13
Một điều bất thường xảy ra phá tan dòng chảy đơn điệu của những ngày tù chán ngắt. Sáng hôm sau, thay vì mấy củ khoai hà lạnh giá, Sứ giả Hòa bình mang vào cho chúng tôi hai suất ăn sáng gói trong giấy báo.
Vào giờ này xà lim còn tối om. Để tiết kiệm điện, ngọn đèn chang chang suốt đêm hành hạ chúng tôi lại tắt ngóm vào đúng lúc chúng tôi cần đến nó hơn cả. Trong ánh sáng mờ mờ rỉ qua cửa thông hơi tôi phát hiện bên trong mảnh giấy báo là hai cái bánh tí hon chỉ nhỉnh hơn quả chuối mắn một ít.
Đành ăn mò vậy. Ăn mò có cái tốt của nó – mình không bị cảm giác gớm ghiếc khi nhìn thấy trong miếng ăn đang đưa vào miệng những vật đáng sợ – những mẩu rác hoặc những con mọt. Thời gian này mì viện trợ dồi dào để lưu cữu trong các kho ẩm ướt, cho nên nếu không mốc thì cũng đầy mọt. Những con mọt đen trũi, xét cho cùng, rất hiền lành, chúng chẳng gây ra sự nguy hiểm nào cho hệ tiêu hóa, nhưng miếng mì luộc lẫn xác mọt vẫn làm tôi rùng mình.
Cầm chiếc bánh lọt thỏm trong tay, tôi ngạc nhiên thấy nó còn ấm. Cắn miếng đầu tiên tôi còn ngạc nhiên hơn nữa: nó không phải là thứ bánh mì chua loét nào đó mà tôi thường gặp, mà là bánh mì trắng thơm phức, lại kẹp ba-tê hẳn hoi.
Và ngon ơi là ngon!
Tôi ăn ngấu nghiến. Cái bánh mì đáng yêu tan ra trong miệng như một giấc mơ.
Thật vậy, cái bánh mì ngon đến mức không thể tin được. Tôi nói như thế không phải trên quan điểm của người tù xà lim thường xuyên đói, thấy cái gì cũng ngon. Nó ngon thật sự, cho dù tôi có ở bên ngoài Hỏa Lò. Bột mì mềm và thơm, vỏ lại ròn, ba-tê tuyệt vời, đến nỗi tôi có cảm giác trong đời mình tôi chưa từng được thưởng thức một món điểm tâm nào ngon đến thế. Tiếc quá, nó hết quá nhanh.
Vào thời gian này thực phẩm ở Hà Nội rất khan hiếm, nói theo các nhà chính trị của Đảng là “không được dồi dào”. Tại các cửa hàng ăn mậu dịch quốc doanh chỉ có một thứ phở, lại là phở chỉ có bánh chứ không có thịt, tục gọi phở không người lái[1]. Để ăn được một bát phở như thế còn phải xếp hàng rồng rắn, có khi cả nửa giờ mới tới lượt. Tất nhiên, ở đâu đó vẫn tồn tại những quán chui có đủ thứ: chim quay, gà tần hạt sen, vịt tần thuốc bắc, ba ba hồng xíu… hoặc chuyên doanh tiết canh, lòng lợn. Những quán chui này, dù là chui cũng không phải dành cho đám cán bộ ba cọc ba đồng chúng tôi. Cho nên nếu tôi có khen cái bánh mì ba-tê nọ là cực kỳ ngon thì cũng không phải ngoa ngôn.
Bữa ăn sang trọng giữa Hỏa Lò làm cho Thành ngạc nhiên không kém. Vừa thưởng thức dè xẻn cái bánh còn ấm trong buổi sáng lạnh giá anh vừa hỏi tôi:
– Lạ thật, sao bỗng dưng người ta lại giở chứng chiêu đãi chúng mình sang thế này? Hay hết chiến tranh rồi mà nằm trong xà lim mình không biết?
Tôi gạt đi:
– Hòa bình rồi thì giấu thế nào được. Hỏa Lò này phải ồn lên chứ. Mới lại, hòa bình đâu có phải tin cần phải giấu.
– Hay là sắp có đoàn kiểm tra đến?
Tôi lắc.
– Người ta sợ cóc gì kiểm tra. Đoàn nào cũng phải sợ Bộ Nội vụ hết.
– Ngộ có kiểm tra quốc tế kìa, Hồng Thập Tự chẳng hạn. Họ đến thăm tù binh, nhân tiện ghé qua thăm tù mình sống ra sao?
– Cái đó khó xảy ra lắm. – tôi cười cái giả thuyết hỡi ơi của Thành – Cho dù Hồng Thập tự quốc tế có đề nghị thì người ta sẽ nói: chúng tôi giam tù thế nào là công việc nội bộ của chúng tôi, không khiến các người xía mũi vào.
– Ừ nhỉ.
Chúng tôi đặt ra đủ mọi tình huống. Đủ mọi dự đoán. Cái nọ phủ định cái kia. Chẳng cái nào có sở cứ.
Một ý nghĩ chợt lóe lên trong tôi: rất có thể cái bánh mì liên quan tới bức thư của cha tôi chăng, tới thái độ ngoan ngoãn của tôi sau khi đọc bức thư chăng?
Khốn nạn, thì ra nó là phần thưởng cho sự đầu hàng!
Tôi nghẹn ở cổ họng. Nước mắt tôi ứa ra.
– Cái bánh mì này ở ngoài kia giờ giá chừng bao nhiêu hở cậu?
Thành hỏi sau khi những dự đoán đã cạn.
– Tôi không rõ. Tôi cũng chẳng biết nó bán ở đâu.
Bánh mì các loại kẹp thịt quay, giăm-bông hoặc ba-tê ngon nhất Hà Nội chỉ có ở hiệu Nguyên Sinh. Tôi đã có lần ăn ở hiệu này, cách đây cũng đã mấy tháng. Khẩu vị của tôi không thể nào thay đổi trong thời gian ngắn ngủi đó, thế mà tôi thấy cái bánh mì này còn ngon hơn bánh mì Nguyên Sinh nhiều. Chỉ có thể nghĩ đây là loại bánh mì đặc biệt, do một cơ sở đặc biệt được ưu tiên cung cấp nguyên liệu làm ra. Tôi là dân thường, cán bộ như tôi không được hưởng những thứ không phải dành cho dân thường.
Người Hà Nội hồi đó đều biết thành phố có mấy cửa hàng cung cấp đặc biệt với sổ mua hàng đặc biệt. Cán bộ trung cao cấp mua ở cửa hàng Nhà Thờ, cán bộ tương đương thứ trưởng trở lên thì mua ở cửa hàng Tôn Đản[2]. Cửa hàng Hàng Trống chỉ phục vụ chuyên gia nước ngoài và cán bộ cao cấp, giám đốc cửa hàng này là bà em ruột Lê Đức Thọ. Hàng hóa ở các cửa hàng cung cấp đặc biệt phần nhiều là đồ ngoại nhập mua bằng tiền viện trợ, không có bán ở ngoài, đã hiếm lại rẻ. Chỉ ở đây mới có sô-cô-la, phó-mát, vải đẹp, nước hoa v. v… Do đó ngoài giá trị thực dụng phiếu mua ở các cửa hàng loại này còn có giá trị như niềm tự hào được khẳng định.
Tôi được nghe một đoạn đối thoại như thế này giữa hai bà vợ ông to:
– Chị đi đâu vậy?
– Em đi Nhà Thờ.
– Chết chửa, chị vẫn còn phải đi Nhà Thờ à? Em tưởng nhà chị được Tôn Đản từ lâu rồi chứ. Nhà em có sổ Tôn Đản đã hai năm rồi. Chị phải nói anh xin gặp anh Sáu đi, thêm một bậc chuyên viên nữa có là bao, anh Sáu cho đấy, chị đỡ vất vả, tội nghiệp quá!
Ấy là người ta khoe đấy.
Tôn ti đẳng cấp phong kiến bị nguyền rủa từ khi có cách mạng được lập lại với cách giải thích nghe hợp lý nhưng khó lọt tai: để cho cán bộ lãnh đạo có sức khỏe tốt đặng phục vụ nhân dân.
Người ta kháo nhau rằng ở Bắc Ninh, hay Bắc Giang không rõ, có mấy nông trường cung cấp đặc biệt dành cho Trung ương, chỉ ở đó mới còn lại giống lúa một thời nổi tiếng trong cả nước như tám thơm, tám xoan, dự, nếp râu, nếp cái hoa vàng… nay hầu như đã tuyệt chủng trước cuộc xâm lấn có lãnh đạo của những giống cao sản cho gạo không ngon nhưng chắc dạ. Cũng chỉ ở mấy nông trường này mới có loại bò giống tốt cho sữa tươi ngon, lợn ỉ chính nòi thơm thịt, hoa quả toàn một loại đặc sản. Tiếng là dành riêng cho Trung ương, nhưng cũng chỉ dành cho Bộ chính trị với các đồng chí Trung ương cổ cánh thôi, chứ không phải ủy viên Trung ương nào cũng được hưởng. Cũng theo lời thiên hạ đồn thì chim bồ câu dành cho các vị được nuôi bằng đậu xanh để ăn cho bổ. Thức ăn cho Bộ Chính trị là các thứ quý hiếm này, do một bộ phận phục vụ riêng lo lắng. Chưa kể các “đảng anh em” luôn quan tâm tới “các đồng chí lãnh đạo đảng bạn” gửi cho những của ngon vật lạ khác.
Ăn cái bánh mì ngon tôi lại nhớ tới bữa rượu suông trên gác nhà Nguyễn Tuân ở đường Trần Hưng Đạo. Đó là bữa rượu tao ngộ. Nhà văn già túm được tôi lang thang gần Nhà hát Nhân dân bèn lôi tuột về nhà, chứ không có hẹn trước.
Ông đang lên cơn phiền muộn vì sự xuất hiện mới đây trên báo chí một con chữ kỳ cục.
– Anh xem đây, đọc đi rồi cho tôi biết ý kiến.
Ông quăng cho tôi một tờ báo chi chít những dấu sửa lỗi. Bài báo được Nguyễn Tuân chú ý bị ông sửa như sửa mo-rát[3]. Cách sửa mo-rát của Nguyễn Tuân rất đặc biệt, không giống ai – từ trong khối chữ chạy ra lề những đường thẳng, đường gẫy, đường ngòng ngoèo, để kết thúc bằng những chữ, những từ, có khi cả một câu. Độ lớn của những lỗi phải sửa phụ thuộc ở tâm trạng nhà văn già. Khi ông bực lên thì một dấu phẩy phải thêm vào sẽ to bằng móng chân gà.
Tôi giả vờ chăm chú đọc.
– Tiếng Việt mình không đến nỗi nghèo, phải không nào? – Nguyễn Tuân giận dữ – Ít nhất thì nó cũng không nghèo đối với trình độ mấy thằng cha cầm bút kém chữ thời nay. Trong tiếng Việt có chữ y có chữ thị. Y chỉ anh đàn ông, thị chỉ chị đàn bà, rành rành. Vậy mà mấy thằng “phó tóm”[4] thất học lại dám nghĩ rằng tiếng Việt ta bần hàn. Mới thương tình đẻ rặn ra cho nó một cái từ kép y thị để chỉ mụ đàn bà phạm tội. Khốn nạn thay cho cái tiếng Việt của ông cha! Bất cứ thằng bỏ mẹ nào cũng đè nó ra mà hiếp được.
Mặt ông khổ sở như chính ông bị xúc phạm.
Tôi cười xòa. Tôi thích ngắm tình yêu chữ nghĩa của Nguyễn Tuân. Tất nhiên, tôi đồng ý với ông. Nhưng cũng tất nhiên, tôi, và cả lớp trẻ tụi tôi, chẳng bao giờ bị dằn vặt, chẳng bao giờ khổ sở như ông chỉ vì một con chữ. ừ thì người ta đẻ ra một con chữ quái dị, đã chết ai đâu!
