Nuôi Sẹo (kỳ 7)

Triều Sơn

CHƯƠNG XI

Tết, Tết sắp đến.

Nuôi Sẹo quanh quẩn ở đâu cũng thấy Tết sắp đến. Tết đến ngấm ngầm rồi xôn xao trong cảnh làng, những nhà giàu đã rủ nhau đánh đụng lợn và giành Nuôi Sẹo trước, trong cảnh nhộn nhịp của những hiệu khách ngoài phố người mua bán ra vào tấp nập suốt ngày trong cảnh chợ huyện đã đông hơn thường ngày, đây đó bày ra ít hàng Tết: quần áo mới, mứt kẹo, pháo… trong cảnh ồn ào, lộn xộn ở phía ga. Khi tàu đến ga, những đoàn tàu đầy nghẹt người, có khi chậm đến nửa giờ, trên vẻ mặt những người nghèo than vãn, bàn tán, lo lắng trả hết nợ cuối năm để được yên thân ăn Tết. Đám ăn mày hoạt động ở ga, ở chợ, cố xin được nhiều để ít nhất được no đủ ngay mồng một Tết.

Tết gần đến ở trong lòng Nuôi Sẹo, gã như ngửi thấy hương Tết ở trong khí trời, trong buổi chiều xuống, trong bóng tối ban đêm, trong gió lạnh, mưa phùn, gã cảm thấy như có cái gì sắp sửa báo cảnh Xuân sang.

Gần Tết, việc tuần phòng trong làng cũng ra vẻ cẩn mật hơn. Nuôi Sẹo thấy người hai họ bị gọi đi tuần ra vẻ đông hơn mọi ngày, hơn cả ngày trong làng xảy ra việc đánh nhau lớn. Nhưng Nuôi Sẹo cũng cảm thấy năm nay có gì khác mọi năm: đội Hướng được phép đặc biệt là vác súng đi canh gác trong làng cả ngày, lẫn đêm. Và lý dịch bắt tráng đinh rào dậu làng kỹ lắm. Không có năm nào vào những tháng cũ mật này, Nuôi Sẹo lại thấy những chuyện khác thường như thế. Một buổi tối, về nằm ngủ ở nhà Ba Đèn, gã hỏi Ba Đèn mới biết rằng nguyên do là tại Tư Bường người họ Đoàn, mãn tù vào đầu tháng này mà không thấy trở về làng. Nuôi Sẹo nhớ lại Tư Bường nguyên là một tên bộ hạ của Đốc Tít, cách đây mấy năm một buổi tối đã lỏn về nhà thăm mẹ và vợ. Lý dịch liền báo quan cho lính về bắt y. Y bị giải tỉnh tra khảo và bị bỏ tù năm năm. Mẹ và vợ cùng năm đứa con y vẫn ở làng Ngò. Nuôi Sẹo đoán bây giờ người ta sợ rằng Tư Bường sẽ trở lại theo Đốc Tít rồi kéo đồng đảng về trả thù và cướp làng.

Những việc canh phòng và rào dậu làng phần nhiều tráng đinh làm hết, Nuôi Sẹo cũng chẳng bận việc làng gì hơn mọi ngày. Nhưng Tết gần đến, các nhà giàu tranh nhau mượn gã làm khách đòi nợ từ ngày gã biết nằm vạ, nay lại càng tranh nhau dữ hơn. Gã đi đòi hết món nợ này đến món nợ khác. Nuôi Sẹo đòi nợ dễ dàng hơn xưa nhiều. Trong vòng nửa tháng, gã đòi được hơn chục món nợ mà chỉ phải rạch mặt ra dọa có ba lần. Được no đủ, nhiều lần gã nghĩ lấy làm lạ tại sao việc rạch mặt chảy máu ra để nằm vạ ở nhà quê này là chuyện rất thông thường mà sao mãi bây giờ gã mới biết. Ra con người ta ấy thế mà cũng có chỗ nhát. Còn mình mất ít máu, thêm ít sẹo mà được no đủ thì càng tốt chứ có sao đâu. Gã bắt đầu rạch mặt sang phía tay phải vì phía má bên trái đã hơi chật chỗ. Vả, gã cũng thích rằng mặt được cân đối đôi chút. Cũng tỉ như các cụ nhà Nho treo câu đối vẫn treo hai bên cân đối nhau chứ có ai chỉ treo một vế câu đối bao giờ.

