Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Tấm hình ai đó chụp nhà văn Vũ Thư Hiên trở về Tổ quốc mình ôm bó hoa với nụ cười sáng rực trước Tết Dân tộc khiến không ít người dù đang lo âu, buồn bã bởi gia cảnh và thế sự cũng chợt cảm thấy lòng được ấm áp đôi chút…
Người sở hữu nụ cười quý giá và hiếm hoi ấy là người từng trải qua bao dông tố của số phận, đã tiếp nối một cách xót xa dòng văn “lưu vong” bắt đầu từ cụ Hồ Nguyên Trừng với “giấc mộng của ông già nước Nam” (Nam ông mộng lục) nhiều thế kỷ trước…
Phải chăng Đất nước đau thương này cần tìm đến những nụ cười vui, để lại tiếp tục “Bắt gặp với nụ cười” như nữ thi sĩ Blaga Dimitrova người Bungari năm nào lần đầu đặt chân tới mảnh đất phương Nam ngập khói lửa?…
Nụ cười mơ ước kia tôi đã lờ mờ cảm thấy, trước giọt nước mắt cảm thương của mẹ tôi – một cô giáo dạy nhạc bình thường –, khi đọc hồi ký của một người Việt tha hương đang cố tìm chân lý đời sống & sự thật lịch sử qua những trang sách Đêm giữa ban ngày – một hiện tượng văn chương đặc biệt trong nền văn học Việt cổ – kim…
Nụ cười của tác giả những trang văn dịch K. Pautovsky từng “làm tổ” trong tâm hồn tôi từ suốt thời thơ ấu gian truân cho tới hôm nay ê chề đau xót, những dòng như của chính nhà văn chắt tự tâm can mà tôi đã nhiều lần đọc cho con gái và sinh viên của mình nghe: “Sự tiếp nhận cuộc đời một cách thi vị là món quà vĩ đại nhất mà tuổi thơ đã cho ta…” (Bông hồng vàng).
Nụ cười của tác giả những dòng thi vị trên, cũng là người đã đúc kết những “nghịch lý” của một thời đại từng có “bục công an đặt giữa trái tim người” (Lê Đạt) và thống trị thứ “Chân lý dùi cui” (Thạch Quỳ), song đã có được sự bình thản cùng nụ cười châm biếm: “Chân lý được phát hành theo đại lý”, “khẩu phần tinh thần được phân phối” (“Chân lý được phát hành theo đại lý. Bộ Chính trị phổ biến tin tức có giới hạn cho Trung ương, Trung ương cắt bớt rồi phát xuống tỉnh, tỉnh cắt thêm rồi mới cho xuống huyện. Càng xuống thấp sự thật càng teo tóp. Những người thọc mạch nhất nếu có biết gì hơn khẩu phần tinh thần được phân phối cũng chỉ dám xì xào về một mảnh nào đó mà thôi” – Vũ Thư Hiên, Đôi tất ngoại).
Nụ cười của một nhà văn từ năm 1976, sau khi ra tù, không được cầm bút viết văn viết báo viết kịch bản dịch sách nữa, mà phải làm nhiều nghề khác nhau để kiếm sống – mà một trong những nghề đó là “Chữa tủ lạnh” – cái nghề khiến ông bùi ngùi: có lần tới một nhà cán bộ nữ chữa tủ lạnh, sau khi biết mấy đứa con chị ta chỉ được ăn mảnh vụn của “đá tủ lạnh”, còn những khay đá thì để đem bán lấy thu nhập của gia đình, thì ông không nỡ cầm tiền chữa tủ lạnh chị ta đưa nữa, với lý do là cái rơ le bị kiến chết cháy làm tắc thôi, không phải sửa gì; và ông đành cắn răng bỏ cái nghề vốn đã bất đắc dĩ ấy để chuyển sang những nghề bất đắc dĩ khác…