Để trêu chọc Nguyễn Tuân một chút cho vui, tôi rụt rè thưa với ông rằng ông không nên vội nổi nóng, biết đâu cái từ kép y thị mà các “phó tóm” nghĩ ra chửa biết chừng lại hay cũng nên. Nó có thể đắc dụng cho tiếng Việt để chỉ một ái nam ái nữ, hoặc một pédéraste[5] chẳng hạn. Vấn đề là liệu nó có tồn tại được không, có được nhân dân chấp nhận không. Từ ngữ cũng như con người, trước hết nó phải được sinh ra đã, sau đó là chuyện khác: nếu nó không chết yểu thì sống lâu khắc lên lão làng. Nguyễn Tuân trợn mắt, gắt ầm lên. Rằng ông không cần đến mấy thằng “phó tóm” nhảy vào lãnh địa văn chương chữ nghĩa vốn chẳng phải của chúng, rằng chẳng ai khiến chúng sáng tạo thêm cho tiếng Việt, rằng cái từ để chỉ pédéraste trong tiếng Việt đã có sẵn rồi.
Nói ra được nỗi bực bội rồi, vơi được nỗi phiền muộn rồi, Nguyễn Tuân trở lại tâm trạng vui vẻ thường nhật. Ông lục trong góc bàn lấy ra một chai rượu trong vắt, trịnh trọng rót hai ly. Tôi nhấp một ngụm. Ông chăm chú nhìn vào mặt tôi:
– Ngon không?
– Thưa bác, tuyệt.
Nguyễn Tuân cười khúc khích, ghé vào tai tôi:
– “Rượu bộ” đấy!
Tôi ngẩn người. “Rượu bộ”, nó là cái gì vậy?
Tôi không phải con cháu Lưu Linh, nhờ các bậc đàn anh chỉ bảo cũng biết võ vẽ đôi chút về rượu. Nguyễn Tuân thích rượu làng Vân, nhưng phải do một lão nông người làng này cất kia, chứ người khác cất ông chê. Ông khen rượu Trương Xá, khen vừa phải, nói rượu Trương Xá ngon đấy, phải cái hơi gắt. Ông cũng thích rượu Kiên Lao mà cha tôi thường đặt mua để biếu ông. Ông nói rượu Kiên Lao ngọt giọng mà có hương thầm. Bây giờ ông lại khen một thứ rượu lạ hoắc, tôi chưa từng nghe nói.
Nguyễn Tuân khoái trá nhìn tôi:
– Anh không hiểu “rượu bộ” là gì hử?
– Không ạ.
– Là rượu-do-Bộ-Công-an-nấu! – Nguyễn Tuân nhấn mạnh từng tiếng – tôi đặt cho nó cái tên “rượu bộ”: để phân biệt với các thứ quốc doanh với “quốc lủi”[6] khác. Việt Hùng[7] vừa mới xách cho tôi hai chai. Thứ này đúng là hảo hạng, chỉ có loại rượu trên tiền, rượu không phải để bán mới ngon được như thế.
Ông giảng cho tôi một bài về những ngón nghề nấu rượu dân dã, về các loại men với đủ các vị thuốc Bắc thuốc Nam. Nghe Nguyễn Tuân nói thì có thể nghĩ ông là một tay nấu rượu lậu chuyên nghiệp. Mỗi lần đến chơi với Nguyễn Tuân là một lần tôi học được thêm một chút kiến thức ít người biết. Chỉ cần gãi đúng chỗ ngứa của ông. Phải cố mà nhớ nằm lòng, chớ có giở giấy bút ra ghi chép. Thấy anh ghi chép thì thể nào ông cũng sừng sộ: “Định ghi để báo cáo tôi đấy hử?”.
– Việt Hùng chầu này đến tôi luôn. Mình cứ sắp hết rượu là y như rằng nó xách rượu đến, tài thế! – Nguyễn Tuân quay lại câu chuyện nói dở – Lần nào cũng một thứ này thôi. Cán bộ thường như mình tiền đâu mà lúc nào cũng rượu ngon? Mình thì gặp chăng hay chớ, Văn Điển cũng ừ, Làng Vân càng tốt, miễn bạn đến nhà có rượu đãi? Cái này không phải rượu bình thường, cái này gọi là “phương tiện công tác” đây, tôi nghĩ lắm. Mới bảo nó: “Anh với tôi là bạn vong niên, mình gặp nhau nên nói chuyện văn chương chữ nghĩa, chuyện các thú chơi của các cụ ngày xưa, vui hơn. Đừng nói chuyện chính trị, tôi nhức đầu”. Nó tào lao một lát rồi về. Rượu thì để lại. Này, thằng ấy kiến thức rộng ra phết!
Từ rượu bộ, do tính chất chật hẹp của nó, chỉ một số ít người biết, mà phải là những người đã từng được Nguyễn Tuân hoặc Văn Cao đãi rượu kia, bởi vì Việt Hùng, theo tôi biết, chỉ biếu có hai ông mà thôi.
Việt Hùng làm việc ở Bộ Nội vụ, ở cơ quan nào trong bộ tôi không rõ, các ông bạn tôi cũng không rõ. Chúng tôi tế nhị không hỏi, Việt Hùng thì không tự nói ra. Là người quảng giao, có kiến thức rộng, Việt Hùng nhanh chóng đánh bạn với các văn nghệ sĩ loại cứng đầu và nửa cứng đầu như Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Sáng, Đặng Đình Hưng, Tử Phác, Kim Lân v. v… Mọi người xì xào rằng Việt Hùng là “cá nổi” làm nhiệm vụ “cá chìm”. Mình sợ quái gì, cứ thản nhiên mà chơi, anh em nói, cứ để cho Việt Hùng nó báo cáo. Còn hơn để mấy thằng “cá chìm” i tờ kiếm chuyện lập thành tích, mình có làm quái gì đâu mà sợ.
Nhưng nói cứng thế thôi, chứ trong quan hệ với Việt Hùng anh em văn nghệ sĩ vẫn cứ chờn chợn. Sau này, chơi với Việt Hùng lâu rồi, hiểu Việt Hùng kỹ hơn, tôi cho rằng cái sự cảnh giác thái quá đối với Việt Hùng của anh em chúng tôi cũng có phần hơi bệnh hoạn. Nỗi sợ hãi này nằm trong nỗi sợ hãi chung của dân chúng đối với cái chế độ hàm chứa rặt những tai họa cho mỗi người mỗi nhà. Có lần Nguyễn Tuân rủ rỉ khuyên chúng tôi phải học thuộc cách chia véc-bờ[8] sợ ở mọi ngôi thứ: tôi sợ anh, anh sợ tôi, chúng ta sợ nó, nó sợ anh, chúng tôi sợ các anh, nó sợ chúng ta, chúng ta sợ chúng nó, các anh sợ chúng tôi vân vân…, cứ thế mà chia. Chia đủ, thuộc hết thì sống mới dễ.
Tôi quen Việt Hùng trong một thời gian không đến nỗi ngắn, đủ để hiểu một con người. Tôi nghĩ nếu số trời run rủi cho Việt Hùng làm bộ trưởng Công an thì còn tốt cho nước ta hơn nhiều so với đương kim bộ trưởng Trần Quốc Hoàn. Nhưng anh mãi mãi chỉ là cán bộ làng nhàng, một chuyên gia sáng tác báo cáo, thỉnh thoảng được mời giảng bài cho một lớp huấn luyện. Có thể coi anh là người tốt, nhưng trong một xã hội không đề cao lòng nhân ái, mà đề cao đấu tranh giai cấp và cảnh giác cách mạng, anh chỉ dám làm những điều tốt trong điều kiện chúng không làm thiệt hại đến mình. Cũng như thế, Việt Hùng có thể thành bạn thân của chúng tôi nếu anh không phải là công an. Tôi coi cái đó như một sự thiệt thòi cho cả hai bên. Cho anh nhiều hơn cho chúng tôi.
Trước khi bị bắt vài ngày tôi có đến chơi nhà Việt Hùng. Anh tiếp tôi với vẻ mặt ngượng ngùng. Vụ khủng bố trắng đang làm xôn xao dư luận. Anh thấy mình chẳng đẹp đẽ gì khi đứng ở phía chính quyền. Tôi hỏi vỗ mặt:
– Thế nào, nhà chuyên chính vô sản, liệu tớ có bị bắt không đấy?
Việt Hùng làm ra vẻ bận bịu với ấm trà để tránh cái nhìn sỗ sàng của tôi:
– Bộ phận mình không dính tới vụ đó. Đây là việc của Ban tổ chức Trung ương…
– Nhưng công an thì đi bắt?
Việt Hùng nhún vai.
Hôm ấy tôi quên khuấy không hỏi Nguyễn Tuân cái từ Việt chỉ pédéraste trong bữa rượu và rất ân hận đã không hỏi ông. Nó chắc chắn phải thú vị. Rượu bộ của ông êm quá, làm tôi say lúc nào không biết. Mà đã say thì tôi lười.
Tôi đã đi ra ngoài lề câu chuyện.
Có lẽ cái bánh mì ngon kia cũng được chế tạo tại một lò bánh đặc biệt, lò bánh mì bộ, nói theo cách của Nguyễn Tuân. Cả ba-tê cũng thế, nó là ba-tê bộ.
Cái bánh mì đã tiêu hết rồi Thành mới bình luận:
– Thứ này, cậu ạ, không phải thứ dành cho tù. Từ ngày vào đây tôi chưa bao giờ thấy nó.
Tôi im lặng.
– Tiêu chuẩn cao thế này chỉ dành cho tù đặc biệt thôi, đặc biệt thế nào tôi không biết, nhưng không thể có chuyện tù thường được ăn. Ngoài kia cậu chuyên viên mấy?
– Chuyên viên đâu mà chuyên viên. Tôi cán sự ba.
– Bịa. Cậu mà cán sự ba?
Tôi cười buồn.
– Thật mà. Giấu anh chuyện lương lậu làm quái gì.
– Thế thì đúng là cậu bị lườm rồi. – anh gật gù – Trình độ cậu phải chuyên viên chứ đâu có ở mức cán sự. Bướng, phải không? Thế nhưng ở đây cậu được đối xử khác thường đấy. – Thành gật gù – Gì thì gì, người ta cũng coi cậu là tù đặc biệt, hoặc do chiếu cố, hoặc do sự vụ chưa rõ ràng. Hì hì, thế là tôi vớ bở – được ăn theo.
Chúng tôi đã thân mật hơn. Thành hơn tôi chừng dăm tuổi. Không nhớ từ lúc nào anh tự cho phép mình gọi tôi bằng cậu.
Tôi vẫn còn ngây thơ. Trong những dự đoán do cái bánh mì bộ gây ra thấp thoáng cả hy vọng được thả. Tôi nghĩ: nếu không định thả thì họ chiều tôi làm gì? Tôi biết những nhà lãnh đạo của chúng tôi lắm, họ không bao giờ có tinh thần hiệp sĩ đối với kẻ thù. Trong họ không có khái niệm quân tử. Giỏi lắm thì họ cũng chỉ đạt mức đại tiểu nhân mà thôi.
Tất nhiên khả năng thả chúng tôi không thể loại bỏ. Dư luận, như một làn sóng ngầm mạnh mẽ, bị coi khinh đấy, bị đàn áp đấy, nhưng nó vẫn sống, vẫn tồn tại, và không phải nó không có sức làm nhà cầm quyền lo lắng và, đôi khi thôi, nao núng.
Nhân dân bị phản bội.
Đó là điều không cần phải chứng minh. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đã thành công rực rỡ trong sự thay thế những ông chủ da trắng bằng những ông chủ da vàng. Cái khác là cách cai trị của những ông chủ mới tinh tế hơn những ông chủ cũ nhiều. Mọi sự bóc lột, đè nén giờ đây được tiến hành trong tiếng kèn hoan hỉ ngợi ca cuộc đời mới, trong cờ xí rợp trời, trong ánh lấp lánh của vàng mạ phủ lên mọi tối tăm, tủi nhục, tiếng rìu đao phủ chìm nghỉm trong khúc quân hành, và đám đông bị mê mẩn bởi những lời cổ vũ hùng hồn rầm rập kéo nhau đi tới miền đất hứa ở tít mù tầm mắt, không nhận thấy máu đồng bào nhơm nhớp dưới chân mình.
Tôi đã đi trong đám đông bị thôi miên, trong cuộc lên đồng vĩ đại.