Ban ngày đi đòi nợ, thông thường ban đêm Nuôi Sẹo về ngủ ở nhà Ba Đèn, chuyện trò với Ba Đèn và vợ chồng thằng Câm, mẹ Lê. Gã họp với bọn này một cái gia đình nho nhỏ. Dạo này cứ bao giờ ban đêm, nghe thấy trong tiếng gió ào ào những tiếng sủa là gã lại nghĩ đến Đốc Tít. Đã nhiều lần gã bảo Ba Đèn và vợ chồng thằng Câm kể những chuyện Đốc Tít cho gã nghe. Những chuyện này thực ra gã cũng biết nhưng gã không kể được và cứ muốn người khác kể cho mình nghe mãi. Gã biết rằng Đốc Tít là người tướng cướp oanh liệt nhất vùng này, có những bộ hạ tuyển lựa trong đám người giỏi võ và nghịch nhất vùng. Gã nghĩ: Đốc Tít tiếng là cướp mà lại biết thương người nghèo, chẳng thèm cướp của người nghèo bao giờ. Lần y cướp ở nhà bà giáo Phấn ở phố, đi qua lò gạch nhà ông Hương Mai Đốc Tít đã bảo bộ hạ vứt cho bọn nghèo đói làm lò gạch ít đồ cũ. Bọn làm gạch sau này bị đòi hỏi và có hai người đi ở tù. Nhưng cái tiếng Đốc Tít thương người nghèo cứ truyền tụng lại mãi. Đốc Tít cũng không nể gì các quan huyện. Nuôi Sẹo đã nghe thấy nhiều người kể đến cái vụ Đốc Tít ở huyện Lang Giang là huyện thuốc tỉnh Bắc, ở liền với An Giang này. Ngày ấy ông Huyện mới về, người ta đồn là quan hay bắt giặc cướp lắm. Quả nhiên, dân trong huyện thấy quan bắt lý dịch các làng thêm tuần trong làng, và ban đêm chính quan Huyện cũng đem lính đi đốc canh ở những làng gần huyện. Trong vòng 5 tháng liền, trong huyện đỡ được cái nạn Đốc Tít. Người ta đồn rằng Đốc Tít có người vợ thứ năm ở trong vùng huyện này, bây giờ không dám lỏn về thăm mẹ vợ như trước nữa. Đường huyện lên tỉnh qua một chỗ gọi là bãi Đông Mối, cách huyện lối 4 cây số, nơi vắng làng mạc, cũng là nơi ngày xưa bộ hạ của Đốc Tít hay nấp để thi hành một vài món cướp vặt khách qua đường, dân trong vùng này vẫn có câu ca dao: “Ban chiều, xẩm tối, Đông Mối chớ đi”, nhưng từ ngày có quan Huyện về nhậm chức vùng này thì người qua lại Đông Mối đỡ sợ những vụ cướp bóc. Quan Huyện lại muốn tỏ ra cho dân không nên sợ bọn Đốc Tít ở Đông Mối, và có lẽ cũng muốn tỏ vẻ coi thường Đốc Tít, thường cho vợ và con đi xe nhà gọng đồng ra tỉnh, lại ở tỉnh về qua chỗ này. Nhưng một bận vào buổi chiều bà Huyện và cô con gái gặp bộ hạ của Đốc Tít nhẩy ra túm ngay lấy ngay cái xe tay gọng đồng, chúng định trói anh cu-li xe lại, anh này chống cự nên bị đâm chết liền, lấy hết hành lý lại còn lột trần bà Huyện và cô con gái thả cho đi bộ về huyện, chúng còn nhắn bà lớn rằng: “Đốc Tít có lời hỏi thăm quan lớn”. Bà Huyện và tiểu thư đi đến tối mịt mới về đến huyện. Quan Huyện thân chinh đem lính đến bãi Đông Mối và bắt tuần các làng lân cận đi tìm khắp nơi thì chẳng còn bắt được tên cướp nào cả. Về sau quan Huyện xấu hổ với dân làng phải xin đổi đi nơi khác, và tiếng tăm của Đốc Tít sau vụ này lại lên như diều gặp gió.

Ba Đèn kể chuyện này khi nằm cạnh bàn đèn khéo lắm nên Nuôi Sẹo nghe đã nhiều lần vẫn không chán. Gã còn nói cả tên ông Huyện, nhưng Nuôi Sẹo mãi vẫn không nhớ được. Vào dịp này gã đòi nợ được nhiều món, có rượu uống luôn. Cứ khi nào rượu ngà ngà say, gió càng thổi tới cũng như thổi người gã một luồng chính khí, gã lại nhớ đến cái chuyện lột trần bà lớn và tiểu thư này. Lúc ấy thì gã lại thích đi làm cướp, theo Đốc Tít hơn cả, thích đi ra Hà Nội hơn cả, thích đi đôi giày săng đá như của đội Hướng. Có một lần ngà ngà say, gã thất thểu cầm gậy đi đòi nợ, một mình qua quãng đồng vắng, nhìn bãi cát Ông Đống lù lù xanh ở xa, gã nghĩ đến bãi Đông Mối, thầm mong có một bà Huyện và tiểu thư, gã vật ngã quay lơ xuống ruộng mà lột trần ra tức khắc. Nắm chắc gậy trong tay gã nhìn quanh đồng thấy vắng tanh, chỉ có một người đàn ông nhà quê đang cày ruộng, và ở phía trước mặt có một người đàn bà cắp rổ đi dọc theo những luống khoai lá còn xanh. Chẳng thấy có bà Huyện và tiểu thư nào hết. Gã dừng chân một lát, nhìn cái bãi Ông Đống mà thấy tiêng tiếc.

