Trần Kiêm Trinh Tiên
Dáng xưa (minh hoạ của Đinh Trường Giang)
Buổi chiều, trước khi đi, tôi giao thêm cho Hải Âu hai chiếc mền quilt vừa may xong.
– Nhóm mình còn cần thêm một cái nữa cho bà cụ Dorothy bên nhà thờ cô ạ.
– Ừ, con gom hết vải vụn bên con đưa cho cô, tuần sau đi về cô sẽ làm xong trước Christmas.
Hải Âu dè dặt hỏi tôi:
– Cô ơi, dạ cô đi thọ bát quan trai?
– Cô đi thăm người chị bà con, lâu lắm rồi cô không gặp.
Thấy Hải Âu vẫn băn khoăn, tôi nói thêm:
– Từ đây, cô chỉ bay ba tiếng là tới. Con yên tâm!
Tôi nhận ra chút thương cảm trong đôi mắt của cô bé.
Ở nơi đây không có gia đình thì chi bằng làm kiếp chim để bay về xứ nắng. Mẹ của Hải Âu là cô bạn hàng xóm xưa của tôi. Nhà Hải Yến chỉ cách bên tôi một hàng chè tàu. Hàng chè tàu quanh năm xanh um, đầu mỗi nhánh lá thường kết chùm hạt li ti màu vàng. Thuở nhỏ chơi mua bán, Hải Yến thường hái những hạt li ti ấy làm hạt kê, tôi đi chợ mua kê về cho mạ nấu chè cúng Tết Đoan Ngọ. Tuổi thơ mải mê chơi quên cả mặt trời đứng bóng. Mẹ tôi hay dặn con gái không được leo cây giữa trưa. Thế nhưng có buổi trưa hè nào mà vắng bóng hai bạn trên cây khế ngọt ở vườn sau, không quên bỏ theo gói muối ớt thiệt cay trong túi áo?
Ít năm sau, lớn hơn, chưa kịp có nhiều điều để tâm sự cùng bạn thì Hải Yến đã đi lấy chồng. Tôi chỉ được gặp lại bạn vào dịp Tết hay những lần bạn về nhà mẹ sinh nở.
Nay sang đây, thật tình cờ, chúng tôi lại vẫn là hàng xóm của nhau, cùng làm việc thiện nguyện trong khu phố.
Một lần, Hải Âu ngây thơ kể với tôi:
– Mẹ con hay nói đời mẹ con như chiếc thuyền đi trên mặt hồ, nào có biết thác biết ghềnh là chi.
Tôi cười xoa đầu con bé:
– Cô cũng cầu chúc con sẽ được như mẹ của con.
Hải Âu vẫn còn băn khoăn:
– Như thế nào mới biết là mình yêu hả cô?
Tôi nhìn sang Hải Âu, cháu đang ngồi ôm chiếc mền quilt nhiều màu tôi vừa giao. Khuôn mặt của cháu thật bình lặng. Cô bé chưa hề hỏi tôi cô có yêu ai bao giờ. Hải Âu đang ở tuổi hai mươi. Quãng đời ấy của tôi đã ở phía bên kia của ngọn núi.
*
* *
Qua khỏi chiếc cầu đá, Timothy dừng xe trong sân nhà thờ, dưới gốc cây ngô đồng đã rụng hết lá. Dáng những cành cây mảnh khảnh lấm tấm nụ hoa in trên nền mây, như nét mực tàu phác vội trên tấm lụa màu ngà. Tôi cúi nhìn vạt áo dài nâu trông buồn hắt hiu trong nắng hanh.
Sáng nay cha Duy Ân gọi vào Ty nhờ giúp. Con heo giống Yorkshire duy nhất trong làng trở bệnh nặng.
Timothy gọi hoãn chuyến máy bay đi Nha Trang sẽ cất cánh lúc mười một giờ trưa. Anh chuẩn bị một số thuốc men cần thiết rồi đi cùng tôi. Thật ra đây không phải là phần việc của anh. Anh giúp tôi làm thay cho Nhân đang nghỉ phép cưới vợ.