Nụ cười của một người có biên chế ở Hãng phim truyện Việt Nam, với tư cách nhà biên kịch điện ảnh. Nhưng trước nay, mọi người chỉ nói về văn xuôi của ông, hầu như quên rằng ông còn là một nhà biên kịch từng tốt nghiệp ở VGIK – Đại học điện ảnh quốc gia toàn Liên bang Xô viết – và chắc chắn phải có không ít kịch bản phim trong ngăn kéo bản thảo. Rất may là bạn tôi, nhà biên kịch – nhà phê bình điện ảnh Đoàn Tuấn cũng từng xuất thân từ VGIK, trong một hồi ức nhỏ ở FB đã cho biết: “Chuyên gia điện ảnh nổi tiếng của Liên Xô là Vaisfield đã kể lại một kịch bản của nhà văn Vũ Thư Hiên mà ông rất thích, nằm trong kho lưu trữ của trường có tên là Đêm cuối cùng, ngày đầu tiên. Đó là một đêm hè. Một anh du kích ở đồng bằng sông Hồng nhận nhiệm vụ đặt mìn trên đường tàu hoả. Vì ngày mai, có đoàn tàu chở lính Pháp từ Hải Phòng về Hà Nội. Anh dẫn theo một cậu bé. Đặt mìn xong, anh và cậu bé nằm trong lán chờ. Anh mở đài nghe tin tức. Bỗng anh nghe tin, đêm đó, hiệp định Genève được ký. Ngày mai sẽ không còn chiến tranh. Anh phân vân. Trái bộc phá kia xử lý thế nào? Anh quyết định tháo trái bộc phá. Rồi báo cáo cấp trên. Nhưng cấp trên phê bình anh. Vì chưa được lệnh. Trái bộc phá vẫn đặt lại chỗ cũ. Sáng hôm sau, đoàn tàu chở lính Pháp lao về Hà Nội. Cậu bé biết chuyện. Cậu lao ra. Giang tay hô to: “Có mìn!”. Lính Pháp trên tàu giương súng bắn chết cậu bé… Kể xong, ông GS. Nga trầm ngâm: “Chỉ những người từng khổ đau trong chiến tranh, như người Việt Nam, mới có quyền kể những câu chuyện về khát khao hoà bình…”. Chính nhà văn Vũ Thư Hiên cũng kể lại về kịch bản trên trong hồi ký Đêm giữa ban ngày của ông.
Cũng rất may là nhà văn chỉ ghé ngang qua nền Điện ảnh thảm hại này để thoát khỏi cảnh ngộ bi đát của những nhà điện ảnh tâm huyết như đạo diễn Huy Vân, đạo diễn Nguyễn Đỗ Ngọc, v.v. vốn lạc lõng với đường lối văn nghệ có đủ thứ tính này tính nọ quan trọng nhưng lại thiếu tính nhân văn phổ quát!
Năm ngoái, tôi có dịp kể lại trong một status “Hai lần được gặp nhà văn Vũ Thư Hiên”. Nói ngay, “gặp” ở đây đặt trong ngoặc kép! Đó là vào những ngày tháng không được làm phim, phải rời cơ quan Hãng phim truyện Việt Nam vào Sài Gòn làm phim thuê, viết thuê… Một công ty văn hóa tư nhân núp bóng Nhà nước mời tôi làm phim về TP. HCM dịp kỷ niệm 15 năm, mang tên “Thành phố không mệt mỏi”. Sau khi đã quay tư liệu một vài cơ sở sản xuất kinh doanh tiêu biểu, lúc được giới thiệu đến công ty của doanh nhân nổi như cồn Tăng Minh Phụng, tôi được biết nhà văn Vũ Thư Hiên đang làm cố vấn cho ông ta trong việc giao dịch hàng hóa với nước Nga (lúc Liên-xô sắp sụp đổ).
Tôi hồi hộp lắm, vì đã được biết sơ qua về quãng đời tù đày của một nhà văn đang có tên trong cơ quan tôi với chức danh “nhà biên kịch” từng tốt nghiệp trường VGIK danh tiếng. Nếu được gặp ông, tôi sẽ nói gì đây? Bảo rằng: “Thưa bác, em vinh dự là người cùng cơ quan với bác”, hay là: “Các rạp chiếu phim đã biến mất trở thành quán bia, vũ trường bởi Liên hiệp Điện ảnh đã phá tan nát nền Điện ảnh, đầu phim thì dành cho các nghệ sĩ lớn có công với Cách mạng hoặc nghệ sĩ Nhân dân, nghệ sĩ Ưu tú thực hiện rồi, nên thằng đàn em đành thất nghiệp chạy vào đây, may quá được gặp bác…”?
