sống.

Những mảnh đất bị bom được san lại. Cố sống cố chết, người ta kiếm được ít cọc đóng quanh nền. Người ta dựng tạm lên một túp lều.

Hà Nội mà lên lại nhà cửa của mình thì lạ lắm. Tôi đã thấy những túp lều chụp ni lông. Những mái gác phủ bạt. Những cái nhà, cả mái, cả cái gọi là tường, đều quây bằng một thứ bao tải muối.

Nhưng mà cốt sao được một chỗ che mưa nắng. Vì trong khi đó, tết vẫn đến, cái tết tưởng như tuần tự, mà sao vẫn êm đẹp và đầy hy vọng. Gian nhà ấy bị hơi bom làm sụt một góc, người ta dựng tạm làm cửa hàng. Đó là một hiệu may, những miếng vải nằm một xếp dài trên bàn, một cô gái vào thử áo vinylon trông khá diện, cô chủ hiệu trông cũng nhẹ nhõm. Tưởng như không hề có vụ B.52 hôm trước. Công việc làm ăn kéo đi.

Tôi hiểu người ta phải làm thế để kiếm lấy một cái tết…. Rồi sớm mai mồng một, mới thấy người ta ngồi, người ta khóc vì những mòn mỏi của kiếp người, về việc hợp và tan, làm và nghỉ, hy vọng và vô vọng – cuộc đời là tất cả những cái đó, nó dường như vô nghĩa, mà dường như rất có nghĩa.

Chiến tranh đến một thành phố, nghĩa là gạch, gạch đổ, bới gạch, bới vôi. Đất hình như trước sau vẫn thế. Chỉ có nhìn gạch mới biết đổi thay đổ vỡ là ghê gớm đến chừng nào. Những đống gạch lớn, tấp vào nhau. Phải dỡ từng viên. Ngồi cạo cạo cho hết vôi. Rồi lại chồng thành đống, dựng tạm làm tường.

Gạch là những gì cố định của một thành phố.

Chẳng phải hôm nọ, cậu Tụng nói nó sẽ đánh đến không còn một viên gạch nguyên là gì.

Đến khu Khâm Thiên bây giờ, chỉ nghe đều đều một tiếng lạch cạch. Tiếng của những con dao gõ vào gạch. Tiếng của thời gian.

Một thứ nhịp điệu riêng của Việt Nam? Không hẳn!

Với tình cảnh này, người ta tưởng tượng ra mọi cuộc chiến khác. Chẳng hạn, chắc nhà cửa của những người tị nạn bên Palestin cũng thế.

Một triết lý về sự sống – chịu đựng. Và trong đó sẽ nẩy sinh sự sống.

Nhưng lúc này mà đi tìm triết lý về cuộc đời là vô duyên. Người ta cốt sống cái đã. Không muốn nghĩ…

Sao mà quên được những em bé ở Khâm Thiên. Nhiều nhất những em đi nhặt rác. Đất ven Khâm Thiên xưa vốn là bãi rác. Những đứa trẻ “yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, sạch sẽ ngoan ngoãn” – những đứa trẻ ấy đang đi nhặt rác. Con gái cũng quần phăng, giầy ba ta cho gọn ghẽ. Mỗi đứa cắp một cái rá, tay cầm một cái que bới. Bọn chúng quây lại đông nhất chung quanh một cái xe ủi. Mỗi lần xe chạy qua một đống đất, ủi đi một lớp đất, sau xe, lại phơi ra một lớp đất mới, trong đó lẫn cả mọi thứ vào trong gạch vụn. Bây giờ thì thứ gì cũng quý.

Một lần khác, tôi không khỏi cay cay mắt trước cảnh một em bé khác chỉ độ 4, 5 tuổi ngồi trên một đống gạch lủng củng. Trong khi mọi người ưu tư lo lắng, một đứa trẻ còn có việc gì khác ngoài ngồi nghịch? Những cục vôi trắng bay vẩn lên trong buổi chiều. Em chỉ có thứ đồ chơi là vôi vụn gạch vụn…

Tôi vụt nghĩ một lần nào đó, sẽ được đọc một bài viết trong đó một thanh niên kể tuổi nhỏ anh ta có những ngày chạy theo xe rác bên những hố bom Khâm Thiên.

Hỏi mấy người ấn tượng về Khâm Thiên tối đầu tiên. Cô Cư bán hàng dưới đó nhớ tiếng vịt kêu. Xuân Trình nhớ những bước chạy. Nhật Minh nhớ những thân hình người chết nằm, đất phủ đầy đầu.