Cha Duy Ân đưa chúng tôi đến nhà bác Non. Căn nhà của bác lạnh tanh.
– Chiều qua tui dẫn đi bên làng Liễu Hạ về thì bủi túi[*] bỏ ăn, khuya lại là sốt.
Con Yorkshire đang lên cơn sốt cao. Cả bầu trời của bác đang ở nơi đây. Nơi đây không có ngày ba mươi Tết.
Bác chăm chú nhìn tôi đang giúp Timothy soạn thuốc và kim chích. Trên khuôn mặt gầy gò chi chít nếp nhăn của bác thật khó tìm được dấu vết một ngày vui. Con Yorkshire thở khò khè, nằm im giữa đám rơm khô. Lúc mang bao tay, Timothy bảo tôi sẽ giúp anh lúc nào anh cần. Anh bước vào chuồng đến ngồi cạnh và quan sát từng chân móng đỏ ửng của nó. Mớ tóc nghiêng màu hạt dẻ của Timothy nổi bật trên màu rơm vàng. Anh ra dấu cho tôi trao ống kim. Bác Non dập điếu thuốc đang cháy xuống nền đất.
– Nhờ cô hỏi ông thầy có cần tui phụ chi không?
Timothy lắc đầu ra dấu. Hai năm có dịp làm việc chung ở Ty, ai cũng quý sự tận tình của anh. Tính anh vui vẻ nhưng ít nói. Những lần đi công tác chung, các bạn trẻ thường trêu:
– Ông Tim lái xe chậm vì sợ chị Hiên chóng mặt.
Ngồi bên cạnh Timothy, bác Hữu quay lại, ra dấu đừng đùa.
Có lần vui chuyện bác nói:
– Tui biết ông cụ của chị Hiên.
Bác Hữu sắp về hưu. Cuộc đời bác đi nhiều, sở học của bác sâu, bác sống một đời giản dị và nhân hậu. Thầy tôi quý tấm lòng của bác đối với cỏ cây. Từ ngày cụ Thượng Hà qua đời, mất bạn, thầy tôi buồn lắm, suốt ngày chỉ quanh quẩn trong nhà. Những hôm có bác ghé qua thăm, thầy tôi vui cũng được mấy ngày.
Bây giờ tôi mới hiểu ra chữ “biết” tinh tế của bác khi nhắc đến thầy tôi. Hôm qua, giữa buổi cơm trưa, lựa lúc thầy tôi vui, mẹ tôi nhẹ nhàng kể về Timothy. Không ngờ, thầy tôi buông đũa, đứng dậy:
– Con nhà gia giáo không lấy chồng Mỹ!
Mẹ lặng thinh theo thầy bước lên nhà trên, hai con mắt ngấn nước. Mẹ tôi đã quen cam chịu. Tôi biết như thế là có khi cả tuần thầy tôi sẽ không bước xuống nhà dưới. Thường mẹ tôi dọn cơm lên tận phòng, rồi năn nỉ thầy tôi cầm đũa. Tôi vào bếp, trở mớ gừng mẹ đang đặt trên lửa than riu riu. Ngoài vườn trưa, gió lạnh thổi quanh gốc mai vàng sai nụ.
Đúng ra giờ này anh đã đi nghỉ ở Nha Trang. Tôi biết anh rất yêu thành phố biển hiền hòa ấy. Tiếng đại bác về đêm như đã tan đi trong gió ngàn. Đêm yên tĩnh. Anh dỗ được giấc ngủ trong âm vang của sóng. Tôi ái ngại cho chứng bệnh mất ngủ của anh. Có lần tôi nói với Timothy:
– Hiên mong anh rời Huế sớm.
– Tại sao?
– Để cho anh đỡ bị chiến tranh ám ảnh.
Anh nhìn tôi lo âu. Như anh không muốn nhắc đến ngày về.
Tháng Tư. Chỉ còn sáu mươi ngày nữa là tròn ba năm. Một ngàn ngày, anh đã ghé qua một đất nước chưa có một ngày ngưng tiếng súng.
