Thơ Nguyễn Đức Tùng – “Nơi câu chuyện bắt đầu bằng ngôn ngữ khác”

Lê Hồ Quang


Tháng 3 này, tại Hà Nội, Nguyễn Đức Tùng đã ra mắt cùng lúc hai tác phẩm: tùy bút Thư gửi con trai và tập thơ Buổi sáng.

Hẳn anh đã nhận được sự chào đón nồng hậu của nhiều bạn bè văn nghệ và người đọc.

Thay cho lời chúc mừng, Văn Việt trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc bài viết của nhà phê bình Lê Hồ Quang: Thơ Nguyễn Đức Tùng – “Nơi câu chuyện bắt đầu bằng ngôn ngữ khác”.

Văn Việt


334908816_2219473591572452_1094011166426802536_n

 

Nếu phải khái quát về thơ của Nguyễn Đức Tùng, tôi sẽ mượn chính thơ ông để diễn tả – đấy là “nơi câu chuyện bắt đầu bằng ngôn ngữ khác”. Tính truyện là một đặc điểm thi pháp nổi bật của thơ Nguyễn Đức Tùng. Bằng thơ và qua thơ, tác giả nhẩn nha kể cho chúng ta nghe những câu chuyện của đời người, những câu chuyện kết đọng trải nghiệm, xa xôi và xưa cũ nhưng sáng nét lạ lùng. Ký ức của cá nhân, của cộng đồng đã được đánh thức bởi những câu chữ chừng như không thể đơn giản, gọn gàng hơn trong Làng quê, Chiến tranh, Ký ức những năm 80, Đêm ngủ trên nền nhà cũ, Hai vầng trăng, Em, Lịch sử làng tôi… Đừng tìm kiếm những cảm giác êm đềm, ngọt ngào theo kiểu thi vị hóa khi đọc những bài viết về tuổi thơ, về mẹ hay quê hương của tác giả này. Đấy là một ký ức không nguyên vẹn, đầy đổ vỡ và luôn găm lại cảm giác đau đớn. Chỉ có điều, cùng thời gian, nó ngưng lại trong cái nhìn phân tích tỉnh táo và lặng lẽ:

Chiến tranh

Người đưa thư

Dựng xe đạp trước nhà

Uống với dì tôi một tách trà

Rồi lặng lẽ cáo lui

Không biết dì tôi không biết chữ

Trong phong bì là giấy báo tử

Câu chuyện được kể theo trật tự tuyến tính mạch lạc. Từ ngữ ngắn gọn và đơn giản, không hề gây khó độc giả. Bài thơ dường như thuần sự kiện, những sự kiện được lược thuật từ góc nhìn của đứa cháu, người chứng kiến và kể chuyện, với sự giản ước tối đa ngôn ngữ biểu cảm. Cái còn lại là một tình huống của đời sống và số phận.

Thơ đã đi qua rất nhiều chặng đường lịch sử. Từ những trữ tình rậm lời của thơ tiền hiện đại đến sự tối tăm và hóc hiểm ngôn ngữ của thơ hiện đại, qua mê cung của thơ hậu hiện đại với bề bộn những “giải thiêng”, “giải đại tự sự”, “giải trung tâm”…, đến lúc nào đó, người ta bỗng cần đến thơ như những câu chuyện bình dị của đời sống con người. Những câu chuyện của Thơ, như Nguyễn Đức Tùng đã làm trong tác phẩm của mình.

Trong thơ Nguyễn Đức Tùng, ký ức là một cõi riêng và dường như bất khả xâm phạm. Đó dường như chỉ là ký ức của cá nhân, khó lòng chia sẻ, được “ghi chép” lại bằng thứ ngôn ngữ tương thích lạ lùng với chính nó. Nhưng cũng bởi vì quá cá nhân và riêng tư nên nó vô tình làm hiển lộ một vùng ký ức khác, hết sức rộng lớn, âm u và dai dẳng, dòng bi ký của lịch sử dân tộc mà con người thuộc về, và có thể hơn thế, của cả lịch sử nhân loại. Sự chồng lấn ấy cho phép quá khứ hiện hữu cùng hiện tại, cùng với hiện tại, nó xác định sự tồn tại có lý do của con người dù anh ta không ngừng phản tư về điều đó. Ký ức được tự do lựa chọn những miền nhớ và biểu hiện theo cách riêng, có khi như một âm thanh, một hình ảnh sống động vụt hiện, có khi như một cảnh tượng vô cùng mơ hồ, lạ lùng, một tiếng nói thì thào vụn vặt kéo dài:

– Trời tối rồi

Những đứa trẻ bỏ cuộc chơi ra về

Khi nghe mẹ gọi

Một đứa còn ngồi lại

Đếm những hòn bi ăn được

Trước căn nhà vắng lạnh của mình

(Tuổi thơ)

– Khi anh trở về

Người vợ đã chết

Vết máu khô trên ngực

Trong bụi tre cú rúc liên hồi

(Làng quê)

– Một tai nạn khủng khiếp

Chỉ một người sống sót

Kể lại bí mật

(Buổi chiều)

– Khi trong đêm

Một người về gõ cửa

Thấy mùa hè đi qua trên một lưỡi dao…

Không ai biết cuộc chiến tranh của chúng ta

Vừa bắt đầu trên một xứ sở khác

(Ngày của em)

Trong cõi nhớ này, các chiều kích không/ thời gian vừa tiếp nối vừa song hành, vừa tuần tự vừa bất định. Chúng có thể kéo dài miên man đồng thời cũng liên tục thay đổi, tựa như những phiến phong cảnh không ngừng đổi thay khi ta nhìn qua ô cửa toa tàu trên đường xa vạn dặm. Đó là hành trình tâm tưởng, nó không bị (và không thể) găm cứng bởi bất kỳ cái mốc hạn định nào. Nó liên tục vận động, chảy trôi, không ngừng va đập trong những xúc cảm trái ngược, trong nỗi hoài nhớ và cảm giác bất an thường trực (đó là lý do khiến bài thơ đôi khi hơi loãng ý và dài dòng). Tựu trung, đó là ký ức của một cá nhân chưa bao giờ (trong ý thức và có lẽ, trong cả vô thức) lìa xa cội rễ đã sinh thành ra nó – một bối cảnh đầy máu và nước mắt của lịch sử dân tộc và từ trên những vách đá chất ngất đau thương, thù hận, biết nở ra những đọt mầm của hy vọng.

Nếu tính chủ quan được xem như một đặc thù thể loại của thơ trữ tình (theo quan niệm truyền thống và phổ biến) thì ở thơ Nguyễn Đức Tùng, tính khách quan mới là đặc trưng nổi bật. Tính khách quan được thể hiện từ phương diện ngôn ngữ đến cách tái hiện hình tượng, tình huống, sự kiện… Đọc thơ ông, độc giả dễ có cảm giác dường như tác giả tập trung đến việc kể/ tả/ phân tích hơn là việc giãi bày xúc cảm hoặc thổ lộ cái tôi. Sự việc được đẩy lên bề mặt của văn bản với tất cả những đặc điểm, tính chất khách quan, tự nhiên nhất. Tác giả dường như chỉ làm mỗi một việc là trình bày sự việc ra trước độc giả như nó là, không tô vẽ, không thêm bớt. Và ông thực hiện điều này rất đỗi tự nhiên. Hãy lấy một ví dụ, bài Trên đường:

Lái xe trên đường

Đêm tối mù, mưa rơi

Xe đánh ầm một tiếng, giật nẩy lên

Khựng lại, quay nghiêng

Rồi vọt tiếp, đang vội

Chắc chắn tôi đã cán chết người

Nhưng không ai biết. Đêm tối đường

Trơn mưa rơi mù mịt

Tôi định chạy luôn. Nhưng

Nỗi sợ hãi dâng lên. Một điều gì

Chặn ngang ngực. Tôi quay xe lại

Đậu bên kia đường. Bật đèn

Nhấp nháy. Tôi thận trọng run rẩy băng qua đường

Kẻ bị tôi đụng phải

Đang chậm chạp đứng dậy

Nhưng đó không phải là một người.