Người đầu tiên muốn thức tỉnh tôi là cô ruột tôi lấy chồng ở phủ Xuân Trường. Chồng bà, một ông chưởng bạ[9], là một người yêu nước không cộng sản. Ông ủng hộ cách mạng từ hồi bí mật, ông tham gia tổng khởi nghĩa, trong kháng chiến chống Pháp ông vừa làm trong ban hội tề (theo lời khuyên của Việt Minh) để giữ thế công khai, vừa làm chủ nhiệm Việt Minh xã. Trong Cải cách ruộng đất, ông bị đưa ra đấu, bị vu là phản động, nhà cửa bị tịch thu, gia đình bị khủng bố. Đến khi Đảng sửa sai thì ông chỉ còn kịp lết về đến nhà để tắt thở trong vòng tay vợ con.
Những việc xảy ra với cô tôi tôi không biết. Tôi đang học ở Liên Xô. Thư từ Việt Nam qua vào thời gian ấy không nhanh, có khi mất cả tháng. Báo Nhân dân gửi sang sứ quán mà cũng cả tuần. Trở về Việt Nam, năm 1957, để làm phim Ánh Sáng Tháng Mười cùng với Xưởng phim tài liệu trung ương Liên Xô nhân dịp kỷ niệm 40 năm cách mạng Nga, tôi mới gặp cô. Cô tôi khuyên tôi:
– Cháu phải tỉnh trí, chớ có nghe cộng sản. Cộng sản bất nhân lắm. Mình là người tử tế, phải biết chọn bạn mà chơi. Nghe ngon ngọt lắm vào rồi đi theo họ, hối không kịp!
Đó là bà cô được chúng tôi, những đứa cháu bà, trọng nhất, yêu nhất. Cả họ phục bà tần tảo một mình dựng nên cơ nghiệp. Bà chẳng bóc lột ai, chẳng xà xẻo của ai, chẳng xin xỏ ai. Bà làm một mình mọi việc, đến chồng bà cũng chẳng nhờ. Một trong những nguyên nhân làm cho bà trở nên giàu có là sự keo kiệt. Một con tôm giảo kho của bà đủ làm thức ăn cho tôi suốt bữa cơm – nó mặn khủng khiếp.
Cha tôi bần thần nghe tôi kể tâm sự của cô. Ông buồn: “Đành rằng Đảng có sai lầm, nhưng Đảng đã thấy sai, đã nhận sai để sửa chữa. Không nên vì một sai lầm mà phủ nhận mọi công lao của Đảng. Cô nói Đảng bất nhân là không được. Nếu Đảng là bất nhân thì sao bố lại ở trong hàng ngũ của Đảng?”.
Tôi tin cha tôi. Lời cô tôi khuyên không làm cho tôi mất lòng tin đối với đảng cộng sản. Khi con người bị xúc phạm thái quá thì phản ứng của họ cũng thái quá, tôi nghĩ thế. Chứ cô tôi chẳng có hằn thù gì với cách mạng. Năm cha tôi mười sáu tuổi, ông tự mình viết truyền đơn đi rải ở thị xã Thái Bình rồi bị bắt, chính cô đã đánh đường qua đò Bồng Tiên đội gạo đi nuôi em. Kể chuyện cho tôi nghe, bà cười phô hàm răng đen nhưng nhức: “Bố ông dữ ra quỷ, làm cả nhà bạt vía. Ông bà hãi quá, bắt bác Cả đi lo cho ông em ra. May mà bố ông chưa đến tuổi, chứ không thì Tây nó cho rũ tù… ”
Người thứ hai không còn tin ở chủ nghĩa cộng sản là vợ tôi. Vợ tôi theo học ngành kiến trúc Ba Lan vào những năm xảy ra những cuộc biểu tình đầu tiên của công nhân tại nhiều thành phố đã làm lung lay nền móng chế độ cộng sản ở nước này. Lúc đó vợ tôi ở thành phố cảng Gdansk, nơi có cuộc biểu tình lớn nhất. Vợ tôi không sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuộc tầng lớp trên, cũng không phải trong một gia đình trí thức. Qua những điều mắt thấy tai nghe ở Ba Lan, vợ tôi đi đến một kết luận bất ngờ: ”Chủ nghĩa cộng sản không có tương lai, anh ạ. Nó không được lòng dân”.
Người thứ ba cảnh tỉnh tôi là tiểu đoàn trưởng Đích. Anh rơi vào tù trong một trường hợp rất oái oăm. Chuyện như thế này. Một chiến sĩ nghỉ phép về quê cưới vợ. Anh muốn mượn com-măng-ca của đơn vị để về làng cho oai. Tiểu đoàn trưởng cho mượn liền. Anh thích thú hình dung ra chuyến về quê oai vệ của anh lính. Người anh em kết nghĩa của chú rể, dân tộc Mường Tây Bắc, không biết mừng em cái gì, bèn mừng một cục thuốc phiện bằng nắm tay. Với cục thuốc phiện ấy chú rể bán đi là có một đám cưới đàng hoàng. Trên đường về quê, chú rể bị bắt, hai phù rể bị bắt theo. Thủ trưởng đơn vị bị coi là tòng phạm vì đã “cung cấp phương tiện vận chuyển” lĩnh án năm năm tù. Từ nhà tù trở về, Đích thay đổi hẳn. Người ta bảo anh khiếu oan để trên xét lại vụ án, anh chẳng buồn viết đơn. Anh nói với tôi: “Tôi không bực vì cái án. Nhầm là chuyện thường, huống hồ trong vụ này tôi cũng có cái sai. Nhưng tôi sai là một chuyện. Cái cách đồng chí đối xử với nhau thế nào là chuyện khác. Nhà tù cho tôi thấy một điều: không có tình đồng chí! Hoàn toàn không! Chúng ta nhầm. Bây giờ tôi mới hiểu: ông Hồ không phải đồng chí của ta, ông ấy cũng là vua như các ông vua khác, lại không phải vua hiền. Ông ấy biến những con người lương thiện thành những con quỷ. Ông ấy là quỷ vương”.
Tôi an ủi anh, nhưng tôi không thể đồng ý với nhận xét của anh. Dưới quyền ông Hồ có những con quỷ mà anh gặp, tôi không cãi, nhưng đâu phải ông cố tình tạo ra chúng. Chúng có trong bất kỳ xã hội nào. Tôi nói với anh, như cha tôi thường nói với tôi, rằng cách mạng là sự nghiệp của cả dân tộc, trong cách mạng không thể không có sai lầm, đó là bệnh sốt vỡ da của đứa trẻ đang lớn, rằng sai lầm sẽ ít dần cùng với sự trưởng thành, mà chẳng phải ai khác, chính chúng ta phải đóng góp để cho nó trưởng thành khoẻ mạnh. Tôi cố gắng thuyết phục Đích dẹp nỗi ấm ức trong lòng để trở lại với công tác cách mạng. Anh phản bác, nhưng rồi anh đã nghe tôi.
Tôi nói với Nguyễn Thanh Địch, thư ký tòa soạn báo ảnh, nhận anh Đích vào làm công tác buồng tối. Tờ báo chúng tôi hồi ấy đang cần người có học và tháo vát để giải quyết những khó khăn về kỹ thuật in tráng trong hoàn cảnh thiếu thốn. Đích là một nhiếp ảnh gia nghiệp dư, nhưng anh rất say mê nghề ảnh, nhờ đó anh hiểu nghề khá sâu, được các phóng viên kính trọng.
– Ông bảo đảm nhá? – thư ký tòa soạn gặng.
– Tôi bảo đảm mà – tôi trả lời.
Anh Đích cần mẫn làm công việc nhà nước cho tới khi tôi bị bắt. Không tuyên bố lý do, người ta thải hồi anh. Sự thải hồi này không chứng tỏ tôi đã bảo đảm không đúng. Nó chỉ chứng tỏ anh bị thải hồi vì người bảo đảm cho anh là tôi.
Sau đó, anh Đích thề độc không bao giờ đi làm lại cho Nhà nước cộng sản nữa. Anh sản xuất ô mai để bán, là công việc dễ hơn nhiều so với công việc buồng tối. Nghề làm ô mai không bị nhà nước ngăn chặn hóa ra lại rất có lời, anh nuôi được các con ăn học, tậu được nhà, sắm được đầy đủ tiện nghi, nói chung gia đình anh sống rất sung túc.
Tóm lại, từ những điều trông thấy, nghe thấy tôi ngoan cố không chịu rút ra kết luận.
Tôi đần và, theo cách nói bây giờ, tôi ngu lâu.
Bữa trưa chúng tôi có thêm món trứng tráng vàng rộm, mỡ nhuếnh nhoáng, bên cạnh tô “rau muống tần đại dương”, tiêu chuẩn chung của tù, như thường lệ. Thành thật hóm. Cái tên “rau muống tần đại dương” là do Thành đặt cho món rau luộc không ra luộc kho không ra kho của nhà tù. Thành nói rằng để sống được trong tù phải dự trữ cho mình đủ tinh thần hài hước.
– Này, lạ chưa, từ sáng đến giờ không nghe còi báo động, nhỉ? – Thành đần mặt, suy nghĩ.
Trong xà lim, chúng tôi chẳng biết gì về những việc đang xảy ra bên ngoài. Chiến tranh thế giới lần thứ ba có nổ ra chúng tôi cũng ngủ quên nó. Hòa bình trở lại chúng tôi cũng không biết. Theo quy định của trại giam tù xà lim không được đọc báo. Mảnh giấy gói bánh mì sáng nay là một mẩu báo năm ngoái.
Có thể xảy ra một sự kiện nằm bên ngoài mọi dự đoán sẽ dẫn tới việc tha hàng loạt tù nhân chăng? Không, không thể có cái đó, chẳng bao giờ có được một sự kiện như thế, nó chỉ có trong truyện thần tiên.
Tôi xua đuổi quầy quậy cái hi vọng chực le lói. Bất cứ hi vọng nào trong tù cũng là hão huyền. Nó chỉ đẻ ra thất vọng. Như những bông hoa đực.
Bữa chiều, thay vào đĩa trứng tráng là đĩa thịt kho tàu. Chúng tôi ăn thịt kho tàu với mì luộc. Răng tôi nghiến lạo xạo hàng nghìn xác mọt cùng với câu hỏi khó nhá.
Đúng vào lúc chúng tôi nghĩ đến hòa bình nhiều nhất thì còi báo động hú lên. Tôi nghe rõ tiếng rít lanh lảnh của những chiếc MIG-19 lao nhanh qua Hỏa Lò.
14
Hách mở cửa, lấy tôi đi cung. Những tưởng sau câu chuyện tâm sự với tôi trong buổi cắt tóc, viên quản giáo sẽ hồ hởi gặp tôi như những người lính cũ của một thời đã xa ngẫu nhiên gặp nhau, cho dù ở trong Hỏa Lò, nhưng không – y nhìn tôi hững hờ, xa lạ.
Trong phòng hỏi cung, lại một phòng khác, Huỳnh Ngự ngồi nghiêm chỉnh sau bàn làm việc. Y lạnh lùng ngước mắt đón tôi, cái nhìn lướt trên cặp kính trắng trễ xuống sống mũi.
– Anh khỏe chớ, anh Hiên?
– Cảm ơn. Tôi bình thường. Bác vẫn khỏe?
– Vẫn khỏe. Thời tiết mấy bữa rầy tốt, ấm lên rồi.
Mở đầu buổi làm việc bao giờ cũng là câu hỏi thăm xã giao. Cứ như thể chúng tôi quan tâm tới sức khỏe của nhau lắm, hoặc đang ra sức tập dượt để dự một cuộc đua tài lịch sự. Sau đó mới đến công việc.
Lần này Huỳnh Ngự ra câu hỏi bằng giọng rất ôn tồn:
– Anh đã suy nghĩ về lời khuyên của ông già rồi chớ?
Tôi mệt mỏi đáp:
– Tôi đã suy nghĩ.
Huỳnh Ngự quan sát tôi hồi lâu rồi mới tiến thêm một bước:
– Anh bằng lòng cung khai?
Tôi nhìn y. Chuyện này tôi tưởng đã xong, sao y còn nhắc lại? Thằng cha dai hoi quá.
Y vẫn kiên nhẫn nhìn tôi, chờ đợi.
– Không! – tôi đáp, giọng dứt khoát.
Tôi đã ở bước đường cùng rồi, xá gì chúng nó. “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”[10], cha tôi vẫn thường dạy. Đóng kịch không có nghĩa là sẵn sàng chịu chúng trong bất cứ việc gì.
Huỳnh Ngự trừng mắt:
– Tại sao?
– Tôi đã nói rồi. Tôi không phải phạm nhân. Đúng không nào? Đã không phải phạm nhân thì lẽ đương nhiên không việc gì phải khai.