*
* *
Lần đầu tiên đi công tác chung với Timothy, anh kể về người cha của mình, trung úy Gregory, đã nằm lại bên bờ biển Normandie chỉ một tháng trước khi Thế chiến lần thứ Hai kết thúc.
Thỉnh thoảng anh kể cho tôi nghe về nơi anh lớn lên, thành phố ấy cũng có những con đường nhỏ rợp bóng mát giống như Thành Nội của Hiên.
Timothy thích nhất lúc đi học về, đi bộ ngang qua những ngôi nhà cổ ẩn sau khu vườn đầy hoa trái. Trường đại học UC Davis của anh cũng đầy bóng cây xanh. Đi xa, Timothy nhớ nhất là tiếng chuông đồng hồ của trường thường ngân nga vào mỗi đầu giờ. Đứng ở ngõ ngách nào cũng nghe được Hiên biết không? Cứ làm mình sốt ruột, nhất là vào mùa thi… Tiếng chuông ấy như muốn hỏi mình
– Đã học bài chưa? Đã học bài chưa?
Tôi bật cười vì ý nghĩ ngộ nghĩnh của Timothy.
– Trường anh học cách nhà anh bao xa?
– Bằng từ cầu Tràng Tiền vô nhà Hiên.
Tôi không hỏi thêm, chỉ thầm ước sao cho tôi đến được nơi ấy để tìm lại dấu vết thời tuổi trẻ thanh bình của anh, tìm lại niềm yêu đời thiết tha của anh trong từng trang sách học hay nơi mỗi ngày Timothy phải thực tập với những con thỏ, những con bò mang mỗi con số khác nhau, ký hiệu riêng cho từng công trình nghiên cứu…
Tôi chưa dám kể với Timothy thầy tôi đang giận tôi vì lời ngỏ của anh. Thôi hãy để sau Tết.
Tuần rồi đi giỗ bên phủ về, mẹ tôi kể có gặp bà Đốc Sanh, thầy tôi gọi bà bằng cô. Bà nói nhỏ với mẹ bên gia đình thầy trợ Khiêm có nhờ cô hỏi giúp cho việc xin đi bỏ trầu cháu Thư Hiên. Gia đình người ta hiền lành, đạo đức. Mẹ kể, tôi nghe, nhưng chỉ lặng thinh. Tôi không dám làm mẹ buồn. Thầy mẹ đã già, chỉ có một mình tôi. Mỗi khi bàn đến việc chồng con với tôi, mẹ thường nói xa gần “Mẹ không nối tóc hai đời nuôi con”.
Từ làng bác Non về, Timothy đi cùng tôi đến nhà anh chị Văn. Anh Văn quen Timothy từ lúc anh đi tu nghiệp ở Mỹ. Nhà anh chị ở trong cư xá dành cho các giáo sư đại học. Chị Văn là chị họ của tôi. Gặp tôi, chị đã hỏi ngay:
– Chị nghe cậu không đồng ý phải không?
Tôi nhẹ gật đầu. Chị lặng thinh chiên nốt mấy cuốn chả giò. Tôi phụ chị dọn thức ăn ra đĩa. Như chợt nhớ điều gì, chị quay lại:
– Hay là để ra năm, anh chị xin qua gặp cậu mợ. Hiên thấy được không?
– Dạ chị.
Anh Văn nói chuyện với Timothy ở phòng bên. Có tiếng dương cầm rất nhỏ từ phía sau kệ sách. Nơi ấy, trong chiếc bình sứ màu rêu đất, chị Văn chưng mấy nhánh cây khô. Ôi lại Schumann! Âm thanh của nỗi quay quắt. Thương quay quắt. Đau quay quắt. Những nốt nhạc như sóng biển. Ra đi rồi quay trở lại… Sao xứ sở của riêng tôi bao giờ cũng hoang vu như rừng đại ngàn? Với tôi, hạnh phúc hiếm hoi như giọt sương trên đầu ngọn lá cháy khô.