Với cậu Giao em họ tôi, Khâm Thiên ngày 27/12 là cảnh người nằm ngang dọc ngổn ngang, mỗi người như một tầu lá chuối. Mùi hương thắp lên ghê ghê. Đến nỗi về sau, mỗi lần ở nhà thắp hương, Giao vẫn hơi sợ.

30/12

Chiều đi với Tính. Nhà anh Hồng đốt sách dọn nhà.

Một người đàn ông dắt xe đạp giữa những hàng cây cụt ngọn. Những đống gạch dọn được đổ ngay ra đường.

Cái âm khí của những ngày đầu tiên sau trận bom hiện ra ở những nét mặt người. Người dân Hà Nội mất đi cái vẻ ranh mãnh bình thường. Chỉ còn đăm đăm tập trung vào một việc nào đó.

2/1 /73

Ngõ chợ ngổn ngang. Người ta đổ các thứ ở nhà ra đường cái. Đống rác cao đến mái nhà. Đường dắt xe đạp vồng lên vồng xuống.

Người ra vào rất đông. Nhiều người Hà Nội gặp nhau ở Khâm Thiên. Mỗi người tìm lại cho mình một Hà Nội hôm qua. Đủ thứ ký ức thoáng hiện trong câu chuyện.

Đứng trong đám quấn khăn tang nhặt nhạnh lại đồ lề, một người đàn ông nhìn đám dong nhan đến xem, chửi:

– Toàn một lũ vô công rồi nghề. Nhà người ta còn bận, ai dềnh dang được như chúng nó.

Dòng chữ trên tường:

Anh X nhà an toàn cả. Anh có về, tìm đến…

Đông nhất là những đám lật đống vôi gạch đổ, tìm người. Xe ủi làm việc tay gầu ngoạm vào đất, đổ ra. Cả trăm con mắt người đứng xem đổ dồn. Một người nào đó kêu ầm lên: Thôi, có người rồi, thối quá…

Cũng như tất cả các khu phố khác của Hà Nội, Khâm Thiên mang trong mình nhiều người, nhiều nghề nghiệp.

Hình như ý nghĩa Khâm Thiên là ở chỗ này: Khâm Thiên đại diện cho Hà Nội. Lâu nay, Hà Nội đã cử người ra măt trận. Nhưng đôi lúc, chúng ta vẫn tưởng rằng Hà Nội vô can, Hà Nội không dự gì vào cuộc chiến đấu này cả. Chính những tàn phá của chúng ta hôm nay chứng tỏ Hà Nội đã chia sẻ không thiếu thứ gì. Và, đã hỏng là hỏng nặng.

13/1

Người công nhân kể chuyện chữa lại cống. Ngõ chợ đã dọn sạch. Một người chạy từ ngoài đường vào hỏi: Anh ơi cho hỏi số nhà 15 có việc gì không.

Một người xích lô chỉ vào chỗ xe ủi xúc gạch tìm người: Kìa ở chỗ kia, đang thòi ra cái trán.

14/1

Người Khâm Thiên đi thăm nhau, một số ở xa về ra thẳng nghĩa trang.

19/1

Những gian nhà xếp gạch chồng thành tường. Cuộc sống đi vào hàng lối trong cái thế đơn sơ của nó. Cho đến cả những mảnh giẻ rách cũng được xếp vào một chỗ. Một đống khác: một vạt lông gà.

Một cây chuối còn sót lại trở thành cọc tiêu cho người ta dóng hướng.

Cuộc tìm bới những nhà cũ, chỉ kết thúc, khi người ta tìm thấy nền.

Thu dọn vôi gạch thế nào, cuối cùng cũng phải làm trơ ra cái nền.

Như là tất cả được xem xét lại. Đồ lề mỗi nhà được đánh giá lại. Lúc này, người ta mới hiểu người ta có những thứ gì.

Cho đến việc lấp hố bom, cũng chỉ hoàn thành, khi người ta đủ đất san thành nền.

Ở nhiều nhà trên cái nền đất phố Khâm Thiên, lúc này mới thấy lật ra cái hầm cá nhân. Có lẽ lâu nay chỉ có căn hầm là cái gì ở sâu hơn hết trong mỗi nền nhà.

25/1

Em bé đội lông gà, giẻ rách cầm tờ báo xuân đọc. Một em bé nói với một em bé khác: “Chị còn được bố. Em mất cả mẹ, mất cả bố”.