Ban đêm lúc sắp sửa ngủ, nghe tiếng chó sủa hay nghe thấy tiếng trống làng tùng tùng điểm canh gã lại tưởng bộ hạ của Đốc Tít về làng. Nhưng lần nào gã cũng thấy không phải. Đã gần đến rằm tháng chạp rồi mà gã vẫn chẳng thấy gì, gã tự hỏi: gặp tháng cơ mật nay tới gió lạnh, mưa phùn, giời tối như mực, người nọ người kia lại sắm sửa Tết, mà chẳng đi ăn cướp lấy một vài mẻ để tiêu Tết thì còn đợi gì nữa. Hay là sợ oai cụ lớn Tuần làng này rồi. Vào hôm mười chín tháng Chạp gã nghe thấy người trong làng phố nói đến một đám cướp ở nhà ông Bá Xuân, nhà giầu lắm ở bên làng Quyên bên huyện Lang Giang. Gã nghĩ: “Sắp đến huyện này rồi”. Nhưng mấy hôm liền gã lại chẳng thấy gì, và ra điếm chơi, gã thấy như bọn tuần làng ra vẻ chểnh mảng như trước. Chỉ có đội Hướng là vẫn vác súng đi canh ra vẻ cần mẫn lắm.

Đến đêm hôm hai mươi tháng chạp đang lúc thiu thiu ngủ gã bổ choàng dậy vì nghe thấy tiếng trống ngũ liên đổ liên hồi. Ba Đèn và vợ chồng thằng Câm cũng nhổm dậy. Không phải tiếng trống trong làng. Trông ra ngoài phố Ba Đèn nói: “Chắc ở ngoài phố rồi”. Trong đêm tối Nuôi Sẹo thấy y kéo chiếu để ngủ. Nuôi Sẹo nghĩ: “Chắc chắn là đây rồi. Không khéo được thể vào luôn trong làng là thường”. Gã run run tự hỏi: “Sao không thấy súng ở huyện bắn chỉ thiên”, vì gã biết xưa nay bao giờ có tiếng cướp là lính ở huyện cũng loanh quanh ở huyện bắn chỉ thiên ít phát. Nhưng thằng Câm đã lách cửa ra ngoài rồi chạy vào nói: “Cháy ở phố ga”. Nuôi Sẹo hơi thất vọng. Nhưng gã cũng theo thằng Câm chạy ra. Thằng Câm vừa chạy vừa nói: “Có khi bác Đốc bác ấy cho đốt lên thế này để cho tuần chúi cả ở đấy rồi bác ấy mới cho bộ hạ làm việc ở chỗ khác cơ”. Nuôi Sẹo thở hổn hển nay lại còn hy vọng đôi chút. Nhưng ra tới nơi gã chỉ thấy cháy lại uy nghi vác súng về canh huyện. Nuôi Sẹo bị người ta kéo vào chữa cháy. Gã đứng gần sát ngọn lửa nóng rát cả mặt để dội nước của người khác chuyển lại. Có một lúc một người bưng luôn một nồi nước giải định giội lên mái nhà nhưng gió tạt nên nước giải rơi gần hết vào đầu gã.

Khi gã về đến nhà gã thấy thằng Câm hôi ở đám cháy được một ít quần áo cũ và một hòm đồ thợ mộc. Còn gã chẳng được gì lại bị mọi người chửi khai nồng nặc quá.

Ba Đèn đuổi gã đi ra ngoài. Gã đi lên miếu. Gã chui vào khe đằng sau thì bất giác nghĩ đến thằng cu Tý. Gã thấy thèm cái hơi ấm ngày hai người còn ngủ với nhau, tự hỏi: Không biết bây giờ cu Tý ở đâu, nếu gặp nó mà lại có dịp thì gã kéo luôn nó đi theo Đốc Tít cho đỡ khổ, đỡ đói. Và có gặp mẹ con bà huyện nào nó cũng giúp được một tay, lột trần tiểu thư chẳng hạn. Khi gã ngả lưng xuống để ngủ, gã cảm thấy như xương thịt rãn ra, dễ chịu và đồng thời ngửi thấy khai khai. Gã lại tự hỏi: Bây giờ nó ở đâu?

Ngày hăm ba tháng Chạp, ngày tiễn Ông Công lên chầu Trời đã đến. Nhà nào nhà nấy trong làng, nhà giàu cũng như nhà nghèo, đều có cỗ cúng. Nhà Ba Đèn chiều nay cũng làm cỗ cúng. Nuôi Sẹo và Ba Đèn đóng góp cơm và trầu nước. Còn thằng Câm góp một con gà mà gã đã câu được trong buổi đi ăn mày hôm qua ở làng Hiếu. (Thằng Câm vẫn có cái nghề phụ này. Đi làng nào gặp chỗ vắng người gã giả vờ ngồi ỉa ở bờ tre, bỏ sợi chỉ và cần câu gà. Được con nào gã bóp cổ liền đút vào bọc để đem về).

Nuôi Sẹo hôm nay được một bữa no say gần bằng ăn cỗ đám khao nhà Cửu Tời. Gã thấy một không khí gia đình mà từ trước đến nay gã chưa được hưởng bao giờ. Gã nhớ lại cái vụ tầu đổ ở gần đền Ngựa Chuột năm nào. Hôm ấy gã khuân hàng tăng-bo và nhặt xác chết suốt ngày. Đến tối muộn phải về làng, gã gặp xe ngựa của Hai Thung liền trèo lên đi. Hôm ấy cũng vào mùa đông gió bấc đồng trống thổi vào trong xe ngựa hở tứ phía làm cho ai nấy đều rét run, răng đánh lập cập. Xe không có đèn lửa bên trong, người ta chẳng phân biệt đàn ông đàn bà, cứ ôm lấy nhau cho đỡ gió.