Trong bữa ăn, chị Văn cố gợi chuyện cho tôi vui. Timothy nhìn tôi, thoáng chút băn khoăn. Anh Văn nhắc đến buổi họp mặt vào chiều Mồng Hai rồi nói đùa sẽ bắt Timothy hát bài Cái trống cơm. Timothy nhìn tôi cười. Chị Văn hy vọng chắc vui lắm. Sẽ là một buổi nhạc thính phòng bỏ túi. Có mời cả vài người sinh viên, học trò của anh Văn. Trong đó có chị Nhã Nam, chị hát Dạ lai hương của Phạm Duy hay tuyệt vời.
– Nhớ qua với chị nghe Hiên!
Tiễn tôi ra cửa, chị Văn còn nhắc.
Lên xe, Timothy đề nghị anh đưa tôi về thẳng nhà tôi. Tôi từ chối.
Khi về đến Ty, chiếc xích lô của bác Gạo đang chờ tôi bên gốc cây phượng già. Tôi nói với bác qua khung cửa xe:
– Cháu còn thu xếp vài giấy tờ, bác đợi cho cháu thêm mười phút!
Ở nhà, giờ này mẹ tôi đã bắt đầu nấu cúng chiều ba mươi. Vào đến văn phòng, tôi vội vàng trao cho Timothy món quà lần đầu tiên tôi tặng anh. Tôi chưa kịp ngăn, Timothy đã vội mở chiếc hộp.
Anh xoay chiếc cà vạt bằng lụa màu xanh biển tối thẳm về phía ánh đèn:
– Hiên chọn màu khéo lắm. Sao Hiên lại biết màu anh thích?
Ẩn sau nụ cười thật tươi của Timothy là đôi mắt ướt:
– Cám ơn Hiên!
Thế mà tôi đã đắn đo không biết bao nhiêu ngày. Tặng quà như thế có vội vàng quá không? Có thân mật quá không dù anh đã ngỏ lời yêu tôi? Tôi giấu lòng mình như loài sóc giấu quả trong đất. Tôi là người ngăn đê vụng về, đắp bao nhiêu rồi nào có kịp với nước sông dâng?
– Bao giờ anh được đến thăm Hiên? Ngày mai, Mồng Một Tết được không?
Năm ấy, chiều Ba mươi Tết nhằm ngày Thứ Hai. Tôi dịu dàng nói với Timmy:
– Hiên gặp anh chiều Thứ Tư, Mồng Hai Tết ở nhà chị Văn.
Timothy gật đầu, cầm món quà trong tay:
– Anh sẽ mang vào ngày Thứ Tư!
Hôm đi phố chọn quà cho anh, trí tưởng tôi mải miết rong chơi trên cánh đồng tình yêu chưa một lần biết qua khúc tình sầu. Biết đến bao giờ tôi mới được tự tay chọn màu áo cho anh? Chỉ còn hai tháng tròn…
Timothy trao cho tôi chiếc hộp vuông nhỏ xíu anh lấy từ trong túi áo.
– Hiên có thể giữ giùm anh? Của mẹ cho anh…
Tôi ngạc nhiên nhìn Timothy. Trên vuông vải nhung bé tí màu đỏ là sợi dây chuyền với chiếc thánh giá bằng bạc.
– Sao anh lại đưa cho Hiên?
– Đây là kỷ niệm của một lời giao ước.
Ôi Timmy! Tôi không cầm được nước mắt. Nắng chiều sắp tàn bên hiên.
Timothy lặng nhìn tôi, xao xuyến. Ôi Timmy! Em là con chim khản tiếng, đang tìm tiếng hót mình trong bụi gai!
Tôi nắm chặt bàn tay anh rồi quay vội ra cửa. Timmy bước theo sau, đứng tiễn tôi bên gốc cây phượng già.
Bác Gạo đang chờ, mũi xe đã quay về phía cổng. Nhìn sang vườn hoa bên kia đường, bên sau hàng phượng, khói sương đang phủ dần mặt sông. Ngày ấy sao quá vội vàng đến không nói được với nhau lời chia tay?