Huỳnh Ngự liếm môi. Một thoáng suy nghĩ, y nói:
– Nhưng báo cáo với Đảng những điều Đảng cần hỏi anh thì anh đồng ý báo cáo chớ? Hay cũng không?
Tôi gật đầu:
– Tôi sẵn sàng báo cáo với Đảng những gì tôi biết.
Nhưng tao sẽ không báo cáo với Đảng của mày những gì Đảng của mày cần để hại người đâu, tôi rủa thầm. Đừng có mơ!
Y cảnh giác với câu trả lời của tôi. Sau khi tin chắc tôi nói không có ẩn ý, y thở phào:
– Anh ngồi xuống đi!
Tôi ngồi.
Đợi cho tôi yên vị, y từ tốn móc trong ngăn kéo bàn viết ra một xấp giấy trắng, trịnh trọng đặt nó xuống trước mặt tôi:
– Anh là chúa hay câu nệ chữ nghĩa. Mất thời giờ nhiều lắm. Thôi được, nói cho anh hay, Đảng đã ra chỉ thị cho tụi tui tôi để các anh được tự do lựa chọn cách làm việc.
Tôi dò xét nhìn y. Trò gì thế này?
– Bữa ni ta làm việc chính thức, theo kiểu khác. Những chi tui hỏi anh mọi ngày, chỉ là hỏi miệng, để có một cái nhìn chung, bao quát, về những điều anh biết và Đảng sẽ hỏi anh. Chừ coi như anh đã quen, ta viết ra giấy. Các cụ gọi rứa là cái chi hè? Khai bút!
Y nói với vẻ mặt hiền từ, như cách ông giáo làng nói với học trò trong ngày khai trường. Nói chung, Huỳnh Ngự thay đổi thái độ nhanh như làm xiếc. Đang vui vẻ đấy, y có thể bất thình lình gầm lên như phát điên.
– Tui nói khai bút là trúng chớ, nhà văn?
Không thấy tôi tán thưởng, Huỳnh Ngự giảng giải:
– Khai bút chớ không phải khai cung, như vừa nãy tui dùng chữ có chỗ chưa chuẩn, tui đâu có là nhà văn, phải không? Ta khai cái bút để báo cáo với Đảng những điều Đảng cần hỏi ở ta. Việc ni chỉ có một mục đích duy nhứt nhằm xây dựng Đảng, làm cho Đảng ngày thêm vững mạnh…
Lại bắt đầu bài hát muôn thuở! Nhưng dù sao cũng đã có một sự lùi bước từ phía y. Y đã thôi không dùng từ “khai cung”.
– Tui thấy cần phải nói trước để anh hay, chừ là cơ hội cho anh đới công chuộc tội, là cơ hội cuối cùng để anh chứng minh lòng trung thành của anh với Đảng. Vì vậy tui phải nhấn đi nhấn lại nhiều lần điều ni cho anh nhớ, đó là: trong sự báo cáo với Đảng cái cơ bản, cái quan trọng nhứt, là phải thành khẩn, thành khẩn hết mình.
Ngừng lại vài giây để bắt tôi phải chú ý hơn nữa, y cúi xuống, ghé sát vào tai tôi mà thì thào bằng giọng tên âm mưu dặn dò đồng bọn.
– Nói để anh yên tâm, Đảng đã chỉ thị cho tui: báo cáo của các anh là Báo Cáo Mật, tuyệt mật… Ngoài tui ra là người được anh Sáu giao trách nhiệm hướng dẫn các anh viết, không người mô được biết về những báo cáo này hớt. Từng báo cáo sẽ được dán kín lại rồi trình lên anh Sáu và Bộ Chánh trị…
Tôi ngơ ngẩn nhìn y. Tại sao những lời khai của chúng tôi, những kẻ có tội với Đảng, lại phải giữ bí mật đến thế? Mà giữ bí mật với ai kia chứ?
– Anh không việc chi mà ngại: cứ mạnh dạn trình bày với Đảng, trình bày hớt – từ những quan điểm sai trái cho tới những việc làm có hại cho cách mạng. Đảng sẽ tha thứ cho anh một khi anh đã hối lỗi. Đối với những người có liên quan, Đảng yêu cầu anh không e dè, không nể nang. Phải báo cáo cho Đảng biết về họ, cả tư tưởng, cả hành động, việc lớn cũng như việc nhỏ, báo cáo tuốt. Cứ thẳng thừng mà báo cáo, cho dù người có liên quan là cha mẹ mình cũng mặc… Dứt khoát đứng về phía Đảng, vì lợi ích của Đảng mà chiến đấu là lập trường đúng đắn nhứt, có lợi cho mình nhứt…
Sau đoạn giáo đầu mang tính chất “đả thông”, y lấy bút máy ra, vẩy vẩy mấy cái, lau ngòi bút vào vạt áo cho thông mực rồi mới cần mẫn đánh dấu từng trang.
– Uống nước đi, hút thuốc đi, rồi ta mần.
Thấy tôi vẫn ngồi yên, Huỳnh Ngự ân cần nhắc:
– Trà ngấm rồi đó.
Trà sang. Hôm nay là Ba Đình chứ không phải Hồng Đào. Tôi vẫn thích Hồng Đào hơn. Nó ít chất nhân tạo, đã được nước lại có hậu.
Tôi nhấm nháp từng ngụm nhỏ nước trà đặc, lẳng lặng quan sát Huỳnh Ngự. Cái con người còm cõi kia chắc đã từng làm thư ký cho một ủy ban huyện, hoặc nhân viên đánh máy ở một trung đoàn bộ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Chao ôi, y từng là đồng chí của tôi đấy, từng là chiến hữu của tôi đấy. Giả thử tình cờ gặp nhau trong một trận càn của địch, tôi dám nhường hầm bí mật của tôi cho y lắm.
“Không e dè, không nể nang…, cho dù có là cha mẹ mình cũng mặc!” Trong đầu tôi, câu nói của Huỳnh Ngự ong ong bay lượn.
Nghĩa là anh cứ việc thoải mái mà làm chỉ điểm cho Đảng. Đảng là của nhân dân mà, của dân tộc mà. Vì lợi ích của Đảng, để bảo vệ Đảng, chỉ điểm cũng là một công tác quan trọng lắm chứ, vinh quang lắm chứ.
Vào thời gian này chỉ điểm nhan nhản khắp nơi, từ thôn xã cho tới các cơ quan đầu não. Khác với các bạn đồng nghiệp thuộc các chế độ khác, thuộc những thời đại khác, tên chỉ điểm xã hội chủ nghĩa có niềm tự hào đặc biệt. Nó tự hào vì được theo dõi không riêng những đối tượng của cách mạng mà cả các đảng viên kỳ cựu của Đảng, cũng từ cấp cơ sở lên tới tận Trung ương. Đủ hiểu Đảng tin nó thế nào! Nó bao giờ được tưởng thưởng xứng đáng. Chỉ buồn nỗi không được khoe khoang chiến tích mà thôi. So sánh cái được với cái không được thì cái được lớn hơn nhiều.
Dùng phương pháp loại suy tôi phát hiện một số tên chỉ điểm trong giới văn nghệ sĩ qua những cuộc hỏi cung. May mắn cho tôi, và cho văn nghệ sĩ nói chung, không có gương mặt sáng giá nào làm chỉ điểm. Làm cái nghề đốn mạt này chỉ có những tên vô tài bất tướng bước vào văn nghệ qua ngả chính trị, những tên cơ hội đi bằng đầu gối, kiếm ăn bằng những bản văn tán dương chế độ. Có tên đã tập tọng viết lách, nhưng không sáng tác nổi cái gì cho ra hồn, tình nguyện cầm cây roi phê bình gác cửa văn nghệ cho Đảng. Thậm chí có tên làm chỉ điểm cốt được vào Đảng sớm một ngày. Tên khác săn tin trong anh em, ton hót với thượng cấp chỉ để kiếm thêm một bậc lương.
Khốn nạn, không làm là một nhẽ, phải ngồi im nghe kẻ chiêu mộ ba hoa về những quyền lợi mà Đảng ban cho nếu anh ngoan ngoãn làm chó săn chim mồi là một nhẽ khác.
Nhục lắm!
Huỳnh Ngự kể cũng biết điều. Y không nói toạc ra rằng tôi phải đầu hàng và nhận làm chỉ điểm. Nói thế trắng trợn quá. Y muốn tôi bám lấy cái chính nghĩa y quẳng cho: vì lợi ích của Đảng. Tôi giả vờ nghe theo. Sau đó hẵng hay.
Trong khi chờ đợi y nắn nót những giấy tờ cho cuộc khai bút tôi quan sát căn phòng vừa được đưa tới. Tôi nghĩ rằng người Pháp không phải là tác giả của những căn phòng manh mún, thiếu tiện nghi được dùng làm nơi hỏi cung trong Hỏa Lò. Phòng làm việc trong sự hình dung của các kiến trúc sư Pháp ắt phải khác. Căn phòng chúng tôi đang ngồi diện tích chỉ nhỉnh hơn xà lim một chút, lại không có cửa sổ, không có lỗ thông hơi, rất bí. Cách bố trí các phòng hỏi cung phản ánh trung thành tính cách chủ nhân nó.
Nhìn căn phòng kín mít trong mê cung những hành lang hun hút của Hỏa Lò, bất giác tôi nhớ tới Kỳ Vân. Không biết giờ này anh ở đâu, trong một phòng nào đó ở một góc tối nào đó như tướng Đặng Kim Giang, hay trong một xà lim như tôi? Kỳ Vân có số phận hẩm hiu nhất trong chúng tôi, cuộc đời đối với anh bạc bẽo nhất. Khoảng một tháng trước khi anh bị bắt, vợ anh đi sơ tán gần Hà Nội bị chết đuối để lại mấy đứa con dại. Thời thuộc Pháp, Kỳ Vân đã vượt khỏi nhà ngục này tới hai lần. Thế nhưng lần này dù có muốn anh cũng không vượt được nữa. Anh đã già. Các đồng chí của anh lại rút kinh nghiệm của những lần họ cùng với anh vượt ngục trước kia, nay họ canh gác Hỏa Lò nghiêm ngặt hơn nhiều so với trước kia.
Khi nghe tôi báo tin Kỳ Vân bị bắt cụ Đinh Chương Dương còn nhớ đủ cả tên họ anh: “Phạm Kỳ Vân chứ, cháu. Cháu nói Kỳ Vân, bác ngỡ là người khác. Bác nhớ anh ấy chứ, quên sao được. Chính bác đưa Phạm Kỳ Vân sang Tàu năm 41 cho bác Hồ huấn luyện cách mệnh chứ ai. Lúc bấy giờ Phạm Kỳ Vân còn nhỏ tuổi lắm, nhưng tinh thần cách mệnh thì lại rất cao. Họ bắt bố cháu, bắt luôn cả Phạm Kỳ Vân hả? Trời đất, đồng chí với nhau cả, sao mà tàn tệ thế?!”
Anh Kỳ Vân, theo lời cha tôi kể, và như bác Đinh nhận xét, là người tuổi nhỏ chí lớn. Anh hoạt động cách mạng từ khi còn là học sinh, 21 tuổi đã là xứ ủy viên Bắc kỳ. Tính theo bề dày cách mạng, hoạt động cùng với cha tôi, Kỳ Vân phải thuộc hàng cha chú tôi mới đúng, nhưng anh chơi với tôi cũng như chơi với Hứa Văn Định[11], Mạc Lân[12], Bùi Ngọc Tấn… theo cách ngang hàng, kiểu bạn bè, cậu cậu tớ tớ. Xem ra anh không có cái tính thích làm kẻ cả.