Nuôi Sẹo vào xe sau cùng, ngồi ở ngoài nhất. Hai người ôm lấy gã để gã chắn gió cho. Một người đàn bà quần áo ướt run lẩy bẩy cố tranh được ôm lấy gã một mình. Nuôi Sẹo cũng ôm trả lại. Một lát, gã thấy đằng lưng lạnh và phía sát vào người đàn bà thì ấm. Nghe cái xe lọc cọc lạch cạch đi trong đêm tối, nghe con ngựa chân đi bôm bốp thở hổn hển, gió lạnh vu vu thổi vào xe, vào cái cục người gồm bao nhiêu người dồn làm một, Nuôi Sẹo cảm thấy như có hơi ấm gia đình. Lần đầu tiên gã có cảm giác này, gã càng ôm chặt lấy người đàn bà. Đến khi hơi ấm lên đến chỗ rạo rực thì xe ngựa vừa đến nơi, đậu ở sân ga, dưới ánh ngọn đèn cây dầu hỏa vàng khè. Nuôi Sẹo bị Thung đấm vào lưng đuổi xuống, gã đứng xuống đất, vừa thèm vừa tiếc. Cái chân bị đè lúc nãy bây giờ tê bại làm gã đứng không vững. Gã nhìn người đàn bà xuống sau gã mới biết là bà Lý Chấn bán hàng cơm ở ga. Bà Lý thoáng nhìn trộm thấy gã vội vàng đi vào trong nhà. Từ bữa hôm ấy bà Lý Chấn đâm ra ghét Nuôi Sẹo ghê gớm, và trông thấy gã tới gần hàng bà là tìm cách chửi như tát nước vào mặt.

Đã lâu lắm, đến bây giờ, gặp ngày ăn uống vui vẻ, thân mật với Ba Đèn và vợ chồng thằng Câm, cái cỗ tiễn đưa Ông Công lên chầu Trời này, gã mới lại có cái cảm giác xưa và nhớ lại cảnh cái xe ngựa hôm đổ tàu ấy.

Gã đứng ngắm hàng tranh đủ các thứ tranh bày la liệt dưới đất nhà hè phố: tranh cóc dạy học, tranh đám cưới chuột, tranh gái hùng, tranh gà tranh lợn, tranh kể các chuyện tích Phật Bà Quan Âm, Tấm Cám, Nhị Độ Mai, tranh thờ Ngũ Hổ, Bạch Hổ v.v…, chợt nhớ ra, gã đến cạnh lão hàng tranh. Nhưng người hàng tranh này bán ở chợ này bao nhiêu năm, đã biết Nuôi Sẹo nên khi gã mới chìa tay, miệng lắp bắp: “Na-na-na hê-hê-hết…” thì lão liền cầm hai tờ tranh vào bị bước đi.

Khi gã định đến người hàng mã để xin tiền thì gã thấy mặt anh Bủng. Hôm nay anh Bủng vào đòi tiền, nghỉ kéo xe để giở trò bài Tây kiếm tiền tiêu Tết. Chồng chao bài và vứt bài còn vợ thì mặc, lặng lẽ cắm cổ đứng cạnh đó. Bao giờ thấy người đánh lưỡng lự thì chị Bủng lại đánh và được hai ba lần. Rồi chị đứng đó gà bài cho người này người khác. Anh Bủng vội vàng cầu khẩn chị: “Thôi con lạy bà, bà có rốn thì bà để bụng, để con nuôi vợ con”. Nhưng chị Bủng ra vẻ đanh đá: “Gớm cái nhà anh này lạ nhỉ, tôi không có tiền hay sao, anh không muốn tôi nói thì anh đem về đánh với vợ con anh ở nhà, anh đem ra chợ làm gì”. Anh Bủng đuối lý, chỉ biết cúi mặt ngựa của anh xuống. Nhưng ai theo cái con mẹ cầm rổ đi chợ kia cũng đều thua cả, người này thua hết thì người khác đến, và vợ chồng lại cứ nguyên văn đóng cái trò cũ ấy. Nuôi Sẹo đứng nhìn trò ấy nghĩ bụng: “Người ta, thế mà lắm người ngu dại quá, mất tiền mà hai vợ chồng người ta lừa mãi cũng không biết”. Nhưng anh Bủng trông thấy gã, đuổi gã đi nơi khác: “Nuôi Sẹo mày không đi kiếm tiền Tết, đứng đây làm gì?”.