Ngày… tháng… năm…
Trong phòng em, chiếc áo dài lụa Hồng Hoa màu vàng, đôi giày escarpin màu trắng dành cho chiều Mồng Hai em đến gặp anh. Thuở ấy con gái Huế vẫn mặc áo dài lụa giữa mùa đông, khoác thêm áo len bên ngoài với khăn quàng cổ.
Em nhủ lòng mình lần này gặp anh, em sẽ thôi không làm loài sóc dấu quả. Chiều về, mình có thể đi bộ chung một quãng đường. Nếu còn giờ, em sẽ đưa anh đi qua con đường có hàng muối âm u. Dù chiều còn lưu luyến chút ánh sáng trên đầu ngọn cây nhưng đứng dưới táng lá thì đêm đã về. Em sẽ biết nói với anh về những giấc mơ chẳng bao giờ có trong đời thật.
Mở chiếc hộp kỷ niệm của ba mẹ anh mà thấy thương anh.
Nửa đêm, em đi ngủ chưa được bao lâu thì cả nhà đều giật mình thức dậy vì tiếng súng. Súng nổ rền bốn phía không ngớt, cho đến gần sáng. Có những tiếng nổ lớn như tiếng bộc phá khiến con Mực hoảng sợ, sủa inh ỏi. Thầy vặn thử radio như những khi Sài Gòn có đảo chánh nhưng không bắt được làn sóng. Không ai đoán được chuyện gì đang xảy ra. Mẹ trải chiếu dưới gầm bộ ngựa gõ cho cả nhà nằm tạm. Lòng em như lửa đốt. Mẹ nhắc em niệm Phật. Em không còn nhớ nỗi một câu kinh. Ôi Timmy, sao em cứ mãi lo sợ điều bất trắc xảy đến cho anh?
Khi tiếng súng thưa dần, thầy nhận ra có nhiều bóng người đi lại ngoài đường.
Sáng Mồng Một, người chỉ huy của họ vào xin phép cho họ tạm đóng quân trong vườn. Những khuôn mặt trẻ. Có những người còn rất trẻ với làn da thiếu nắng. Họ bắt đầu đào những hầm chiến đấu cá nhân ngoài đường, sát hàng chè tàu của mỗi nhà. Họ chỉ xin dùng nhờ nước giếng sau vườn. Thỉnh thoảng họ ghé vào ngồi trước hiên. Họ từ chối không vào nhà dù thầy mẹ có ra mời. Chỉ người chỉ huy của họ nói chuyện với thầy. Họ đi lại trong im lặng. Mỗi khi trực thăng bay ngang qua, nếu có ai đứng đâu đó trong vườn, họ liền thoắt đến ôm gọn gốc cây, nhanh như mèo, miếng vải dù màu xanh phủ trên lưng.
Em vào phòng, mang sợi dây chuyền của anh, chiếc thánh giá giấu trong cổ áo.
Ngày… tháng… năm…
Ngày Mồng Hai, trời mưa lâm thâm khiến chiều mau tối. Không còn ngày thứ Tư bình yên cho em gặp anh, cho em biết màu áo nào anh chọn cho chiếc cà vạt lụa màu xanh thẳm. Hôm nay bác Gạo ghé qua nói có người cho hay cầu Tràng Tiền đã gãy rồi. Đạn pháo kích vẫn bay qua bầu trời nội thành. Lúc đạn gần đến đích, có thể nghe được cả tiếng xé gió dần chậm lại của đầu đạn. Tiếp đó là tiếng nổ long trời. Chỉ cầu mong sao cho đêm qua nhanh, cho ngày mau tới. Hình như ánh sáng mặt trời xoa dịu được phần nào nỗi lo sợ. Một vài con chim sẻ về đậu trên nhánh sầu đông đẫm nước mưa. Ước chi em hóa thân được thành loài chim ấy. Để đi tìm anh… Súng vẫn nổ. Không ai biết điều chi sẽ xảy đến, dù chỉ trong vài phút tới.