Anh nói về cha tôi: “Sở dĩ ông cụ cậu không có chức sắc trong Đảng là vì hồi bí mật Đảng chủ trương để ông cụ hoạt động công khai, có chân trong Trung ương hay là xứ ủy, bị Tây bắt nó xử dữ lắm, Đảng không có người tháo vát như ông cụ để chắp nối liên lạc cho các cơ sở Đảng. Đến lúc có chính quyền rồi thì ông Cả[13] lại bắt ông cụ cậu giúp việc ông Hồ. Trường Chinh không thích ông cụ cậu là vì ông cụ thẳng tính, không chịu xu nịnh. Lê Đức Thọ thì ghét ông cụ lắm lắm, thằng tiểu nhân ấy khi còn ở Sơn La với tụi mình bị ông cụ sạc cho mấy trận vì cái tính đâm bị thóc chọc bị gậy trong anh em. Chứ nó sao bì với ông cụ nhà cậu được! Khi ông cụ vào Nam ra Bắc làm cách mạng thì nó còn là học trò. Bọn Lê Đức Thọ viện cớ ông cụ không có chức sắc, không đưa ông ấy lên. Mình biết ông cụ cậu từ hồi bí mật, mình biết cái tình ông ấy, ngay thẳng lắm, mà nóng lắm, không kiêng nể ai đâu, nhưng đối với bạn bè, đồng chí thì tình nghĩa rất mực, cho nên mình quý. ” Tôi hỏi vì sao anh đã từng có chức sắc mà cũng không lên được, thì Kỳ Vân gõ cồng cộc vào đầu: “Tại cái này cứng quá. Đào Duy Kỳ[14] với mình hồi băm chín bốn mươi lên án Trường Chinh sợ địch, thấy địch vừa tổng khủng bố đã co cẳng chạy, cho nên hắn để bụng, khi cách mạng thành công rồi không bỏ lỡ dịp nào không hành bọn mình”.
Ngồi trong phòng, tôi rét run. Thời gian trôi, ăn uống kém, dự trữ trong người cạn dần, cho nên tôi thấy rét, chứ đám chấp pháp, quản giáo vẫn phây phây đi lại. Mà cũng có lẽ tại cái phòng làm việc lâu không có hơi người. Tôi tiếc căn phòng trông ra mảnh sân hẹp, nơi có cái vòi nước hỏng. Làm việc ở đấy thỉnh thoảng còn được rửa ráy, còn có cơ may ném được mảnh giấy báo tin cho gia đình, nhất là trong tay tôi bây giờ đã có giấy bút.
Sau khi đã đi tới thỏa thuận về chuyện tôi nhận viết báo cáo, Huỳnh Ngự thay đổi thái độ. Giữa chúng tôi không còn những cuộc cãi vã căng thẳng. Bàn trà được dọn ra, hơi nước bốc trên những cái chén sạch bong, hai bên bàn là hai người điềm đạm thủng thẳng trò chuyện.
Tôi hiểu: Huỳnh Ngự lùi một bước để đòi tôi cái lớn hơn, một món lại quả còn to hơn ăn cưới. Không phải y chỉ đòi ở tôi một bước xuống thang tương ứng mà một sự thối lui thật sự nếu không muốn nói thẳng là đầu hàng.
Về thực chất, “báo cáo” và “cung khai” là một. Nhận “báo cáo” có nghĩa là nhận “cung khai”. Tuy nhiên, cũng trong buổi làm việc này Huỳnh Ngự tế nhị nhấn mạnh sự phân biệt thực ra rất nhỏ bé giữa chúng tôi và tù thường: với tư cách người được “xử lý nội bộ”, một thứ phạm nhân nửa dơi nửa chuột, chúng tôi được đặt vào một vị trí khác với phạm nhân thường trong quan hệ với cán bộ chấp pháp.
Ngẫm ra cái máu sĩ diện trong con người ta cũng mạnh gớm! Nếu Huỳnh Ngự cứ khăng khăng một mực bắt tôi “cung khai” thì vị tất tôi đã chịu. Cho dù sau bức thư của cha tôi tôi đã quyết định thôi không ngang ngạnh với y nữa. Y đoán trước được phản ứng của tôi, linh hoạt thay ngay cái từ “cung khai” bằng “báo cáo”, nghe êm tai hẳn.
Điều làm tôi ngạc nhiên là khu vực nhân sự mà Huỳnh Ngự quan tâm quá rộng.
– Anh có quen Tôn Thất Tùng[15] không hỉ? – một hôm bỗng dưng Huỳnh Ngự hỏi tôi.
Tôi không chờ đợi câu hỏi này. Giáo sư Tôn Thất Tùng không thể dính vào chuyện chính trị thôn xóm của Huỳnh Ngự.
– Không thể nói rằng tôi quen giáo sư Tôn Thất Tùng được. – tôi đáp, thờ ơ – Ông thuộc hàng cha chú tôi, lại chơi với ông cụ tôi…
– Thì tui mới phải hỏi. – Huỳnh Ngự dặn ra một nụ cười hiền lành, nhưng trên mặt y nó chỉ đạt mức không độc ác mà thôi – Hồi trước Nghị quyết 9, Tôn Thất Tùng có viết một lá thơ, nội dung là một kiến nghị gởi Trung ương Đảng, chắc anh đã đọc…
– Chuyện ấy tôi có nghe nói.
– Chu cha, sao lạ vậy chớ? Anh mà chỉ nghe nói!? – Huỳnh Ngự ngoẹo đầu, bĩu môi – Khó tin quá hà! Thư đó ông cụ anh có trong tay, còn đưa hết người nầy người nọ đọc, mà anh không được đọc thì lạ quá.
– Tôi không được đọc có lẽ vì thời gian đó tôi không có mặt tại Hà Nội.
Huỳnh Ngự gật gù:
– Cứ cho là như vậy. Nhưng anh là nhà báo kia mà. Nhà báo thì phải biết mọi chuyện mới là nhà báo chớ. Nhà báo mà cái chi cũng không biết, không biết. Người ta ồn cả lên vì bức thơ mà lại nói anh cũng không biết. Hỏng. Tôn Thất Tùng viết bức thơ nầy tro ng loạt thơ gởi Trung ương nhằm gây áp lực buộc Trung ương phải thay đổi đường lối. Ngây thơ quá! Trung ương cần chi tới ý kiến mấy anh khoa học dở hơi mà thơ với từ. Ông già sau rồi cũng không đưa anh đọc thiệt?
– Không.
– Tui dám cá với anh nè, rằng anh có đọc, nhưng anh chối. Mà thôi, bỏ qua chuyện đó đi, anh có đọc hay không đọc không phải chuyện quan trọng.
Tôi cười trừ. Biết nói gì với y bây giờ? Đôi co với y, tôi biết rồi, là chuyện vô ích.
Một nguyên tắc của công an là không tin cái gì hết, cho dù mình có nói thực. Chỉ khi nào dùng đủ mọi cách rồi mà không khai thác được gì hơn thì người ta đành chấp nhận cái đã thu được mà thôi. Sau này tôi được biết có những người tù chẳng có gì để khai, do bị dồn ép quá đã khai bịa. mà công an cũng tin. Xét cho cùng, những anh chấp pháp kiểu Huỳnh Ngự chỉ cần cái mà họ muốn có, chứ không cần sự thật.
Huỳnh Ngự chăm chú rót trà vào chén mình. Lẽ ra, trong bầu không khí không căng thẳng hôm nay y phải mời tôi mới đúng, nhưng y quên không mời. Dù đã cố gắng nhiều, như tôi thấy, y vẫn chưa trở thành người lịch sự.
– Tui lấy làm lạ cho bọn trí thức các anh! – sau khi thỏa mãn với chén trà cắm tăm[16], Huỳnh Ngự ngả người trên ghế, hai tay chắp trước bụng – Đảng chiều như chiều vong, chẳng động đến các anh thì chớ, có sai sót chi cũng cho qua luôn, không thèm bắt bẻ, lại còn tạo mọi điều kiện thoải mái cho các anh làm việc, cho các anh hưởng mọi tiêu chuẩn hơn người, vậy mà các anh rửng mỡ đòi nhảy vô lãnh vực chánh trị, phát biểu lung tung vô trách nhiệm, đòi đường lối của Đảng phải thế kia thế khác. Hết khôn thời dồn ra dại. Có người cầm tay dắt đi không muốn, lại muốn tự mình mò mẫm…
Trong chuyện bức thư tôi không nói dối y. Tôi tiếc không được đọc bức thư ấy. Hình như lúc đó tôi đi làm phóng sự ở Thái Bình thì phải. Nghe nói bác sĩ Tôn Thất Tùng viết bức tâm thư gửi Trung ương rất cảm động. Nhìn sang nước láng giềng, thấy tình cảnh trí thức bên đó bị đấu tố, bị bắn giết, tù đầy, ông lo lắng cho số phận trí thức Việt Nam, lo cho tương lai nền khoa học nước nhà. Ông muốn lấy lời tâm huyết khuyên can Đảng đừng đi theo con đường Trung Quốc, bởi nó đem lại cho dân tộc những tổn thất khôn lường và sự kéo lùi lịch sử lại nhiều năm.
– Tôn Thất Tùng có hay tới ông già anh không?
– Tôi không rõ. Cũng có thể giáo sư đến chơi với ông cụ tôi mà tôi không biết. Bác biết đấy, tôi ở trên gác, ông cụ tôi ở dưới nhà.
– Cái nớ tui rõ. Vậy còn Tạ Quang Bửu[17]. Anh biết chớ?
– Cũng không – tôi đáp, giọng thoải mái, mặc dầu trong lòng căng thẳng – Mới rồi, không phải, cách đây cũng cả năm, tôi có phỏng vấn giáo sư Tạ Quang Bửu. Cái sự biết như thế không thể gọi là biết. Bài phỏng vấn sau bị xếp lại vì báo thiếu chỗ. Hoặc vì một lẽ gì khác mà tôi không biết.
– Hình như tay nầy ăn nói lung tung lắm, phải không?
– Làm sao tôi biết được! – tôi nhún vai – Khi nói chuyện với người không quen biết chẳng ai dại gì nói chệch đường lối của Đảng, nhất là trong tình hình hiện nay. Mọi câu trả lời phỏng vấn, theo kinh nghiệm của tôi, bao giờ cũng giống xã luận báo Nhân dân.
Huỳnh Ngự nhìn tôi cảnh giác. Y rất sợ bị tôi nói xỏ mà không biết, hoặc về tới nhà mới biết.
Huỳnh Ngự muốn nghĩ gì thì nghĩ, tôi điềm nhiên rót trà cho mình. Trà chát xít ở cổ họng.
– Vậy chớ Nguyễn Tuân, anh biết hay không biết?
– Nguyễn Tuân thì tất nhiên tôi phải biết.
– Đào Phan[18]?
– Không biết.
– Thật không?
– Thật.
Huỳnh Ngự cười đểu:
– Hỏi vậy thôi, chứ tui biết, anh không có quan hệ với Đào Phan.
– Thế còn Phan Kế An[19]?
– Phan Kế An?
– Tôi biết anh Phan Kế An.
– Anh sẽ viết một báo cáo về Phan Kế An chớ?
– Tôi không biết Phan Kế An tới mức có thể nói gì về anh ấy.
– Còn Phan Kế Hoành[20]?
– Anh Hoành là bạn tôi.
Huỳnh Ngự hài lòng thấy tôi sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của y thì mừng lắm. Y mời tôi, đúng hơn là cho tôi, một điếu Điện Biên.
– Kể cũng lạ, lão khâm sai đại thần[21] thì cúc cung theo ta, mà mấy đứa con thì như giặc – ngả người trên ghế, Huỳnh Ngự nhả khói lên trần – Anh có biết Phan Kế Hoành hắn giải thích bôi đen chế độ ra răng không?
– Không. Khi anh Phan Kế Hoành dạy ở Đại học Tổng hợp thì tôi ở Liên Xô. Vụ Nhân văn – Giai phẩm tôi cũng chỉ được nghe kể lại. Mà hình như Phan Kế Hoành không liên quan tới Nhân văn – Giai phẩm.
– Bậy. Hắn là Nhân văn – Giai phẩm một nửa đó. Hắn với hai thằng Bùi Quang Đoài, Văn Tâm[22] ở trong nhóm Đất Mới.
Tôi nói dối. Tôi biết chuyện Huỳnh Ngự vừa nhắc tới. Nó là thế này: sinh viên hỏi thầy Phan Kế Hoành chuyện báo chí nói nhóm Nhân văn – Giai phẩm bôi đen chế độ nghĩa là thế nào. Thầy Hoành bèn sai một nữ sinh xuống nhà bếp mượn cho anh cái chảo. Đoạn, anh bảo cô sinh viên: “Em xoa bàn tay của em vào trôn chảo đi, xem tay em đen chưa nào, được rồi, bây giờ em xoa tay lên bảng! Xoa đồng nghĩa với bôi. Bôi đen nghĩa là như thế đấy!”