Chiều nay trời nắng dù là cái nắng mùa đông, nhưng khi nó tắt đi, mặt đất vẫn như dịu lại. Buổi chiều là thời gian của gia đình, của những người đi làm đủ mọi nơi quay về ngồi quanh mâm cơm. Buổi chiều là thời gian của ngơi nghỉ.

Rồi cuộc sống Hà Nội lại bừng lên trong những buổi tối. Nếu như buổi tối mà vắng vẻ, thì còn gì là Hà Nội nữa.

Ở cái thời điểm chuyển giao giữa chiều và tối, người ta mới cảm nghe hết cái lặng lẽ của thời chiến.

27/1

Những đọt dừa non lại đã nẩy trên những cây dừa trơ trụi của phố Khâm Thiên. Nhưng nhiều mái nhà xô ngói vẫn chưa được lợp lại.

Chỗ nào có trẻ là chỗ đó có trò chơi. Nhiều trẻ học sinh hoạt công cộng, thứ sinh hoạt công cộng rộng rãi nhất, trong lời báo máy bay: Đồng bào chú ý, tây bắc Hà Nội…

Tiếng báo động đã tập họp cả thành phố. Không có sinh hoạt công cộng nào có sức tập hợp thành phố, như tiếng còi báo động, và sau đó, còi báo yên.

Khâm Thiên chứng tỏ một sức hồi sinh của Hà Nội, cách hồi sinh của một thành phố nghèo.

Có sức sống của những thành phố giàu và sức sống của những thành phố nghèo. Những thành phố nghèo bao giờ cũng tự chứng tỏ nó sống với nghĩa là nó không chết. Nó còn sinh sôi. Ở đâu đó, sự sống biểu hiện ra ở trí tuệ. Ở đây chỉ là bản năng sinh sôi. Kể cả bản năng làm dáng theo cách nghèo của mình. Những người thanh niên mốt nhất là những người thanh niên nghèo.

1/2

Lại đến Khâm Thiên. Cột điện nghiêng đi, ở trên đèn vẫn sáng. Những mầm xanh trên những hàng cây bị long gốc. Cống nuớc chảy, đã xây xong. Một vòi nước mới bắc. Những người đi gánh nước, xếp hàng một dãy dài.

Một đài kỷ niệm mới lập. Triển lãm. Trong ảnh, thấy rõ gạch ngói còn ngổn ngang trên đường.

Trẻ con nhìn ảnh nhận mặt người quen:

-Kìa, bà cả.

– Ối, anh Tư.

Khôi phục có một nghĩa là san dồn lại những gì chiến tranh phá phách. Nhưng còn những tình cảm, làm sao mà san dồn cho được.

Khâm Thiên ngày tết. Những người trong gia đình, ngồi dựa lưng vào những bức tường gạch kê, trò chuyện. Một cái khẩu hiệu trên tường: Không có gì quý hơn độc lập tự do (có lẽ do dân tuyên truyền trên thành phố mới cho người đến nhét vào). Ánh đèn rực rỡ lúc này trông lại đáng sợ.

Những nền nhà gác nghiêng đi, ở dưới nhà người ta vẫn bầy biện đủ thứ ảnh, khẩu hiệu. Đến 29 tết, tôi còn thấy người ta tay dao, tay thước, xây tạm nhà cửa.

Cái định nghĩa về nhà cũng giống như định nghĩa về mỗi con người chúng ta hôm nay: chắp vá, tạm bợ, chỉ cốt có một cái gì cơ bản nhất, ngoài ra thì không có gì nữa.

Ví như con người bây giờ nghĩa là sinh vật biết ăn uống, nói năng, biết làm theo ý định người khác. Còn nhà là một chỗ trú nắng, trú mưa. Thế thôi. Ở giữa phố, có một đài kỷ niệm, một cái giá gỗ cao hình cong, Nghiêm Đa Văn bảo như một cái sừng, được dựng lên.

Vợ chồng nhà Văn cãi nhau. Người ta lúc thì gọi là bia căm thù, lúc thì gọi là đài chiến thắng. Ai đúng hay cả hai đúng?

Người đến xem để xe đạp một hàng dọc đường, như vào một cửa hiệu.

Tôi nghĩ tới cái gia đình sống bên cạnh đó, mọi người dòm hành vào, mất hết cái riêng tư vốn có. Đây cũng là một hậu quả của vụ Khâm Thiên, chứ sao?

 

Comments are closed.