Ngày… tháng… năm…
Đã qua nửa tháng giêng. Mình vẫn bặt tin nhau. Tình hình chiến sự ngày càng gay gắt. Mỗi buổi chiều, cứ đúng bảy giờ rưỡi tối, thầy mẹ và em chui xuống gầm bộ ngựa gõ, chụm đầu lại để dỏng tai nghe tin tức của Đài BBC. Tám giờ tối thì có émission tiếng Việt của đài VOA. Những trận đánh đang diễn ra khắp nơi.
Trong số những người đóng quân trong vườn, tình cờ em quen o Lê. Mỗi buổi trưa em thường xuống bếp sắc thuốc Bắc cho mẹ. Một hôm, có tiếng nói vọng vào từ bên giếng:
– Chị sắc thuốc làm em nhớ mạ em. Khi mô sắc thuốc mạ em cũng dặn cứ để cho thuốc sôi âm u.
Em ngạc nhiên vì cách dùng chữ. “Sôi âm u”, chữ “âm u” nghe hay quá. Đứng ở khung cửa bếp là một cô gái trẻ, hai bím tóc cuốn gọn thả chấm vai. Sau này em mới biết tên cô là Lê, đồng đội hay gọi là “o Lê”. Lê có đôi mắt vui, khuôn mặt hiền hậu.
Có hôm Lê nán lại ngồi chơi với em lâu hơn. Kéo tay áo dạ lên, Lê khoe với em chiếc vòng đan bằng chỉ thêu đủ màu.
– Em làm hai chiếc. Chiếc tê thì em mang cho anh ấy trước hôm anh thoát ly.
Lê quay ra nhìn cây khế sau vườn:
– Tụi em hẹn ngày hòa bình về lại sẽ cưới nhau.
Nắng trưa xôn xao trên vũng nước đọng bên giếng. Đó là lần cuối em gặp Lê. Những người lính đóng quân trong vườn nhà em đã bắt đầu rút đi.
Sáng nay có bác Gạo ghé qua báo cho thầy nhiều tin đồn mới. Có nhiều trận đánh trong Đại Nội. “Thầy X., giáo sư trường trung học Bồ Đề, đi theo Mặt trận, chừ thấy có về, râu dài tới rún…”. Tin chuyền tai chị Ái, dược sĩ, có tiệm thuốc tây bên ngoài cửa Thượng Tứ bị chết vì nhà bị trúng bom. Anh chàng Bossu chuyên chơi đàn và đánh trống nhà ở gần rạp Bà Tuần cũng chết rồi…
Ôi Timmy, anh có làm thế nào để đến được MACVY không?
….
Ngày… tháng… năm…
Hôm qua đã có phà bắc tạm trên sông Hương, nối đoạn cầu Trường Tiền bị gãy. Buổi sáng, cả nhà quá mừng lúc thấy anh chị Văn đang đi vào ngỏ. Mẹ nắm tay chị Văn, ứa nước mắt. Chị không còn dáng khuê các thường ngày. Đôi mắt chị thâm quầng. Tóc anh Văn như càng bạc nhiều thêm. Anh chị ghé qua vội vàng vì còn phải thăm vài nơi để về cho kịp trước mười hai giờ trưa là giờ giới nghiêm. Lúc sắp đi, chị kéo em vào phòng:
– Hiên, chị nói chuyện ni.
Hai bàn tay em rịn mồ hôi.
– Timothy mất rồi. Chiều mồng hai Tết.
*
* *
Chị Sophia đón tôi ở sân bay. Như trong thư chị viết, lần đầu tiên để nhận ra nhau, chị sẽ mặc áo khoác nâu và quàng chiếc khăn len màu đen tôi đan tặng chị. Còn tôi, mang sợi dây chuyền cùng chiếc thánh giá bằng bạc của mẹ chị ngày xưa. Chị Sophia ôm tôi, hai mắt đỏ hoe. Sự ân cần của chị khiến lòng tôi rưng rưng.