Bằng thủ pháp hãm chậm, nhà thơ đã kéo giãn khoảnh khắc “Xe đánh ầm một tiếng, giật nẩy lên”, khiến nó trở nên như vô tận. Nhân vật kể chuyện (và cả độc giả) như mê mụ đi trong sương mù cảm giác, đến tận dòng kết mới choàng tỉnh: “Nhưng đó không phải là một người”. Nhìn bề mặt, bài thơ dường như thuần túy thuật truyện, nhiều chi tiết sắc lạnh, “rất Tây” (xin đặc biệt lưu ý cách diễn đạt ở câu cuối). Nhưng sự thật đấy là một diễn trình giải phẫu tâm lý rất nhanh, rất nhà nghề, dứt khoát và rành mạch, thể hiện ngay trong hình thức ngắt nhịp giật cục đầy bất thường của hàng loạt câu thơ. Chỉ một khoảnh khắc mà như vô tận. Và trong khoảnh khắc ấy, con người phải đối mặt với bản chất cố hữu: nỗi sợ hãi, đớn hèn, thói vô trách nhiệm, sự bất lương, tráo trở. Tuy nhiên, cuối cùng, trong tình huống giả định ấy, lương tri con người đã chiến thắng: “Tôi quay xe lại”. Và đã được đáp đền. Nhưng đấy vẫn là một kết thúc để ngỏ. Bởi nếu đó là một người? Cơn ác mộng chưa kết thúc.

Tất nhiên, ấn tượng về sự khách quan “như thực” này chỉ có thể được tạo ra bởi một nhãn quan và kỹ thuật viết độc đáo (mà tôi sẽ nói cụ thể hơn ở phần sau) chứ không đơn thuần là sự sao chép hiện thực. Tính trữ tình trong bài thơ được thể hiện thông qua bức tranh đời sống được mô tả và cùng điều đó, nhà thơ đồng thời trao quyền diễn giải rộng rãi cho người đọc. Ở đây, ta thấy một tư tưởng: chỉ khi đời sống hiện diện như nó là, người ta mới có thể cảm nhận và thấu suốt – một cách trọn vẹn, ngay lập tức – về sức mạnh, vẻ đẹp cũng như giá trị của nó.

Nhưng có phải chỉ đến Nguyễn Đức Tùng mới xuất hiện lối viết này? Không phải. Ngay từ thời Thơ mới, lối trữ tình bằng hình thức kể chuyện đã khá phổ biến trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Nhược Pháp, TTKH… Thời thơ kháng chiến, ta cũng rất quen với những Núi Đôi (Vũ Cao), Màu tím hoa sim (Hữu Loan), Cuộc chia ly màu đỏ (Nguyễn Mỹ), Hơi ấm ổ rơm (Nguyễn Duy)… Không thể nói những bài thơ này thiếu sự kể, tả sinh động, chân xác. Vấn đề là, ở đây nhu cầu tả thực luôn bị át đi bởi nhu cầu trữ tình, và trữ tình một cách “thiết tha”, “nồng nàn”. Trong thơ Việt Nam đương đại, cũng không thiếu những cây bút trữ tình bằng hình thức tự sự. Lê Văn Ngăn, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Inrasara… có nhiều bài thơ viết theo lối này. Nhưng dường như ngay khi tả thực, thậm chí cực thực, nhiều bài thơ của họ vẫn nhằm hướng đến một cái đích tượng trưng nào đó. Nguyễn Đức Tùng khác hơn: ông muốn sự vật hiện diện trong thơ như là chính nó. Và ông tin sự vật có thể hiện diện như là chính nó. Ông muốn xé toạc tận lõi cái vỏ ẩn dụ trong thói quen tư duy thơ để sự vật trần trần trực sự, không cần bất kỳ một “phụ chú” giãi bày xúc cảm nào. Đây là hướng tìm tòi khá tập trung và ngày càng rõ nét của tác giả này. Trong một liên hệ tự nhiên, tôi nghĩ tới phong cách thơ của một tác giả Mỹ hiện đại mà Nguyễn Đức Tùng đã từng viết rất hay về ông, nhà thơ William Carlos Williams với những bài “thơ đề trên cửa”.