Sau vụ này Phan Kế Hoành bị tước quyền dạy học. May, người ta còn nể cụ Phan Kế Toại, nên anh chỉ bị chuyển qua công tác khác.
Cái lối gọi cụ Phan Kế Toại xách mé như thế chỉ có ở những cán bộ hãnh tiến. Chúng không biết rằng việc một đại thần triều Nguyễn có mặt trong hàng ngũ cách mạng và kháng chiến là biểu tượng của tinh thần đoàn kết dân tộc, là tấm gương cho nhiều người trước kia làm việc trong chính quyền thuộc địa noi theo. Nhờ những nhân sĩ có tên tuổi như cụ Phan Kế Toại đứng bên những người cộng sản mà chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp thêm rạng rỡ, uy tín của Đảng cộng sản được nâng cao.
– Còn Văn Cao?
– Văn Cao thì tôi biết.
Huỳnh Ngự cười khẩy:
– Phải nói thân mới đúng chớ! Anh với Văn Cao cùng một hội mà. Các anh gọi Văn Cao là cái chi nhỉ? Tui nhớ ra rồi: ông tiên chỉ.
Thì ra y cũng biết cái biệt hiệu tếu mà chúng tôi đặt cho Văn Cao.
Cái cách hỏi cung của Huỳnh Ngự là thế: y nhảy lan man từ nhân vật này qua nhân vật khác, từ đề tài này qua đề tài kia, luôn giữ người bị hỏi cung trong thế bị động.
Trong khi giữ vẻ mặt bình thản để trả lời những câu hỏi khó hiểu của Huỳnh Ngự, tôi luôn phải căng thẳng suy nghĩ: y muốn gì?
Nghi ngờ Nguyễn Tuân, Văn Cao đã đành, hai ông vốn ngang bướng, không cân nhắc lời ăn tiếng nói. Khốn nỗi, bất cứ cái gì không phải từ Đảng mà ra đều làm cho Đảng khó chịu, ngứa ngáy chân tay, muốn đánh. Nhưng tại sao họ lại vơ cả Tôn Thất Tùng với Tạ Quang Bửu vào đấy?
Tôn Thất Tùng là một nhà giải phẫu tài ba. Phương pháp mổ gan khô của ông được đồng nghiệp trên thế giới ngày ấy đánh giá như một sáng tạo trong ngành giải phẫu. Tôi gặp Tôn Thất Tùng nhiều lần. Ông để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc về một trí thức ngang tàng. Trong một lần phỏng vấn ông, Tôn Thất Tùng tiếp tôi tại phòng làm việc trong bệnh viện Việt – Đức. Thấy tôi nghiêng ngó ngắm bức tượng bán thân của chính ông đặt ngay sau bàn, sát tường, Tôn Thất Tùng mỉm cười pha chút khiêu khích: “Anh lấy làm lạ hả, nhà báo?”.
Tôi đỏ mặt lên, không biết trả lời ông thế nào, cứ như thể tôi bị bắt quả tang đang nghĩ xấu về ông vậy. Thái độ bối rối của tôi làm ông thú vị. “ Người ta có tượng của họ, sao mình lại không thể có tượng của mình? Anh đồng ý thế không?”, ông vui vẻ nói.
Chữ “người ta” mà ông dùng trong văn cảnh cuộc gặp gỡ hôm ấy là để chỉ ông Hồ Chí Minh. Không giấu giếm, cũng không cay cú. Tôn Thất Tùng là một trí thức xứng với quan niệm về trí thức của người Việt – đứng thẳng, không cúi đầu trước cường quyền. Ông ghét thói xu nịnh, sùng bái, thói tôn vinh quá mức một con người, đưa con người đó lên hàng thánh nhân. Chừng ông thấy khắp ngang cùng ngõ hẻm đều có tượng ông Hồ Chí Minh, ông muốn chơi chướng, bèn thuê nặn tượng mình.
Không rõ nhà điêu khắc nào đã nặn bức tượng đó. Nó được làm giả chất liệu đồng hun và đặt nghiêm trang trên đế gỗ. Đáng tiếc, trong bức tượng không có được những nét hóm hỉnh rất sinh động đặc trưng của nhà giải phẫu.
Giáo sư Tạ Quang Bửu hồi ấy làm chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước. Tòa soạn giao cho tôi viết một bài giới thiệu về Ủy ban, cái thai nhi hứa hẹn trở thành Viện Hàn lâm Khoa học sau này. Tại văn phòng đảng ủy, tôi được phó bí thư hay ủy viên thường vụ tiếp, hình như tên là Lê Duy Văn thì phải, nếu tôi nhớ không nhầm. Người của Đảng gày nhẳng, lộ hầu, áo sơ-mi nhàu nát bỏ ngoài quần, đang ngồi bên cái transistor Xiang Mao. Vào giờ ấy Đài phát thanh Bắc Kinh đang truyền đi một văn kiện quan trọng. Trong thời kỳ sôi động của “cuộc đấu tranh giữa hai đường lối” đài Bắc Kinh đóng vai huấn luyện viên môn võ mồm. Trong những ngày ấy nó phát đi phát lại không mệt mỏi một giáo trình lê thê gồm những bài phê phán Liên Xô, được các nhà mác-xít nội hóa gọi là “những quả đấm dành cho Khrushov”.
Tôi được Lê Duy Văn tiếp niềm nở. Sau một tuần trà, chúng tôi nói chuyện tâm đắc như hai anh mác-xít chính cống (nghĩa là đặc sệt mao-ít).
– Tôi sẽ bố trí để đồng chí phỏng vấn hắn – anh ta thì thầm – Đồng chí gặp hắn cứ làm ra vẻ thân mật, trí thức cả với nhau ấy mà, hắn mắc câu ngay thôi, thằng cha vậy mà cả tin lắm. Thế rồi trong câu chuyện đồng chí mới đặt cho hắn mấy câu hỏi thế này thế này… Về bài báo giới thiệu Ủy ban xin đồng chí cứ viết theo tài liệu tôi đưa đây, nó được soạn sẵn cho các nhà báo nước ngoài. Cần thêm vào đấy cái gì thì thêm, cứ theo lập trường Đảng ta là được… Phỏng vấn Tạ Quang Bửu xong, đồng chí ghi được gì xin chuyển cho chúng tôi, càng có nhiều chi tiết càng tốt.
Tôi muốn đập vào cái bản mặt mác-xít lê-nin-nít đểu cáng của anh chàng này một cái quá. Trông người mà nghĩ đến ta, chắc sau lưng tôi cũng chẳng thiếu những ông bạn quý hóa bước ra từ cùng một lò.
Trong tiếng Việt của ta cách xưng hô thực phong phú. Vào Hỏa Lò tôi mới biết ở đây, hay nói cho đúng trong ngành công an, có lệ bất cứ ai bị bỏ tù đều là “thằng” hết, còn ai chưa bị bỏ tù, nhưng có thể bị bỏ tù, thì gọi bằng tên trống không. Cách gọi mọi đối thủ bằng thằng, bằng con trong ngôn từ chính trị có cội nguồn của nó. Nó xuất hiện vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông Hồ Chí Minh cũng dùng cách gọi này trong những cuộc nói chuyện với cán bộ và trong những bài viết trên báo Cứu Quốc: thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Xi-ha-núc, thằng Lý Quang Diệu, thằng Măng-đét Phrăng (Mendès France)… Theo gương ông, về sau người ta gọi bất kỳ kẻ thù chính trị nào cũng bằng “thằng” hết: thằng Bảo Đại, thằng Diệm, thằng Khánh, thằng Kỳ, thằng Thiệu… Cách gọi như thế được coi như sự khẳng định lập trường chính trị.
Để phân ranh giới, Huỳnh Ngự gọi những người bị bắt bằng “thằng” – thằng Giang, thằng Chính, thằng Kỳ Vân, thằng Minh Việt vân vân. Với bác sĩ Tôn Thất Tùng, nhà khoa học Tạ Quang Bửu, nhà văn Nguyễn Tuân, nhạc sĩ Văn Cao mà Huỳnh Ngự gọi bằng tên trống không có nghĩa là họ tạm thời chưa bị coi là đối tượng của cách mạng.
Đảng cộng sản Việt Nam đối xử với trí thức rất không công bằng, tôi nghĩ. Trí thức ở miền Bắc Việt Nam thời ấy ngoan ngoãn lắm, dễ bảo lắm. Quằn quại trong thân phận nô lệ thời thuộc Pháp, khi đất nước đã giành được độc lập, họ hào hứng và tự nguyện đi theo Đảng cộng sản, cho rằng không có lực lượng nào khác có thể đem lại cho họ tự do và hạnh phúc. Trong niềm tin đã được khẳng định qua Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, trí thức Việt Nam sẵn sàng làm bất cứ công việc gì Đảng cần đến. Không ở đâu trong các nước xã hội chủ nghĩa có được một tầng lớp trí thức ngoan ngoãn và dễ bảo đến thế. Trí thức ở các nước Ba Lan, Hungari, Tiệp Khắc, Liên Xô, kể cả trí thức Trung Quốc, cứng đầu hơn trí thức Việt Nam nhiều.
Đảng tập hợp họ, bảo họ chỉnh huấn để củng cố và nâng cao lập trường, thì họ như những cậu học trò nhỏ họ thành tín ngồi nghe cán bộ Đảng dạy bảo. Ngỡ ngàng trước những tín điều lạ tai, lòng nhủ lòng rằng mình mang nhiều tư tưởng của các giai cấp bóc lột nên không hiểu nổi những điều Đảng dạy, họ tin cậy đưa tay cho Đảng dìu dắt, hùng hổ xỉ vả nhau về những khuyết điểm có thật và không có thật đối với cách mạng, nghiêm túc cặm cụi viết những bản tự kiểm thảo trước Đảng, hi vọng được Đảng tha thứ mọi lỗi lầm, để được đi theo Đảng tới chân trời cộng sản.
Đảng bảo phải “hạ phóng”, “ba cùng”[23], thế là họ bỏ bàn giấy, phòng thí nghiệm, giảng đường, ba lô lên vai xuống nông thôn, chịu cực, chịu khổ, ba cùng với nông dân, ngày ngày tu dưỡng hòng có được những đức tính của người dân cày chẳng cần học hành cũng có…
Đảng hô hào phóng tay phát động quần chúng làm Cải cách ruộng đất thì họ lăn lộn ngày đêm nơi bùn lầy nước đọng “thăm nghèo hỏi khổ”, “bắt rễ xâu chuỗi”[24]. Cùng với đội với đoàn, họ mẫn cán thực hiện định mức thành phần[25], tìm ra bằng được, cho đủ số kẻ thù theo chỉ tiêu Đảng đặt ra, hăng hái lôi bọn cường hào, ác bá ra đấu tố, ra pháp trường.
Đến khi Đảng ngượng ngùng tuyên bố sửa sai thì họ mới ngã ngửa ra rằng, họ, những trí thức, lẽ ra phải lấy nhân ái làm đầu, thì đã theo Đảng nhúng tay vào máu. Do quá tin Đảng họ nhắm mắt tuân theo Đảng, không cần suy nghĩ, ai ngờ cùng với chủ thuyết lấy đấu tranh giai cấp làm động lực tiến hóa, Đảng đã gây ra vô vàn bi kịch trong đời sống một dân tộc hiền hòa.
Nhưng rồi bị Đảng dẻo mỏ thuyết phục rằng sai lầm là nhất thời, thắng lợi là căn bản, họ lại lẽo đẽo theo Đảng, dùng uy tín của trí thức để tiếp tục lôi kéo nhân dân vào những phong trào lẩm cẩm, thậm chí rất phản khoa học, như cấy thật dày để tăng sản lượng lúa, cắt đuôi, cắt tai, cắt tuyến giáp trạng của con lợn cho lợn mau lớn, tăng năng suất vận tải bằng một xe kéo nhiều rơ-moóc… Kịp tới khi những cánh đồng cấy dày chỉ cho rơm chứ không cho thóc, những con lợn bị cắt đuôi, cắt tai, cắt tuyến giáp trạng[26] lăn đùng ra chết tốt, những chiếc xe tải kéo nhiều rơ-moóc hỏng hàng loạt thì họ lại ngã ngửa ra lần nữa, chợt thấy Đảng chẳng hề là trí tuệ và lương tâm thời đại như báo Đảng quảng cáo, mà chỉ là một mớ tạp pí lù những kiến thức chắp vá học mót ở những thầy mo bên Tàu.