– Hôm nay có con gái chị về trông mẹ để chị đi đón Hiên.
Chị Sophia nói chuyện dịu dàng như Timothy.
– Bây giờ mẹ không còn nhớ gì. Thế là may đó Hiên à. Dường như mỗi ngày mẹ đều kể cho chị nghe một câu chuyện, đâu từ thời xa xưa lắm rồi. Chị biết kể xong là mẹ chẳng còn nhớ.
Kỷ niệm như bóng nắng đi qua trên bức tường ký ức. Sáng lên đó rồi nhạt nhòa. Chắc bà cũng chẳng còn nhớ ông tặng bà món quà gì sau lời tỏ tình thuở họ hai mươi tuổi. Kỷ vật ấy, sau này bà trao lại cho Timothy. Đêm ở vùng cao nhiều gió. Trong không khí quyện ẩm hơi nước có lẫn chút vị mặn của biển. Lâu lắm tôi không đi ra ngoài. Vài ngôi sao bé xíu như những hạt bụi bằng bạc giữa lòng trời khuya mênh mông. Mảnh trăng khuyết chơi vơi bên một góc núi.
Chúng tôi về đến nhà cũng đã quá nửa đêm. Khu vườn nhà chị ngập mùi hương dạ lý. Tôi chạnh nhớ chị Nhã Nam. Không phải chị hát mà như chị đang tâm sự. “…Đêm thơm không phải vì hoa mà bởi vì ta thiết tha tình yêu thái hòa…”. Tiếng hát ấy đã về với đất. Cả nhà chị chung một số phận khi căn hầm bị trúng đạn pháo kích.
Còn Timothy, người ta tìm thấy anh phía sau An Lăng. Hôm tiễn quan tài anh ở phi trường Phú Bài, bác Hữu, đại diện Ty, cho tôi đi cùng với bác. Mùi thuốc khai quang hắc, nồng theo gió bay về từ dãy núi phía tây. Nắng trưa khô khốc. Hai con mắt tôi ráo hoảnh.
Ngày ấy, phải chăng tôi là vết nứt của quả đất vừa khép lại sau cơn địa chấn, đã ôm cả bão tố vào lòng mình? Ôi chiến tranh có biết chăng mỗi trái tim đau thương đều mang nhiều vết cắt sâu?
Cửa sổ phòng khách nhà chị Sophia còn ấm ánh đèn. Claire, con gái chị, mang giúp tôi chiếc va li nhỏ vào nhà. Cô bé cũng không quên mời tôi tách trà chamomile nóng.
– Auntie đi đường có mệt lắm không?
Claire hỏi han tôi như với một người thân đi xa trở về. Nhưng lúc trò chuyện, vẫn thấp thoáng trong mắt cô bé cái nhìn của nhà khảo cổ. Với Claire, có thể tôi là mảng trầm tích lạ lùng vừa được khai quật lên từ lòng đất. Tóc của Claire cũng màu hạt dẻ.
Chị Sophia giới thiệu với mẹ, tôi là bạn của chị.
Mỗi ngày từ sáng sớm, chị đã giúp mẹ chải đầu. Tóc của bà mảnh như tơ. Bao giờ chị cũng vấn cao mái tóc bạc trắng của bà rồi cài bằng chiếc lược giắt bằng ngà.
Chị Sophia nói nhỏ với tôi:
– Timothy tặng cho mẹ trong lần về phép đầu tiên.
Như chợt nhớ ra điều gì, bà quay lại hỏi chị Sophia:
– Bao lâu nữa thì Timmy về hả con?
Giọng nói của bà ấm áp. Chị Sophia nói lảng:
– Con đi hâm sữa cho mẹ nhé!