Tuy nhiên, chính khi đi đến tận cùng cái thực, như một nghịch lí, thơ Nguyễn Đức Tùng lại có khả năng gợi ra nhiều chiều suy tưởng, tưởng tượng. Thường được cấu tứ dựa trên một tình huống đời sống cụ thể, bài thơ của ông sẵn sàng phiêu lưu tới những chiều kích liên tưởng mênh mông, không thể kiểm soát. Dẫn ta đi không phải mạch suy lí mạch lạc mà là hình ảnh và cảm giác bất định. Kết thúc bài thơ thường là một hình ảnh lơ lửng, vừa thực vừa hư ảo, hiện lên vào đúng lúc ấy trong tâm trí, theo áp lực vô thức, đánh thức một cảm giác mơ hồ nhưng hữu lí, hoàn toàn bất ngờ so với dự kiến (có thể có) ban đầu.

Sau đây là một ví dụ.

Đêm ngủ trong chùa

Đôi khi con biết mẹ nằm trong đất

Lặng im như hòn đá

Đôi khi con biết không phải thế

Đôi khi con biết mẹ về

Trong chiếc chiếu hoa

Đêm nay ngủ lại trong chùa

Thức suốt đêm đập muỗi

Không con nào chết

Chúng lọt hết qua kẽ tay

Trừ một con

Bay về lúc nửa đêm

Kịp lặng lẽ đẻ trứng xuống

Bể nước đầy cơn mưa cũ

Bài thơ là sự pha trộn giữa kí ức và thực tại. Mơ và thực. Nỗi đau và sự thức tỉnh. Thủ pháp trùng điệp, sự tiết chế tối đa tính từ biểu cảm, cùng những khoảng trắng gián cách văn bản ở phần trên tạo áp lực dồn nén cảm xúc ở đoạn cuối. Sự dồn nén càng trở nên đặc biệt khi chỉ trong hai dòng kết xuất hiện cùng lúc ba tính từ (“lặng lẽ”, “đầy”, “”). Nó làm dậy lên cảm giác mơ hồ, bất an, khắc khoải. Hình ảnh kết thúc bài thơ tô đậm thêm cảm giác hư ảo bởi chính sự tả (cực) thực của nó.

Chúng ta sẽ yêu nhau như thế này chăng? cũng bắt đầu từ một khung cảnh rất cụ thể, từ không gian, thời gian (Ngoài hiên, sau giàn bông giấy, trăng lên); đến hành động con người (Họ ngồi bên nhau suốt buổi chiều; Một người đứng dậy thắp đèn, một người/ Sửa soạn bữa ăn); đến các sự vật (Hai cái muỗng, hai đôi đũa/ Hai ly nước, hai tách trà sữa). Cảnh tượng được mô tả tỉ mỉ, lớp lang như trong một cảnh phim quay chậm, theo những diễn biến hành động của “họ” (tôi lược bỏ một số chi tiết để dễ hình dung hơn tính diễn tiến của câu chuyện): Họ ngồi bên nhau suốt buổi chiều/ Một người đi trước, ra cửa/ Một người theo sau/ Đi chậm rãi/ Ra sân gạch, qua ảng nước/ Họ theo nhau ra tới đường/ Người đi sau/ Vội vươn tay ra/ Người kia/ Vừa chạm tay vào cánh cổng/ Bỗng tuột tay/ Và ngã xuốngTập trung vào các chi tiết nhỏ, với giọng điệu trữ tình trung tính, gần như vô âm sắc, tạo nên khoảng gián cách có chủ ý với đối tượng, tác giả đã làm ngưng đọng bầu khí quyển của hơn 50 năm trước, với hiện thực đời sống dường như chỉ thu gọn trong không gian riêng tư của “ông bà ngoại của tôi”. Được ngưng giữ trong bầu không – thời gian có tính vĩnh viễn, tình yêu con người, biểu lộ qua những cử chỉ quan tâm ân cần, dường như cũng đã trở thành vĩnh viễn.