Vị trí của trí thức ở Việt Nam thật thảm hại. Số phận của họ cũng thảm hại không kém.
Vừa sử dụng vừa dè chừng trí thức, không thực lòng đoàn kết với họ, là đường lối có tính chất sách lược của Đảng. Cứ mỗi khi xuất hiện một biến cố chính trị là mỗi lần Đảng phải căng mắt căng tai theo dõi mọi động thái của giới trí thức đáng ngờ, tay lăm lăm dùi cui và còng số 8.
Lần này cũng vậy. Sau vụ “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” ở Trung Quốc, vụ Nhân văn – Giai phẩm ở Việt Nam, sau những biến cố chính trị ở Hungari, Ba Lan[27], Đảng còn đề cao cảnh giác hơn nữa đối với đám trí thức bất trị.
Những cuốn sách được viết ra theo yêu cầu và dưới sự chỉ đạo của các cấp bộ Đảng vẫn bị các nhà trông nom tư tưởng xem đi xét lại nhiều lần trước khi cho phép xuất bản. Hội họa là lĩnh vực các nhà lãnh đạo i tờ hết sức, nhưng thói quen thích dạy dỗ thâm căn cố đế làm cho họ tưởng rằng họ giỏi nhất trong thiên hạ, vẫn cố xen vào để ra những chỉ thị cho giới cầm cọ rằng họ phải vẽ thế này thế nọ mới đúng. Nói cho đúng, tổng bí thư Lê Duẩn ít can thiệp thô bạo vào lĩnh vực sáng tác. Dường như trong chuyện này Duẩn tránh không muốn đụng tới những lĩnh vực mình không biết, không rành, nói trắng ra là mù tịt. Nguyên tổng bí thư Trường Chinh thì khác. Trường Chinh luôn huyễn hoặc về mình như một lãnh tụ hiền minh mà nhân dân trông chờ được ban phát chân lý. Bệ vệ, trịnh trọng, ông ta thân hành đến duyệt từng cuộc triển lãm hội họa trước khi nó được khai mạc. Bức Ô Quan Chưởng, được coi là một trong những tranh đẹp nhất của Bùi Xuân Phái, bị Trường Chinh phê phán rất nặng nề. “Hừm, thế này mà là tranh à?! – chắp tay sau lưng, Trường Chinh đứng hồi lâu trước bức tranh, xem xét, ngắm nghía – Hà Nội của chúng ta là thủ đô của nước Việt Nam đang tiến lên chủ nghĩa xã hội hay một thành phố chết? Các đồng chí hãy nhìn xem: phố Hà Nội không người, chỉ có nắng chang chang với hoa phượng rụng đầy đường như máu, có một chiếc xích-lô thì người đạp xích-lô cũng đi đâu mất… Giá mà xa xa, ở hậu cảnh có lấy vài cái cần trục chứng tỏ chúng ta đang xây dựng thì còn tha thứ được, đàng này… !”
Bức tranh lập tức bị loại khỏi cuộc triển lãm. Mỗi lời nói của lãnh tụ cựu tối cao cho đến khi ấy và còn là một chỉ thị không được phép cãi lại.
Bùi Xuân Phái kể cho tôi nghe câu chuyện hoạt kê đó với vẻ mặt dửng dưng. Những chuyện như thế đối với anh không phải là chuyện lạ.
Bùi Xuân Phái gọi những bức tranh không bao giờ được triển lãm của anh là “tranh quay mặt vào tường”. Anh vẽ trên gian gác lửng tối mò ở Phố Hàng Thuốc Bắc. Thứ gác này mới xuất hiện vào cuối những năm 50, chia căn phòng thành hai theo chiều cao, đứng thẳng là đụng trần, đi lại phải lom khom. Dưới cái gác lửng của anh vừa là nhà ở, vừa là phòng ăn, vừa là phòng học của con cái. Tôi uống trà với anh trong ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn 60 oát trộn lẫn ánh sáng tự nhiên khuếch tán, ngắm những bức “tranh quay mặt vào tường” được anh lôi ra từng cái một.
Chẳng cứ tranh. Nhiều truyện ngắn cũng chung số phận. Chúng không bao giờ được nhìn thấy ánh sáng mặt trời mà chỉ tồn tại ở dạng kể. Kim Lân[28] gọi chúng là những “truyện xuất bản bằng mồm”. Anh có một truyện ngắn kiểu đó, truyện Thằng Câm. Tourgueniev[29] cũng có một truyện ngắn với đề tài tương tự, nhưng xem ra khó vượt nổi Kim Lân. Thằng Câm chẳng bao giờ ra đời. Cho đến lúc có thể viết được thì Kim Lân không còn hứng thú. Gặp anh tại Sài Gòn năm 1990, tôi nhắc anh truyện Thằng Câm thì Kim Lân cười buồn: khốn nạn cái số Thằng Câm nhà tôi nó vất vả, nó chết yểu là do thiên định, thôi thì để cho nó mồ yên mả đẹp, có dựng nó dậy cũng chẳng được, mà cũng chẳng ích gì.
Tôi buồn cho thân phận văn nghệ sĩ nước ta.
Nào họ có muốn đấu tranh với ai. Lại càng không muốn đấu tranh với mấy anh lãnh tụ cộng sản. Họ chỉ muốn được sống yên để làm công việc mình yêu thích. Mà cũng chẳng được!
Lần này, vào thời điểm trào lưu dân chủ, dẫn đầu bởi tầng lớp trí thức, ào ào dâng lên tại các nước xã hội chủ nghĩa, trí thức Việt Nam lẳng lặng đứng về phía những người anh em của mình. Đó là làn sóng ngầm bên dưới mặt nước phẳng lặng.
Ai cũng biết trí thức được đào tạo tại phương Tây, hay tại các nước xã hội chủ nghĩa thì cũng thế, họ chẳng có gì đáng gọi là lực lượng trong xã hội. Nhưng họ lại có tình yêu và lòng ngưỡng mộ của quần chúng. Trong mọi biến động lịch sử trí thức bao giờ cũng đi tiên phong. Mao Trạch Đông thừa nhận tác dụng ngòi nổ của tầng lớp này trong cách mạng, và Mao đã triệt để lợi dụng nó, nhưng khi cách mạng thành công rồi, cũng lại chính Mao nhấn mạnh, trí thức sẽ là vật cản đường cách mạng bởi tính chất lừng chừng, dao động của nó. Trong những vụ nổi dậy ở Ba Lan, Hungari, trí thức, nhất là trí thức trẻ – sinh viên và học sinh – ào ào xuống đường, kéo theo các tầng lớp khác. Tấm gương tầy liếp đó làm cho những nhà lãnh đạo Việt Nam luôn dè chừng trí thức.
Khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào – đào tận gốc, trốc tận rễ” trong cuộc nổi dậy Xô-viết Nghệ Tĩnh[30] bộc lộ tâm trạng hằn thù trí thức của những kẻ dốt nát. Tâm trạng này có chiều sâu lịch sử, từ những cuộc trấn áp tàn bạo thời các vua chúa cho tới những vụ đốt sách chôn học trò.
Đòn đánh không trực diện nhằm vào trí thức lần này giáng xuống những người cộng sản thân trí thức. Đó là những người cách mạng ý thức được nhược điểm của mình. Họ thừa nhận mình dốt, và họ tìm được sự bổ sung cho lỗ hổng kiến thức bằng sự liên kết chặt chẽ với trí thức.
Những người cộng sản thiếu học không hiểu rằng mục đích cuối cùng của cách mạng vô sản, theo Marx, không phải chỉ nhằm giải phóng thân phận nô lệ của người vô sản mà là giải phóng con người nói chung, nhằm “đưa con người từ vương quốc tất yếu qua vương quốc tự do”. Marx không tưởng trong hình dung xã hội tương lai, nhưng mục đích của ông đầy tính nhân đạo.
Đánh vào những người cộng sản chủ trương dân chủ hóa xã hội, xóa bỏ chế độ toàn trị, là thủ tiêu chỗ dựa tinh thần của trí thức, thủ tiêu ý chí đấu tranh của trí thức, đặt trí thức vào đúng vị trí Đảng muốn: vị trí của thằng hầu.
Duẩn – Thọ là những nhà chính trị không đần độn. Không cần ai dạy bảo họ cũng thấy trước được điều gì sẽ xảy ra cho vị trí kẻ cầm quyền dựa trên sức mạnh bạo lực. Họ biết quần chúng sớm muộn cũng sẽ biết bộ mặt thật của họ. Tương lai làm họ sợ hãi. Trong cơn sợ hãi họ tung đòn đánh trước.
Ông Bùi Công Trừng[31] nói với tôi: “Cháu nhớ lấy, ở đời dốt nát với hiểu biết như là nước với lửa. Họ dốt (tức các nhà lãnh đạo), đã thế lại không chịu học, thánh nhân mà còn phải học sao còn là thánh nhân, thành ra đã dốt lại càng dốt thêm. Dốt ghét giỏi là lẽ thường tình. Trí thức nước mình còn khổ, chừng nào thằng dốt còn đè đầu thằng giỏi. Cái đó là bi kịch không phải của một mình nước ta mà của tất cả các nước xã hội chủ nghĩa. Bác già rồi, số tận rồi, nghĩ mà thương các cháu”.
Ông Bùi Công Trừng nằm trên giường bệnh thở oxy vẫn đọc sách. Tôi nhớ rõ ông là người gióng hồi chuông báo động sớm nhất về nạn phá rừng. Ngay từ cuối thập niên 50, khi môi sinh chưa trở thành vấn đề gay gắt toàn cầu, ông đã viết những bài về việc phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi sinh. Ông phàn nàn: “Cháu ơi, tội ác của chúng nó lớn lắm – đất đai mình rừng vàng biển bạc thiệt, nhưng đâu phải vô tận. Giờ chúng hô hào tăng gia sản xuất tràn lan, dân được thể phá rừng quá xá. Mấy năm trước, cháu còn nhớ không, lên tới Đoan Hùng đã là rừng rồi. Bây giờ đến tận Tuyên Quang còn là trung du! Bọn chúng chỉ có phá là giỏi!”. Bùi Công Trừng để lại một tập sách dày gồm những suy nghĩ của ông về phát triển kinh tế địa phương, kết quả của những nghiên cứu sâu sắc và khoa học, đến tận thời kỳ “bung ra” (1979-1980) vẫn còn đắc dụng cho các tỉnh ủy trong việc vạch kế hoạch kinh tế địa phương.
Cuộc trấn phản đang diễn ra ở miền Bắc Việt Nam rõ ràng là bản sao của cuộc trấn phản trong Đại cách mạng văn hóa vô sản[32] ở Trung Quốc. Trong tình hình đất nước đang có chiến tranh người ta không thể làm to hơn cái có thể làm, do đó họ giới hạn mục tiêu trong sự vô hiệu hóa một số ủy viên Bộ Chính trị và ủy viên Trung ương có khả năng thế chỗ ban lãnh đạo đương thời một khi xảy ra biến động. Đòn mạnh hơn được giáng xuống những người cộng sản ở cấp thấp hơn.
Charles Fourniau, nhà sử học Pháp có nhiều công trình nghiên cứu về Đông Nam ĩ, đã từng chiến đấu bên cạnh nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc 1946 – 1954, trong một hội thảo bàn tròn vào cuối thập niên 70 đã huỵch toẹt ra rằng: “Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Campuchia là những xã hội cùng chung một mô hình, chỉ khác nhau ở cấp độ mà thôi”.
Lê Duẩn, Lê Đức Thọ không phải Mao Trạch Đông. May cho Việt Nam, trong chuyện hành hạ trí thức Duẩn – Thọ hành động còn rụt rè. Trí thức dưới thời Duẩn-Thọ chỉ bị hành hạ cho tới thui chột đi mà thôi. Lại một lần nữa Nguyễn Tuân lại có dịp để chơi chữ. Ông nói: “Ở Cam-pu-chia Pôn-Pốt diệt chủng, ở ta êm nhiều, người ta chỉ tiệt chủng thôi!”
Một đặc điểm của thời kỳ này là đường lối đánh đu giữa hai cọc.