Nuôi Sẹo đến cái quán ngồi, nơi cao ráo nhất chợ dành cho hàng xén, hàng vải và giày dép khăn áo. Những người hàng xén phần nhiều cho gã người thì một xu, kẻ hai xu, chỉ có người con gái trưởng phố là phàn nàn: “Buôn bán khó khăn lại trăm thứ tiền, nào tiền thuế chợ, nào tiền tuần phố xin, tuần làng xin, lại đến mày”. Nhưng Nuôi Sẹo cứ chìa tay cày nhày năm hê-hê-hết… Sốt ruột quá, và có Nuôi Sẹo đứng quấy rầy đó thì khách hàng không đến mua, người đàn bà phải vứt cho gã một xu để gã đi.

Gã đi lần lượt mọi quán gianh, Hai Ty bán đậu phụng cho gã ít đậu cháy, bà Lái Giản bán thuốc lào, chè tươi cho gã nắm thuốc lào, một người hàng cá cho gã hai con cá riếc nhỏ, những người hàng rau cho gã nửa mớ rau cải và một mớ rau mùi. Lão Hai Thun hàng thịt cho gã ít xương hông còn dính thịt. Những người hàng gạo lẻ cho gã được gần một ống gạo nếp và hơn đấu gạo lẻ. Một người nhà quê bán khoai cho gã ba củ khoai…

Gã xách bị đi thăm mấy người quen, gã tới gần chỗ Ba Thiên lò rèn, gặp người quen thuộc nhiều gã không dám xin, nhưng Ba Thiên cho gã một con dao díp mới. Đến chỗ lão Phố Tếu, gã định xin tiền thì Phố Tếu không cho, hẹn lát nữa gã đến y sẽ húi trọc cho cái tóc để ăn Tết.

Gã đến gần chỗ cây đa ở góc chợ, trước cái miễu nhỏ vừa bằng cái chuồng chim bồ câu treo ở trên một đám bình vôi trắng. Gã gặp lão thầy bói Kế mặt đeo kính giâm, ngồi trên chõng đang xem bói cho một người đàn bà quần áo rách tướp. Lão thầy Kế cậy là người làng lại họ “Nguyên” không cho Nuôi Sẹo, hẹn sang năm mới sẽ xem cho gã một quẻ cầu tài. Ở đây, gã tiện chân đi sang khu chợ hàng may. Hôm nay không có lợn, vì ai nấy đã mua lợn từ mấy hôm trước rồi. Cũng như hàng lá rong, lá chuối thì có thể bán cho những người nghèo, hôm nay họ vẫn chưa gói được bánh chưng. Trên khu này bây giờ là những người nghèo túng bán đồ cũ để có tiền tiêu Tết: bàn thờ, bình hương, bàn, ghế, bát cỗ, quần áo cũ v.v… Nuôi Sẹo đến xin không ai cho gã đồng nào, gã xách bị đi nơi khác.

Đến khi chợ vãn người thì Nuôi Sẹo đã được đầy một bị đủ cả, cá, rau, đậu, khoai, tranh Tết, ngoài ra túi đã lách cách ít tiền. Gã đem gửi vào nhà Hai Hy. Rồi gã lấy cái chổi, vẫn gửi ở góc nhà này để ra quét dần chợ. Nuôi Sẹo quét được gần già nửa thì gã giật mình thấy trong chợ đã gần hết người và chiều âm u đã bắt đầu xuống. Ở trong quán ngói chỉ còn những ăn mày ngồi thành từng túm một đang kiểm điểm những thứ kiếm được. Và một người đã bắt đầu dúm lửa để sưởi cho đỡ lạnh. Nhìn về phía sau, Nuôi Sẹo đã thấy Hai Hy rắc vôi bột ở trước cửa nhà. Gần gốc cây đa lúc nãy, Nuôi Sẹo chỉ thấy có bóng hai người, gã cầm chổi đến gần thấy hai người đã đứng tuổi, chắc là hai vợ chồng. Vợ thì đứng vịn tay vào cái bàn thờ gỗ mọc trên cái bình cỗ, còn chồng thì ra vẻ mệt nhọc ngồi dựa lưng vào một cột quán. Nuôi Sẹo giục: “Đi đi, đi về để qu-qué-quét chợ”. Chẳng ai thèm trả lời gã. Người vợ liền xuống đất, dựa lưng vào chân bàn thờ. Lúc này Nuôi Sẹo trông mặt người vợ biến sắc hẳn đi, trở nên xanh nhợt nhạt. Trời chiều càng làm cho sắc mặt nhợt nhạt xanh sao đến phát sợ. Nuôi Sẹo tưởng đến cái mặt vợ chú Khách Hổi chết về bệnh sản hậu mà gã mới chôn cách không bao lâu. Đúng như vẻ mặt thím Hổi hôm ấy, lúc thím mới chết, cũng cái mặt xanh nhợt nhạt này, cũng cái miệng có một vẻ gì như vừa cười vừa khóc nằm chết cứng như đá. Nuôi Sẹo đến cạnh người chồng, nói: “Ba mư-mư-mươi Tết rồi, về về, về đi, ng-ng- ngồi đây làm gì?”. Người đàn ông ra vẻ mới nhìn thấy Nuôi Sẹo, trả lời thều thào: “Tết không có gì chỉ có ít đồ thờ lúc nãy mang bán chẳng có ai mua. Từ hôm qua đến nay có ăn gì đâu mang về thế nào được”. Nuôi Sẹo hỏi ra mới biết vợ chồng nhà nầy người làng Lỗi ở mãi cuối huyện cách đây 6 cây số. Người đàn ông chống tay ngồi thẳng người dậy nhìn mặt Nuôi Sẹo tiếp: “Ông có gì cho tôi xin, vợ chồng tôi ăn một bát cơm nguội, hay một củ khoai gì cũng được. Ông làm ơn cứu hai vợ chồng tôi”. Hai mắt y mở lớn dưới hai mu mắt mọng, thâm quầng, đầy vẻ van lơn làm Nuôi Sẹo nhớ tới mắt một con chó hoang bị xe lửa đụng phải nằm thở phều phào trong lúc máu ở đầu chảy ra. Nuôi Sẹo liền cầm chổi đi vào nhà Hai Ty, căn nhà một gian hai chái, tường bằng toàn những tiểu sành chồng chất lên nhau. Nuôi Sẹo dựng chổi vào góc nhà. Hai Ty chồng đang dẹp bàn thờ cùng đứa con trai lớn, còn vợ đang nấu nướng gì ở trong căn nhà nhỏ dính liền với nhà bếp. Nuôi Sẹo ngửi thấy mùi gì thơm thơm ấm ấm ở trong bếp đưa ra, gã đi thẳng đến cầm cái bị đồ của gã. Con chó vện ở đâu đi ngửi vào gần gót chân gã rồi lẳng lặng mà đi vào gầm phản. Vợ Hai Ty ở trong bếp nói ra: “Hôm nay Nuôi Sẹo kiếm được khá nhỉ”. Chồng nhìn cái bị của Nuôi Sẹo nói thêm: “Chỉ mày là sướng thôi, chẳng nợ nần ai, ăn no ngủ kỹ, Tết nhất chẳng lo lắng gì”. Nuôi Sẹo xách bị bước ra, gã đi thẳng về phía quán ngói thấy bọn ăn mày đã ngồi túm tụm với nhau chung quanh một đám lửa lớn. Thấy trời đã xuống màu mờ mờ sương phủ, gã bước vội đi về lối phố giữa.