Khá gần gũi với Bừng ngộ của A. Rimbaud trong cách tái hiện, đan cài cùng lúc nhiều lớp không gian và thời gian của quá khứ và hiện tại, thực tế và ảo tượng, song kết cấu Chúng ta sẽ yêu nhau như thế này chăng? không đứt đoạn quá đột ngột. Sự thực thì nó vẫn tôn trọng trật tự tuyến tính bề mặt trên văn bản. Tuy nhiên, kĩ thuật gián cách và thủ pháp mô tả theo kiểu điện ảnh cũng đồng thời gợi nên những nhận thức, cảm giác trái ngược, đồng thời có tác dụng gợi ra cái mênh mông hư ảo của tình yêu và cuộc đời.

Chọn phương thức trữ tình theo lối tự sự, nhà thơ cũng chọn lựa một giọng điệu riêng, đặc biệt thích hợp để kể những câu chuyện của mình – nhẹ nhõm, từ tốn, bình thản, không cao giọng. Ta hãy đọc Thời gian của một ngày:

Bạn nghĩ một đời bắt đầu từ lúc sinh ra

Đến khi chết. Một ngày bắt đầu từ sáng

Đến khi bạn lên giường, tắt đèn, nằm dưới cơn mưa

Bạn nhớ lại: buổi học đầu tiên, kỳ thi cuối cùng

Nụ hôn ở giữa, cuộc chiến tranh

Những cãi vã, nạn cháy rừng, đứa bé chết trôi mùa lũ

Cuộc khủng bố. Nhưng một ngày không kéo dài cách ấy

Nếu bạn muốn sống nhiều cuộc đời trong một

Không phải chấn thương, khúc quanh, mà chính buổi sáng

Bình yên, ly cà phê quán cóc, thư viết tay, trò chuyện mỗi ngày bên bàn ăn, ngọn đèn bếp ấm, đơn điệu của tình yêu, nhiệm vụ lặp lại

Của tình bạn, tiếng tích tắc đồng hồ, lặp lại, mơ hồ nhớ, hay khắc sâu trong ký ức

Sẽ kéo dài ra cuộc đời bất tận

Như khi người khách lạ, vừa đi vội vã vừa kéo lê va li trên đường

Hoàng hôn xuống, trong rừng, bạn lái xe, trời sắp mưa, bạn phân vân nửa muốn dừng

Nửa muốn không. Và bạn đã dừng lại, và một ngày như thế sẽ dài ra

Ngoài việc tước bỏ tối đa những lời giãi bày cảm xúc trực tiếp của cái tôi hoặc mô tả sự việc theo những diễn biến (như là) khách quan, tác giả thường tập trung vào việc khắc họa tình huống câu chuyện. Các tình huống thường được tạo nên bởi sự bất ngờ của chi tiết đóng vai trò lẫy chốt. Chi tiết này thường nằm ở dòng/ câu cuối, đem lại một nhận thức trái ngược, thậm chí đối lập hoàn toàn với thông báo ta nhận được từ toàn bộ những dòng thơ trước đó. Do vậy, nó tạo nên một kết thúc kịch tính:

Sau chiến tranh

Mỗi khi trời trở gió

Anh thường đau

Ở bắp chân

Không còn ở đó

Câu thơ “bắp chân không còn ở đó” đã được cắt rời để tạo nên sự bùng nổ vào phút chót, lật nhào cái trật tự (tưởng như) bình thường, êm thấm, xuôi chiều trước đó. Đáng chú ý nhất trong bài thơ chính là cái quãng ngắt bất thường ấy. Nó diễn tả thấu triệt nỗi mất mát của con người ngay từ cảm giác về cái trống rỗng hiện diện trong khoảng cách của dòng thơ. Đây thực ra là một kiểu cấu tứ “tân cổ điển”. Kết thúc của bài thơ không trùng với sự kết thúc, khép kín trọn vẹn về nghĩa. Ở những bài thơ dài hơn (về số lượng chữ), chẳng hạn Trong ký ức của chủ tịch xã, Em không muốn về quê, Em… câu kết thúc cũng đóng vai trò như vậy: nó phong kín một cảm giác đau đớn, không thể hóa giải, không thể tan chảy, một nỗi cuồng nộ ẩn sau vẻ bình thản câm lặng.