Như thế là bà đã quên câu hỏi về Timmy. Căn phòng của bà có cửa sổ quay về hướng tây. Mỗi ngày bà vẫn ngồi trên chiếc ghế lắc bằng gỗ của bà ngoại chị, chiếc ghế dễ chừng đã gần trăm năm. Chị Sophia kể mẹ chị thường trầm ngâm ngắm nắng vàng cho đến mãi khi trời tối. Dường như trong thứ ánh sáng huyền hoặc ấy, kỷ niệm trở nên tuyệt vời như chiếc bánh tẩm mật ong vàng óng. Quá khứ và hiện tại trong bà không có biên giới.
– Con biết không Sophia, lần đầu tiên cha của con nắm tay mẹ, trái tim mẹ run như bụi hương nhu gặp gió. Ôi thật buồn cười!
Đôi mắt bà trở nên mơ màng. Như ông vẫn còn quanh đâu đây và bàn tay của bà vẫn còn quyện hơi ấm của mối tình đầu. Dường như bà đã quên rằng sẽ chẳng bao giờ ông còn trở về.
Hôm ấy, một ngày tháng chín. Ông Jean, người phát thư duy nhất trong làng, đến tận trường tìm bà.
– Cô Tanya, may mà gặp cô ở đây!
Bà giấu bức điện mang tin dữ vào túi áo, tiếp tục dạy học cho đến cuối buổi. Không một giọt nước mắt. Trống trường điểm, chị Sophia đến chờ mẹ bên cửa lớp. Chị vẫn còn nhớ sao hôm ấy mẹ lại kéo chị đi nhanh. Ngang qua nhà bà Rose, mẹ vào chào bà rồi ẵm vội Timothy về nhà. Mẹ dọn bánh mì và món khoai tây hầm với một nhúm nhỏ thịt bò cho hai chị em. Buổi trưa, mẹ dỗ Timothy ngủ trên tay mình. Mẹ không hát bài Menuet cho Timothy như thường ngày mà mẹ khóc lặng lẽ cho đến chiều tối.
Sau hôm đó, chị Sophia thích nhất là mẹ sắp lại phòng ngủ chung cho cả ba mẹ con. Chị không còn thấy sợ những hôm trời dông gió. Đôi lần choàng dậy giữa khuya, nhìn sang giường bên, mẹ còn thức đọc sách. Sophia yên tâm nhắm mắt ngủ lại. Mẹ là một mặt trời dịu dàng của hai chị em. Bên phòng làm việc cũng vậy, bàn học của chị được kê gần nơi mẹ ngồi chấm bài. Chị thấy mình lớn hẳn khi nhìn Timothy bò quanh trong cái nôi đầy đồ chơi của nó.
– Cái chuồng ấy bố làm từ lúc mẹ chưa sinh chị.
Timothy thích nhất con ngựa bằng gỗ có bốn bánh xe ở chân. Bố cũng làm đấy Hiên ạ.
Bây giờ nó đứng một mình trên bệ lò sưởi. Nước sơn lâu ngày bạc màu và tróc đi nhiều mảng nên trông con ngựa thật buồn cười.
Không biết tôi đã ngồi lặng bao lâu nơi chiếc bàn học ngày xưa của anh. Có bó hoa hương nhu khô chưng trong bình thủy tinh trong veo hình khối chữ nhật. Bên trên mấy cuốn tự điển dày là bức hình ngày cưới của ba mẹ anh và tấm hình nhỏ màu trắng đen của anh. Anh đang đứng quay mặt nhìn biển. Chiếc hộp đàn violin bằng da màu đen đặt bên cạnh bức tranh anh vẽ bằng màu nước ở trên tường. Hình cậu bé mặc áo trắng, bó gối ngồi nhìn trời sao. Đêm biếc xanh.
Trước hôm ra về, tôi gửi lại chị Sophia chiếc hộp kỷ niệm của ba mẹ chị. Tôi chỉ xin chị cho tôi nhận lại món quà tôi tặng Timmy năm xưa cùng tấm hình đen trắng của anh.
Với tôi, không phải anh quay mặt về biển mà anh đang đứng nhìn dòng sông phủ khói sương của tôi. Bên gốc cây phượng già.
(2003)
[*] buổi tối (tiếng Huế – chú thích của Văn Việt).