Đường ở ngõ chợ bây giờ đã vắng người. Nhà hai bên đường đã đóng cửa nhiều, còn một ít nhà mở cửa hấp hé. Nuôi Sẹo trông thấy trên một vái cánh cửa có tranh Tiên Tài, Tiên Lộc, và trên nền đất trước nhiều nhà gã đã trông thấy hình cung tên và bàn cờ vẽ bằng vôi bột. Mai là Tết đến rồi, gã vừa bước rảo cẳng vừa nghĩ. Tới đầu đường gã nhìn một đám trẻ con năm, sáu rách rưới, bẩn thỉu đứng gần cái bờ rào. Gã tới gần chúng, nghe thấy một người đàn bà ôm mặt khóc sụt sịt, gã chẳng hiểu chuyện gì, để tạm xuống đất đứng nhìn. Một đứa trẻ ở đâu đến hỏi một đứa trong đám trẻ: “Làm sao thế Cấn?”. Đứa trẻ lớn nhất trả lời: “Thua bài Tây hết tiền, về sợ chồng đánh”. Nuôi Sẹo nói thầm với mình: “Tưởng là gì chứ bài Tây thì có gì lạ”. Gã nhớ lại năm nào đã có một người đàn bà cũng thua bài Tây vào hôm phiên chợ cuối năm đã nhảy xuống ao bơm nước để tự tử, nhưng ao cạn nước, người ta lại vớt lên mất, thành ra không chết được, gã xách bị đi về phía nhà Ba Đèn. Gã để bị trong nhà, chưa thấy ai về gã lững thững đi ra ngoài, đi đến đường cái làng, gã chỉ gặp một người nghèo đi ra vẻ vội vã. Trẻ con gã chẳng thấy đứa nào. Nhìn bên bờ một cái ao, gã thấy thằng Cậy, môi thâm thêu thểu vừa bằng hai múi bưởi, người to lớn, vai u, râu lỡm sỡm tua tủa như cỏ mọc ruộng hoang, đang đứng cười với một bụi tre. Nuôi Sẹo chẳng biết làm sao mà nó sống được mãi, chẳng ai cho nó ăn, nó chỉ ăn những con gà chết, chuột chết. Hôm nọ Nuôi Sẹo thấy đem một con rắn chết để nướng vào lửa cháy cái nhà bà cụ Câm đang bốc đùng đùng. Người ta không đẩy nó ra thì nó đã chết ở đám lửa ấy rồi. Nuôi Sẹo vừa nhếch miệng cười thương hại thì đã thấy thằng Cậy nguậy người đi rảo cẳng về phía bờ sông. Nuôi Sẹo thoáng nghĩ đến cu Tý, tự hỏi bây giờ nó ở đâu?