Rượu vang đỏ thắm là một ví dụ khác:

Khi cuộc cãi vã xảy ra

Cô ném vào mặt anh

Nửa cái bánh pizza

Rồi bước xuống cầu thang

Nửa chừng

Dừng lại

Rất lâu

Vì bỏ quên trên lầu

Cái nút mở chai

Chi tiết cô gái “nửa chừng/ dừng lại/ rất lâu” trên bậc cầu thang sau cơn giận giữ có thể khiến người đọc tò mò. Vì cô hối hận chăng? Vì bối rối và muốn làm lành chăng?… Nhưng hóa ra, lý do đích thực lại là bởi “vì bỏ quên trên lầu/ Cái nút mở chai”. Một nghịch lý hài hước nhẹ nhàng. Ẩn sau đó là một nụ cười. Dẫu vậy, Rượu vang đỏ thắm có lẽ không chỉ là một bài thơ hướng đến mục đích triết lý. Sắc đỏ ấy, bước chân ngập ngừng ấy còn gợi ra một vẻ đẹp dung dị ẩn trong những ấm lạnh đời thường. Kiểu kết thúc ẩn chứa ý vị giễu cợt (đôi khi pha chút mỉa mai) còn hiện diện trong nhiều bài thơ khác: Đi dạo với một nhà văn dưới ánh trăng, Trí thức, Bức tượng…

Dù viết về những đề tài mang tính sử thi như chiến tranh, lịch sử hay về đời sống thế sự, tư cách người quan sát ở ngòi bút này rất rõ. Quan sát để không bỏ qua những chi tiết dù nhỏ nhặt nhưng nhiều khi lại là yếu tố cốt tử tạo nên bản chất đời sống. Quan sát để ghi nhớ, để chứng thực, không phải với tư cách kẻ đứng ngoài vô can mà với tư cách kẻ trong cuộc tỉnh táo, vừa biết nhập cuộc vừa biết đứng tách ra, để nhận thức thực tại một cách rạch ròi, sòng phẳng. Có một sự cứng rắn và kiên quyết, đôi khi mỉa mai ngầm ẩn sau vẻ ngoài lịch lãm, ôn hòa của Nguyễn Đức Tùng. Ông không từ chối mô tả hiện thực lịch sử cụ thể với tất cả sự gai góc, dễ gây xung đột của nó: Chùa trên núi, Sau chuyến nghỉ hè ở New York, Nhịp đập, Ngọn lửa, Những kẻ tra tấn, Trong kí ức của chủ tịch xã, Bây giờ thì bạn đã biết tới, Trong khi chờ Godot, Thăm Trung Hoa, Mùa thu năm 1977, Con mèo, Một điều gì đang xảy ra… Hãy đọc Trong kí ức của chủ tịch xã. Từ điểm nhìn (như là) thuần túy khách quan của nhân vật trữ tình, lịch sử một đất nước đầy bạo lực, chia rẽ, chết chóc đã được tái hiện. Quan sát điểm nhìn này, ta sẽ thấy con người thực chất chỉ là nạn nhân của lịch sử. Nhưng không chỉ thế. Vừa là nạn nhân, họ đồng thời là đao phủ.

Sự mô tả cụ thể và chân xác đối tượng, lột bỏ triệt để những xống áo trữ tình, là yếu tố cốt lõi tạo nên tính khách quan ở những bức tranh đời sống trong thơ Nguyễn Đức Tùng. Những tình huống, chi tiết, hình ảnh được cấu trúc thành một chỉnh thể mà sự liên kết chặt chẽ giữa chúng khiến người ta khó nghĩ tới một hình thức tồn tại khác. Rời ra, chúng chỉ còn là những mảnh vụn vô nghĩa.