Trên những trang báo Nhân dân, và các báo khác cũng thế, cứ mỗi bài nói tới Liên Xô thì lại có một bài nói về Trung Quốc, với số dòng tương đương, với cỡ chữ tương đương, không bên nào được lớn hơn bên nào. Đường lối này được giữ trong một thời gian dài trong cuộc xung đột ý thức hệ chủ yếu là nhờ ông Hồ Chí Minh. Vai trò “tôi là người giữa tôi chữa đôi bên” của ông, đáng tiếc, đã tỏ ra không bền. Vị thế trung dung sở dĩ tồn tại được một thời gian còn nhờ ở tâm trạng do dự của Lê Duẩn. Một mặt, Lê Duẩn sợ Mao Trạch Đông nổi nóng khi thấy Việt Nam không nồng nhiệt hưởng ứng cuộc chiến tranh tư tưởng do ông ta phát động rầm rộ trên toàn lục địa Trung Hoa, nhằm chống Liên Xô để giành bá quyền trong thế giới cộng sản. Mặc dầu trong thâm tâm Lê Duẩn, cũng như những người cùng phe cánh, ủng hộ Mao, thừa nhận Mao là lãnh tụ của họ. Đi theo mô hình xô-viết đổi mới là tự mình chặt cái cành cây mình đang ngồi. Mặt khác, Lê Duẩn do dự vì sợ những người chủ mới của điện Kremli lạnh lùng thắt hầu bao lại, thì chủ trương chiếm miền Nam bằng bạo lực có cơ phá sản. Những ý kiến đối nghịch ở trong nước không được Lê Duẩn tính đến, hoặc không được tính đến một cách nghiêm túc. Chuyện nội bộ Duẩn mặc cho Thọ toàn quyền. Cho nên mới có chuyện cùng một lúc Lê Duẩn thề thốt trung thành với Liên Xô, Lê Đức Thọ bắt “bọn xét lại hiện đại”.
Có vẻ số dê tế thần của nước chư hầu chưa đủ làm vừa lòng Mao. Anh bạn nhà báo Hoa kiều tên là Lâm Âm[33] cùng công tác với tôi tại báo ảnh, một Hồng vệ binh chính cống chiến đấu ở mặt trận xa tổ quốc, một maoiste cuồng nhiệt, đã bật ra nhận xét này, rất điển hình cho lập trường Trung Quốc đối với Việt Nam, trong một cơn tức giận: “Mao chủ tịch dạy rằng: đánh giá cán bộ phải căn cứ ở việc làm chứ không ở lời nói. Đảng cộng sản Trung Quốc coi những kẻ ngoài miệng chống xét lại mà không làm việc gì chống xét lại cũng là một thứ xét lại! Hết thảy bọn chúng đều là cỏ dại!”
Tôi không làm chính trị. Tôi cũng chẳng có mưu toan làm lung lay ngai vàng của Duẩn – Thọ. Mộng lớn nhất của tôi là được sống yên lành để được làm công việc mà tôi yêu thích. Ngoài cái đó ra tôi chỉ vỏn vẹn là một anh tiểu trí thức Việt Nam đặc thù: một nhúm kiến thức tây học trộn với nắm tro tàn của tinh thần nho sĩ xưa mà thành.
Thôi được, đành phải nhu vậy. Cái thế không thể khác. Nhưng nhu là nhu tới mức nào đây? Nhu quá là đầu hàng vô điều kiện.
Tôi biết mình chẳng bao giờ học được thói luồn cúi. Riêng sự phải lặng thinh nuốt nhục vào lòng đối với tôi cũng đã khó lắm rồi. Khó hơn chết.
Cái chết chẳng có gì đáng sợ. Nó là cái tặc lưỡi, cái nháy mắt, sau đó là hết, là hư vô.
Sống mới thực là khó.
[1] Một cách chơi chữ độc đáo. Trong chiến tranh, người Mỹ thường dùng loại máy bay trinh sát không người lái. Phở không có thịt, tức là không có nhân, không có “nhân” tức là không có “người”, từ đó mà ra cụm từ phở không người lái.
[2] Hồi ấy trong dân chúng có câu ca:Tôn Đản là chợ vua quan/Nhà Thờ là chợ trung gian nịnh thần/Con phe có chợ Đồng Xuân/Vỉa hè – đấy chợ nhân dân anh hùng
[3] Bản in thử.
[4] Chỉ cán bộ công an, từ cách gọi phó mộc (thợ mộc), phó nề (thợ nề), phó nháy (thợ chụp ảnh)..
[5] Người đồng tình luyến ái, chỉ chung cả nam, nữ.
[6] Rượu lậu. Vì phải trốn tránh nhân viên thuế vụ nên phải chui lủi. Từ đấy ra cái tên “quốc lủi”.
[7] Tên đã thay đổi vì lý do tế nhị.
[8] Verbe = động từ, tiếng Pháp.
[9] Chức sắc ở hương thôn thời thuộc Pháp trông nom việc địa bạ.
[10] "Đắc chí, dữ dân do chi, bất đắc chí, độc hành kỳ đạo, phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử vị chi đại trượng phu", nghĩa là "lúc đắc chí thì cùng với dân mà hành đạo, không đắc chí thì hành đạo một mình, khi giàu sang không ham mê tửu sắc, lúc nghèo hèn không dời đổi tiết tháo, trước uy vũ không khuất phục" (Sách Mạnh tử, Đằng Vân công Hạ)
[11] Hứa Văn Định (1935-1995), nhà văn, nhà biên kịch điện ảnh. Được biết đến với những tiểu thuyết Mắt Trẻ Thơ, Chân Dung Người Mẹ, Lửa Rừng Đêm, Sống Trên Điểm Chết, Tiếng Mùa Thu…
[12] Mạc Lân (1928-2006), nhà báo, thương binh thời kháng chiến chống Pháp,con trai cả của nhà văn Lê Văn Trương. Bị xếp vào loại có tư tưởng xét lại, bị cho về hưu non.
[13] Một trong những bí danh của Nguyễn Lương Bằng, được dùng nhiều từ năm 1941 trở đi, cùng với bí danh Sao Đỏ.
[14] Em ruột học giả Đào Duy Anh, nguyên bí thư xứ ủy Bắc kỳ khoảng cuối thập niên 30 đầu thập niên 40. Sau khi không tìm đâu ra Trường Chinh (lúc ấy đang trốn ở Phúc Yên), Đào Duy Kỳ đã triệu tập một cuộc họp những cán bộ nòng cốt để bầu ra một Trung ương mới, thay thế cho Trung ương cũ đã bỏ chạy. Trong cuộc họp này Đào Duy Kỳ được bầu làm Tổng bí thư lâm thời. Chuyện này không bao giờ được những người viết lịch sử Đảng nhắc tới.
[15] Tôn Thất Tùng (1912-1982),. một nhà giải phẫu nổi tiếng trong nước và thế giới trong lĩnh vực gan và giải phẫu gan, được Nhà nước VNDCCH tặng danh hiệu anh hùng lao động.
[16] Trà pha thật đặc, nói thậm xưng là cắm que tăm vào mà que tăm vẫn đứng chứ không đổ.
[17] Tạ Quang Bửu (1910 –1986) giáo sư, nhà toán học; từng là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, đại biểu Quốc hội liên tục từ khoá I đến khóa VI (1946–1981). Những trí thức như ông, căn cứ cách đánh giá của công an, dù có chức vụ cao cũng chỉ là để bày cảnh “đoàn kết toàn dân”, chứ không hề được đảng cộng sản coi trọng.
[18] Em ruột học giả Đào Duy Anh và nhà cách mạng Đào Duy Kỳ. Anh cũng bị liệt vào “bọn xét lại”.
[19] Con trai trưởng nguyên khâm sai đại thần Phan Kế Toại của triều đình Huế, cố phó thủ tướng nước VNDCCH.
[20] Em trai kế hoạ sĩ Phan Kế An.
[21] Phan Kế Toại (1889-1973), năm 1943 giữ chức Tổng đốc Thái Bình, năm 1945 là Khâm sai đại thần của chính phủ Nam triều. Đi với cách mạng, cụ giữ chức bộ trưởng Bộ Nội vụ (công việc khác với Bộ Nội vụ, thực tế là Bộ Công an, trong thập niên 60).
[22] Khi có vụ Nhân văn – Giai phẩm, Bùi Quang Đoài, Huỳnh Lý, Phan Kế Hoành, Hoàng Tích Chỉ và Văn Tâm đều là những nhân vật xuất sắc trong nhóm Đất Mới của sinh viên, lập trường gần với nhóm Nhân văn – Giai phẩm.
[23] Hạ phóng, từ ngữ đặc Trung Quốc, có nghĩa đi xuống dưới, xuống cơ sở, xuống với dân. Ba cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng lao động.
[24] “Thăm nghèo hỏi khổ” là khuyến khích nông dân nói lên tình cảnh nghèo khổ của mình để khơi lên lòng căm thù đối với kẻ bóc lột. Bắt rễ là tìm những nông dân bị bóc lột khổ sở nhất, bồi dưỡng thành cốt cán trong cải cách ruộng đất. Xâu chuỗi là từ rễ được chọn phát triển rộng thêm tới các nông dân tốt khác.
[25] Trong Cải cách ruộng đất ở Việt Nam, người ta không xuất phát từ tình hình phân chia ruộng đất cụ thể của địa phương mà tìm ra những chỉ số khoa học về tỷ lệ địa chủ/nông dân. Uỷ ban cải cách ruộng đất Trung ương, dưới sự chỉ đạo của các thày Tàu, đã ra trước một định mức thành phần, bất kể nó có phù hợp với thực tế hay không. Căn cứ vào định mức trên giao xuống (thí dụ 5%), các đội cải cách cứ phải nặn ra cho bằng đủ thì thôi.
[26] Những người tò mò có thể tìm thấy trong thư viện những bài báo cổ động cho những phong trào lẩm cẩm không thể tưởng tượng nổi trong thế kỷ XX trên những trang báo Nhân dân thập niên 50-60.
[27] Cuộc nổi dậy đòi cải cách kinh tế và chính trị ở Ba Lan, được đông đảo nhân dân tham gia, kéo dài từ tháng 6 cho đến tháng 10 năm 1956. Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan phải kêu gọi Hồng quân Liên Xô tiến vào để dập tắt cuộc nổi dậy này. Tiếp đến là cuộc nổi dậy ở Hungari trong hai tháng 10 và 11, cũng b ị Hồng quân Liên Xô dập tắt.
[28] Kim Lân (1921-2007), nhà văn từ trước Cách mạng Tháng Tám, nổi tiếng với những tác phẩm hiện thực: Vợ Nhặt, Đứa Con Người Vợ Lẽ… Những tác phẩm sau này (rất ít) của ông được độc giả nhớ là Ông Lão Hàng Xóm, Con Chó Xấu Xí. Truyện ngắn Con Chó Xấu Xí bị coi là lời bóng gió chửi Đảng, làm cho nhà văn có hồi bị công an chú ý. Nhà văn Xuân Sách vẽ chân dung Kim Lân bằng mấy câu: “Nên danh nên giá ở làng/ Chết vì ông lão bên hàng xóm kia/ Làm thân con chó xá gì/ Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn".
[29] Ivan Sergeevich Tourgeniev (1818-1883), nhà văn lớn của nước Nga.
[30] Cuộc biểu tình ngày 1. 5. 1930 mở đầu cho một cuộc nổi dậy chủ yếu của nông dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Nó mang tên xô-viết Nghệ Tĩnh trong các sách sử của cộng sản, trên thực tế không có một hình thức chính quyền gọi là xô-viết trong cuộc nổi dậy đó.
[31] Bùi Công Trừng (1905-1986) là một nhà cách mạng cộng sản thuộc lớp kỳ cựu, tốt nghiệp Đại học Phương Đông Moskva, ủy viên Trung ương Đảng, cựu tù nhân Côn Đảo, phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước đầu thập niên 60.
[32] Cuộc Đại Cách mạng Văn hoá Vô sản ở Trung Quốc do Mao Trạch Đông phát động kéo dài 10 năm, từ 1966-1976. Những tên cầm đầu, trên thực tế là tay chân của Mao, về sau mang tên gọi “Tứ nhân bang” (Bè lũ bốn tên) là Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên, đều bị xử tù, bị giết.
[33] Về sau này, khi Trung Quốc rục rịch tấn công Việt Nam (1979), Lâm Âm cũng bị bắt ở miền Trung, cũng là tù không có án, buồn cười thế. Nghe nói rồi sau anh cũng được thả về Sài Gòn.