Nuôi Sẹo lại lững thững đi, gã nhìn những mái nhà sùm sụp hai bên đường, đột nhiên thấy cảnh vật êm ả quá. Nuôi Sẹo nhớ đến Đốc Tít: “Sao đến bây giờ chẳng thấy gì?”. Tới cổng nhà ông Bá Tĩnh, gã thấy hai bên cột cổng có hai câu đối đỏ với hai hàng chữ nhỏ. Tới cổng nhà cụ lớn Tuần Đan gã thấy tranh hai ông Tiên Tài, Tiên Lộc dán ở hai cạnh cửa sổ. Trong sân, trước nhà trồng một cây nêu cao ngất, tiếng leng xeng trên ngọn cây nêu đã lững lờ văng vẳng gần xa theo tiếng gió. Gã đứng nghe tiếng leng xeng này thấy vui vui như tiếng leng xeng của xu mừng tuổi trẻ con vào dịp Tết. Gã bước đi thẳng ra phía đường sắt rồi đứng lên đường sắt nhìn quang cảnh phố. Phố vắng hẳn người đi lại. Ở phố giữa gã thấy một cái xe tay ở lối cổng huyện đi qua điếm phố. Năm, ba người thưa thớt đi ở các hiệu khách ra. Nuôi Sẹo biết rằng tất cả những người nào còn đi mua gì ở phố lúc này đều là những người nghèo đói vừa mới kiếm được tiền. Những người có đủ tiền chi tiêu trước thì lúc này đã đóng cửa để sửa soạn cỗ cúng và nằm chờ Tết đến.

Đến những bọn ăn mày giờ này cũng không xin nữa, chỉ còn nằm đó mà chờ Tết đến hay là đang đi trên đường về nơi quen thuộc. Gã đột nhiên tự hỏi không biết bây giờ Ba Đèn và vợ chồng thằng Câm lúc này đã về chưa. Gã định quay về nhà. Nhưng gã thấy cái xe tay lúc nãy đi qua điếm phố bây giờ đang đi lại phía gã. Khi cái xe qua trước mặt thì gã thấy đi theo sau xe một người đàn bà cầm rá không và một đứa trẻ con cởi truồng. Đi sau nữa, cách xe độ hai chục thước là lão Hai Mảo, lão gánh hai ống bơ tòng ten như mọi hôm. Con người dài ngoẵng như cái que ấy vẫn đi thất thểu như mọi ngày. Nhưng có điều khác là hôm nay Nuôi Sẹo không thấy lão chửi những câu dài lê thê. Nuôi Sẹo chờ mãi cho đến lúc đi tới cầu sắt cũng không thấy lão chửi. Gã liền bước đi theo lão.

Sang phía bên kia cầu sắt, Nuôi Sẹo thấy người vợ Tư Từ. Vợ Tư Từ khóc thê thảm quá, tóc rơi rũ rượi xuống đất nằm lăn bên đường mà khóc. Gã không hiểu đầu đuôi câu chuyện thế nào, đứng lại xem. Chung quanh chẳng một ai. Người ta như bỏ quên mẹ ở đây. Nuôi Sẹo cứ hỏi: “Ba ba mươi Tết rồi sao còn nằm đây khóc”. Ngưng một lát như để lấy hơi, mẹ rên ti tỉ rồi khóc ra tiếng. “Mày có bao nhiêu mày tiêu hết bây giờ mày còn hành hạ tao thế này, mày cứ giết chết mẹ con tao đi. Ngày hôm nay ba mươi Tết rồi. Ôi cha mẹ ôi!”. Mẹ chưa nói hết câu thì Tư Từ chân ngắn, người vạm vỡ chạy ở cái nhà gần đây ra, túm lấy tóc vừa kéo vừa đấm đá vào lưng vợ. Mụ kêu khan cả tiếng mới có một người đàn ông ra can: “Ba mươi Tết rồi, còn đánh chết người ta hay sao?”. Tư Từ giở giọng cục: “Vợ con tôi, tôi dạy, việc gì đến anh?”. Vẫn không bỏ tóc vợ. Một người đàn bà ở trong các nhà gần đấy chạy ra túm tay người đàn ông lôi vào. Người đàn ông hầm hầm đi vào trong nhà, Tư Từ lại đạp luôn cho vợ mấy cái vào bụng, vào ngực làm chị ngất đi rồi mới bỏ vợ đó bước vào trong nhà.

Khi Nuôi Sẹo quay lại cầu sắt, gã để ý nghe vẫn không thấy người đàn bà khóc. Chiều đã xuống âm u hơn và đi dần vào đêm tối. Nuôi Sẹo đứng trong gió lộng trên cầu sắt, nhìn tứ phía thấy cảnh vật êm ả quá. Mấy cái thuyền ở dưới sông nằm im như những xác củi khô trên một ao tù. Chỉ có gió là ra vẻ còn hoạt động. Chợt nhìn về phố giữa, gã thấy một gia đình đang đi tới cầu sắt: vợ chồng Phó Tếu và đứa con, vợ Phó Tếu gánh hai cái thúng. Ở một miệng thúng Nuôi Sẹo trông thấy một cái đầu ông Công để trên một đám lá cải ngồng. Phó côi xách một bên tay cái hòm thợ cạo thường ngày của lão. Còn đứa con gái nhỏ chạy sau có cái áo nâu mới và ngắn cũn cỡn vừa đi rảo cẳng vừa run mắt nhìn xuống những mảnh gỗ cầu xếp thưa.