Năng lực quan sát tinh nhạy và khả năng khái quát hóa mạnh mẽ từ những điều giản đơn, bình thường, ấy thực sự là sức mạnh của ngòi bút này. Vẫn là cái nhìn quan sát sắc sảo ấy, khi nhà thơ viết/ kể về tình yêu trong Những con rệp:

Ngày thứ hai của tuần trăng mật

Chúng ta ngủ trong một khách sạn rẻ tiền

Những con rệp cắn anh suốt đêm

Bây giờ đây anh nhớ chúng khôn xiết

Khi mỗi lần đi ngang mộ em

Ta có thể nói về nhiều thứ gây ấn tượng ở bài thơ, chẳng hạn, tính tối giản của chi tiết, sự rút ngắn đột ngột trong khoảng cách thời gian, sự tương phản giữa những không gian mô tả… Chúng rất dễ dẫn đến diễn ngôn triết lý quen thuộc về khoảng cách vô tận giữa quá khứ và hiện tại, cuộc sống và cái chết, tình yêu và nỗi đau chia lìa… Nhưng tôi chú ý hơn đến sự đồng nhất khá bất thường giữa bộ ba hình ảnh những con rệp/ khách sạn rẻ tiền/ em (người vợ, đã mất). Hãy thử liên hệ với hình ảnh em trong thơ của Huy Cận, Hàn Mặc Tử… hoặc em trong những câu thơ Nguyên Sa – áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc/ áo nàng xanh anh mến lá sân trường để thấy sự khác biệt. (Dĩ nhiên, cũng có lúc Nguyên Sa có sử dụng hình ảnh suồng sã hơn, chẳng hạn: Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm/ Như con mèo ngái ngủ trên tay anh, nhưng ngay cả khi đó thì cái phẩm tính lãng mạn vẫn tràn trề). Vấn đề không dừng lại ở hình ảnh mà nằm trong quan niệm về tính thơ. Với Nguyễn Đức Tùng, cuộc đời là thế: vừa trần trụi thô bạo vừa ân tình, ân nghĩa, vừa đẹp đẽ cao quý vừa vặt vãnh tủn mủn, vừa nghiêm trang vừa hài hước, vừa có lý vừa phi lý… (ngoài bài Những con rệp nói trên, còn có thể kể đến Thơ tình như một ví dụ tiêu biểu khác). Do đó, tính thơ có thể đến ngay từ trong cái đời thường, cái hài hước, cái thông tục và cái hiện tại. Hoàn toàn không phải một ý niệm tiên nghiệm, khô cứng, nó luôn được mở rộng, được làm mới từ những trải nghiệm sáng tạo khác biệt. Như vậy, sự bất ngờ của tình huống hay sự suồng sã trong các chi tiết kể, tả nói trên, xét đến cùng, là thủ pháp nhằm tạo nên tính thơ theo kiểu Nguyễn Đức Tùng.

Khi ôn tồn âu yếm, lúc châm biếm mỉa mai, khi nhẹ nhõm duyên dáng, lúc đau đớn nghẹn ngào, khi tỉnh táo rành rẽ, lúc phân vân, ngơ ngẩn…, cái phức tạp trong sắc thái giọng điệu cũng tạo nên độ sâu, sức thu hút bí ẩn sau vẻ sáng rõ bề mặt của thơ Nguyễn Đức Tùng. Nhưng ngay cả khi nói đến rất nhiều đau đớn trầm uất, giọng thơ ông chưa bao giờ ngả màu bi lụy, ngược lại, luôn can đảm và đầy sức nặng. Thơ ông nặng trĩu gánh nặng quá khứ nhưng luôn mang tinh thần hướng về hiện tại. Ấy là thơ của một người dường như đã sống trải qua mấy kiếp đời nhưng vẫn giữ vẹn nguyên linh hồn của một đứa trẻ “thức dậy trong anh”. Quê nhà, tình yêu và nỗi đau của ông, cội rễ linh hồn ông, chỉ riêng thuộc về ông, đã được đóng gói nguyên trạng tính từ thời khắc (bị) rời bỏ.