Nhưng để làm gì? Để tìm sự cảm thông, lời an ủi của bậc đàn anh trong nghề cũng đang bỏ nghề ư?… Thật ra, tôi chợt nảy lòng thương ông, và thương mình… Tôi quyết định không kể cho ai là tôi có biết ông, thậm chí biết rõ về lai lịch của ông. Không phải vì sợ có người bĩu môi: “Úi giời, thấy người sang bắt quàng làm họ”, mà bản năng mách tôi: biết đâu đó cũng là cách tôi bảo vệ ông, khi ông đương tìm cách náu mình an toàn để mưu sinh, và để viết những gì cần phải viết cho đời…
Thế là tôi đã gặp ông hai lần tại công ty thương mại đang ăn nên làm ra nọ, với tư cách chỉ là hai người làm thuê cho ông chủ nhiều tiền và biết trọng trí thức. Nhà văn không thể biết rằng: có một kẻ vô danh tiểu tốt mới vào nghề điện ảnh đã kín đáo quan sát ông, tự hỏi ông đang làm gì cho ông chủ ấy trong lĩnh vực hoàn toàn xa lạ với ông là kinh doanh…
Mấy năm sau, qua Hồi ký của ông, tôi được biết đó cũng là thời gian ông âm thầm viết Đêm giữa ban ngày giữa nguy hiểm vẫn còn rình rập. Và cuốn sách đó cũng góp phần trả lời giúp tôi cái câu hỏi vấn vương trong nhiều năm – đặc biệt qua những dòng hôm nay tôi đọc lại để hiểu thêm về những điều mình sẽ phải viết, đồng thời cảm thấy nụ cười chua chát của nhà văn: “…sau khi ra tù, không đi làm cho nhà nước nữa, đời sống gia đình tôi khấm khá hẳn lên, tinh thần cũng thoải mái, kể cả khi tôi làm thuê cho những người theo lý thuyết của các nhà mác-xít là những tên bóc lột. Những ông chủ cá thể xử sự có văn hóa hơn hẳn ông chủ lớn mà tôi phục vụ suốt đời” (Đêm giữa ban ngày).
Còn lần này, sau nhiều năm, giữa Mùa xuân mới, được “gặp” nhà văn qua ảnh, thấy nụ cười hồn hậu dường đã vượt qua các “đêm giữa ban ngày” của ông, và thấy niềm hy vọng của ông về Đất nước còn đang bầm dập này để cùng ông Tin và Yêu. Bởi nếu không Tin và Yêu nổi nữa, cuộc sống này còn có ý nghĩa gì? Ngày con gái tôi tròn 19 tuổi, tôi đã viết cho nó và nhắc đến nhà văn Vũ Thư Hiên: “… “Bà hoàng” mà bố nói đây chính là một Tư cách sống đàng hoàng, tử tế, khi con hiểu rõ về giá trị cùng trách nhiệm của bản thân mình trước Tổ quốc và Nhân dân – dù là một “Nhân dân” từng được nhà văn Vũ Thư Hiên khái quát: “Thế hệ chúng tôi bất hạnh: chúng tôi ra đời trong thân phận nô lệ, lớn lên trong khói lửa chiến tranh và trưởng thành trong nỗi sợ hãi các đồng chí” (hồi ký Đêm giữa ban ngày). Con sẽ là một “Bà hoàng” đáng tự hào như vậy, không phải để được tuyên dương trên báo chí, truyền hình mà để những “thế hệ bất hạnh” như các bác Nguyễn Hữu Đang, Trần Độ, Trần Dần, Vũ Thư Hiên, Phùng Quán, Bùi Minh Quốc, Hoàng Hưng… cũng phải ấm lòng, được an ủi, và thêm tin rằng: cái Dân tộc khốn khổ đau thương này dù có bị cố tình hay vô tình đưa vào quỹ đạo hủy diệt, song vẫn có những thế hệ kế tiếp xứng đáng đương hàng ngày lặng lẽ vượt qua muôn trùng sự đểu cáng, lừa đảo, cướp bóc, tìm cách lấy lại danh dự Quốc gia lâu nay đã bị đánh mất một cách đau xót và oan uổng! (“Khi người ta 19 tuổi, người ta là bà hoàng” (Viết cho con gái ngày con tròn 19 tuổi) – https://vanviet.info/van/khi-nguoi-ta-19-tuoi-nguoi-ta-l-b-hong-viet-cho-con-gi-ngy-con-trn-19-tuoi/).
Xuân về, xin được kính tặng nhà văn một nhánh tuyết mai trong góc nhà một kẻ hàn sĩ lâu nay ngưỡng mộ ông…