Nuôi Sẹo biết rằng Phó Tếu về quê cách đây không xa. Phó Tếu hỏi gã: “Nuôi Sẹo mày không về quê à?”. Phó Tếu vừa nói vừa bước đều như chẳng cần nghe Nuôi Sẹo trả lời. Lần đầu tiên, Nuôi Sẹo thấy có người hỏi gã câu này. Về quê, quê đâu mà về? Nuôi Sẹo nhìn dòng sông một lát, con sông cong ngoằn nghèo chạy mãi về phía bến đò Sen, khi gã quay lại thì không thấy bóng gia đình Phó Tếu đâu. Gã chắc bọn này đi tắt vào cái ấp ông Hàn Phiên để về làng. Gã thấy trên con đường chạy dài theo đường sắt một người đi xe đạp, mặc áo dài đen vạt áo dắt vào cạp, chỉ trong chốc lát Nuôi Sẹo đã thấy cái xe đạp đi khuất về sau bụi tre ấp Hàn Phiên. Có lẽ người này cũng về quê. Nuôi Sẹo ngẩn ngơ. Về quê, quê đâu mà về? Gã hơi buồn buồn nhìn dòng sông cạn. Những tiếng khóc của mẹ Tư Từ lại nổi lên. Gã vội bước theo đường sắt để về làng.

Về tới đầu đường làng, gã tự nhiên hớn hở, phởn phơ. Nhìn những mái nhà tranh sùm sụp hai bên đường làng, gã nhìn thấy đường làng đã vắng ngắt, vắng ngơ, gã nghĩ người ta đang sửa soạn Tết. Về đến đầu miễu, gã nghe thấy tiếng người chửi nheo nhéo ở đầu nhà Cả Bĩ. Gã đến gần gã thấy bà Hội Đỉnh đang sỉa sói vào trong nhà gọi tên cha con con vợ chồng nhà Cả Bĩ lên mà chửi. Nuôi Sẹo thấy trong nhà không có tiếng ai đáp lại. Gã để ý nghe một lúc mới rõ những món nợ mà bà Hội Đỉnh kể ra trong câu chửi: một con lợn bà cho nhà Cả Bĩ nuôi rẽ, nay lợn chết bà tính thành nợ, và những món tiền vốn thêm lãi mà bà cho vợ cả Bĩ vay hàng tháng để y buôn gạo. Nuôi Sẹo nhìn vào trong nhà chỉ thấy trong khoảng tối hình ảnh mờ mờ của lão Nhão vẫn như thường ngày ngồi trên một bục gỗ, cạnh cái gậy tre, còn con Lý thì ôm lấy chân ông nhìn ra ngoài với vẻ mặt sợ hãi. Ngoài ra trong nhà không còn một ai. Những mảnh nồi, chai vỡ vung vãi trên nền nhà lẫn với cơm nguội, nước mắm tung tóe. Nuôi Sẹo biết rằng mọi người trong nhà đã trốn nợ hết rồi. Bà Hội Đỉnh vừa chửi vừa kể loanh quanh chỉ có thế thôi. Nuôi Sẹo nghĩ: “Chửi thế thì xoàng quá”. Nuôi Sẹo buồn buồn bước chân về nhà Ba Đèn.

Vào đến trong nhà, Nuôi Sẹo thấy mọi người đang sửa soạn cỗ cúng ra vẻ nhộn nhịp lắm. Ba Đèn chửi gã đi đâu mà về muộn thế. Gã chẳng trả lời y, đi vào bếp cùng với mẹ Lê. Gã thấy mọi người đã lục bị của gã để lấy đồ nấu cơm cúng. Mẹ Lê cũng nói cho gã biết rằng nguyên ngày hôm nay thằng Câm đã câu được hai con gà để ăn Tết. Ba Đèn đã đặt được cái bàn thờ chung cho cả gia đình tạm bợ này: một cái hòm cũ, mấy tờ giấy báo bao phủ kín gọn ghẽ, bên trên bàn thờ, Nuôi Sẹo nhìn thấy một cái đĩa, một cái bát xanh đầy gạo cạnh một giấy vàng và một thẻ nhang. Chỉ có thế mà lần nào Nuôi Sẹo ở dưới bếp lên gã cũng thấy ngạc nhiên, sung sướng không lúc nào bằng lúc này, gã thấy cảnh gia đình này là một gia đình thật sự. Một gia đình thật sự với cảnh nấu cơm cúng náo nhiệt, với mùi âm ấm thơm thơm ở trong bếp đưa ra, nhất là với cái bàn thờ. Cái bàn thờ này là bàn thờ chung của mọi người trong nhà, tất nhiên là cái bàn thờ để ông bà ông vải của Nuôi Sẹo cũng về hưởng đồ cúng của Nuôi Sẹo trong ba ngày Tết. Cái bàn thờ. Lần đầu tiên gã có một cái bàn thờ để ông bà ông vải về hưởng đồ cúng của con cháu. Đúng là một gia đình. Một gia đình như mọi gia đình. Cả đến câu chửi của Ba Đèn lúc nãy gã cũng thấy nó thân thuộc âu yếm trong một gia đình ấm cúng hòa thuận. Gã lại chợt nghĩ đến cu Tý.

Comments are closed.