Những câu chuyện thơ của Nguyễn Đức Tùng đẹp một cách mới lạ, độc đáo song vẫn có một cái gì đó rất gần gũi. Nói cách khác, chúng hiện đại một cách cổ điển. Dĩ nhiên, ảnh hưởng của thơ phương Tây ở thơ ông là không thể phủ nhận. Sắc thái “Tây hóa” thể hiện trước hết trong tinh thần tôn trọng tính khách quan của sự vật và cái nhìn giải phẫu đời sống cặn kẽ và giàu lý tính. Đây mới là điều tạo nên cái lạ (và mới, hiểu theo nghĩa là một giá trị) trong tinh thần, tư tưởng thơ của Nguyễn Đức Tùng chứ không phải ở cách sử dụng các vật liệu phương xa như hoa forsythia, trạm xe điện, bill điện thoại, bánh pizza… (Nếu tính về chất liệu thì sự thực là chất liệu truyền thống, do sức mạnh của hồi ức, lại có phần lấn át với số lượng những chiếu hoa, bể nước, bụi tre, thang thuốc bắc, bến đò, đồng tiền kẽm, cuốn Kiều, ngôi chùa…). Dĩ nhiên, cũng cần kể tới những cấu trúc ngôn ngữ khá lạ tai, thậm chí gây cảm giác giống thơ dịch, in đậm dấu ấn kiểu tư duy và diễn đạt của một người từng sống lâu ở nước ngoài. Song, nhìn một cách bao quát, yếu tố quen và lạ, truyền thống và hiện đại, phương Đông và phương Tây dường như vẫn tìm được một sự “hòa giải” và hòa hợp khá tự nhiên trong thơ Nguyễn Đức Tùng. Bên cạnh thơ tự do, thơ văn xuôi, Nguyễn Đức Tùng còn sáng tác theo nhiều thể khác, chẳng hạn lục bát, tứ tuyệt, ngũ ngôn, thất ngôn, trường ca, haiku… Bên cạnh xu hướng nới rộng, kéo dãn dòng thơ, câu thơ theo hướng văn xuôi hóa, ông còn tìm tòi theo hướng ngược lại – cô đúc chữ tới mức cực hạn trên một số văn bản. Điều này cho thấy tinh thần dụng bút khá thoải mái của tác giả. Dường như ông không bị (và nhất định không chịu để bị) chết cứng ở một hình thức/ lối viết (xin nhắc thêm, ngoài sáng tác thơ, Nguyễn Đức Tùng còn là một nhà phê bình sắc sảo và là một tác giả tùy bút tinh tế, tài hoa). Tuy nhiên, riêng ở thơ, tôi nghĩ thơ tự do, thơ văn xuôi mới là mảng bộc lộ sắc nét nhất tinh thần Nguyễn Đức Tùng.

Thơ đến từ đâu? Thơ cần thiết cho ai?… là câu hỏi mà Nguyễn Đức Tùng từng đặt ra cho nhiều người trong những cuốn sách đã xuất bản trước đó. Từ góc nhìn của mình, tôi nhận ra Thơ, với ông, hẳn đã đến từ những câu chuyện của ký ức, rộng lớn và bí ẩn, đôi khi tăm tối bởi những nỗi đau và vết thương rách xé, song luôn được rọi sáng bởi lương tri và tình yêu đối với đời sống và con người, và bởi vậy, nó làm nên căn cốt và sức mạnh tinh thần của hiện tại. Do đó, thơ cần thiết trước hết là cho chính ông – một nghệ sỹ, một trí thức. Nhưng đồng thời, khi đó, thơ cũng trở nên xiết bao cần thiết cho người đọc, những người muốn tìm thơ để làm đầy hơn cảm giác sống và để biết rằng, thơ đôi khi rất giản dị, như chính những câu chuyện của đời sống con người.

Vinh, 20/8/2022

L.H.Q

Comments are closed.