Xổ bụi (kỳ 2)

Bút ký Nam Dao

(Trích từ Những Con Người – Bút Ký 1 – Thi Văn xuất bản tại Hoa Kỳ, 2017)

NAM DAO

Chân dung Nam Dao

– Chị ạ, quyền lực dọa dẫm bằng cắt cái miếng ăn, cấm không được lấy người mình yêu, bắt phê, tự phê, kiểm thảo tư tưởng, rồi chiêu dụ, lấy người nọ đánh kẻ kia… Hóa ra, ở đằng sau, có thể nào vẫn hai thế lực “đàng trong” và “đàng ngoài” húc nhau, Nhân Văn – Giai Phẩm chỉ là con muỗi tế thần? Thành thử, khôn cũng chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống…

Chị Liên ngắt:

– Sống! Sống thế nào, mới quan trọng!

– Một mặt lý tưởng, mặt khác lại có phần ngây thơ nên khi vạch cái mặt trái của Cải cách ruộng đất, bêu cái tính cơ hội cuả bọn quan lại bàn giấy, phải chăng phe Lê Duẩn “đàng trong” ngầm ủng hộ Nhân Văn – Giai Phẩm để phá phe Trường Chinh “đàng ngoài”? Nhưng đến khi một thế lực đã chiếm được tiên cơ, họ phải giữ quyền lực, và họ co lại hệt như “đàng ngoài”, quay đánh vào tính “vô chính phủ” của những kẻ đã phản kháng… Lịch sử lặp lại tấn tuồng nhàm chán nhiều lần. Hệt như sau này, Mao dùng hồng vệ binh nắm được quyền lực, rồi cũng chính Mao ra tay diệt hồng vệ binh. Dưới lớp son khẩu hiệu, quyền lực thời tàn dư phong kiến chỉ có thể mang thuộc tính của những ông thành hoàng giơ roi cầm vọt, và dùng hàng đàn chó, hàng đàn cừu, loại sai đi cắn và loại dễ bảo… Cọp ngày, Gấu chợ, Hạc nội, Phượng bặt hơi là… hàng mỹ thuật xa xỉ trong một xã hội phải “cào bằng”, ngôn ngữ quá độ phải đậm đà tính cày sâu cuốc bẫm tiêu biểu nền nông nghiệp mang truyền thống cha ông. Truyền thống, nghĩa là cứ con trâu đi trước cái cày theo sau, trên những thửa ruộng bón bằng phân tự mãn chèn vào là hò hét vinh quang đến độ bệnh hoạn.

Chị Liên xen vào, giọng cao lên:

– Nhưng cậu nói thế nào thì nói… Ai cũng phải biết chết. Chị thì chị chết chứ không chịu nhục!

Tôi khựng lại. Quả bà chị tôi đủ cái gan chết chứ không chịu nhục. Chị bỏ nhà đi giang hồ từ tuổi ấu thơ, lặn lội, đấu tranh và thành người bằng ý chí nghị lực, giữa những lựa chọn trắng – đen, sai – đúng, thật – giả lúc nào cũng rình rập thách đố. Tôi thở dài, tay sờ lên cổ:

– Vâng… anh Dần đã cứa cổ bằng dao cạo một lần, khi chị Khuê có mang cháu đầu lòng. Nếu anh ấy chết được lần ấy, bỏ vợ bỏ con, thế có gọi là “biết” chết không? Chết như vậy, cứu vớt được ai và thay đổi được gì?

Chị Liên im lặng. Ở đầu dây, tựa hồ một tiếng nấc. A, cái lưỡi dao cùn, không đứt được mà đau…

– Cứ giả dụ cái lưỡi dao ấy không cùn. Nó rạch toang cần cổ, máu nhễu xuống có vòi, anh giãy lên, hét, kiểu Nguyễn văn Trỗi, chính chúng bay là giặc, chẳng hạn! Miền Nam sẽ tung hô anh, kẻ chết vì tự do và chính nghĩa, đặt anh lên hàng thánh tử vì đạo! Còn Miền Bắc, chắc giới văn nghệ sĩ lặng đi, và sợ, trở nên dễ “cải tạo” đến độ không hô vẫn theo, không dạy vẫn ngoan, đánh đĩ “thoải mái”! Ðấy, chết thì như thế! Còn sống thế nào? Trời sinh làm giặc bút, thì viết. Muốn mỗi con chữ là một tiếng gào thất thanh, không thể viết gì ngoài cái thống khổ, sự ruồng bỏ, phản bội… O ép vật chất may còn qua được, nhưng tinh thần thì, ôi thôi! Ðầu những năm 1960, Hoàng Cầm viết được Về Kinh Bắc. Trần Dần hoàn thành Cổng Tỉnh, rồi Ðêm núm sen. Những Bóng Chữ của Lê Ðạt và Bến Lạ của Ðặng Ðình Hưng không biết có phải cũng từ những ngày ấy không?

Chị Liên vẫn im lặng. Tiếng điện thoại viễn liên vo ve như muỗi ngày. Tôi tiếp:

– Vậy giả dụ tất cả những lưỡi dao không cùn, nó cắt, xoẹt một cái, đứt cổ và chúng ta có thêm dăm vị á thánh, anh hùng, chết vì cái nọ cái kia. Nhưng đổi lại chúng ta mất đi những tác phẩm đã cứu vớt phần nào được ba mươi năm văn nghệ bị trói khuỷu, tay ê buốt mãi đâm mang cái hình dạng tê liệt thương tật của cả một tập thể “những nhà văn” chỉ giỏi ê a “chống Mỹ cứu nước”, hát bài hát hy sinh, anh dũng… để tiếp tay gây ra một cuộc hủy diệt, số tử vong lên đến số triệu đếm đủ ngón một bàn tay… Không, trăm phần không. Không ai có cái quyền bắt người khác làm anh hùng! Và cái chết, dẫu chết thế nào, vì cái gì cao đẹp đến đâu chăng nữa, cũng không thể đánh đổi lấy sự sống. Nhất lại là sống để tiếp tục nhả tơ nuôi đời.

Như anh Dần, 1961, nhả tiểu thuyết Ðêm Núm Sen. Năm 1963, Zờ Zoạc (thơ). Năm 1964, Mùa Sạch (thơ). 1965 là thời gian sung sức, hai tác phẩm Một Ngày Cẩm Phả (tiểu thuyết) và Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết). Năm 1967, Con Trắng (thơ hồi ký). Năm của Tết Mậu Thân 1968, 177 Cảnh (hùng ca lụa). Không biết sao anh đợi 6 năm sau, đến 1974 mới ra Ðộng đất tâm thần (nhật ký thơ). Rồi 1978, Thơ không lời – Mây không lời (thơ, họa). Liền sau đó là 1979 với Bộ tam Thiên Thanh – 77 – Ngày Ngày, 1980 với Bộ tam 36 – Thở dài – Tư Mã dâng sao. Ba năm sau, anh bệnh. Nhưng đến 1987, anh viết Thơ Mini. Anh viết, cứ viết. Biết bao giờ in? Há chi! Không cần, viết là nghiệp. Cứ thế, anh viết gần ba mươi năm. Một mình. Không độc giả! Rồi năm 88, Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm… được phục hồi hội tịch Hội Nhà Văn. Tác Phẩm Mới xuất bản Bài thơ Việt Bắc (bỏ chương Hãy Ði Mãi, đã nói trên). Sau là Cổng Tỉnh năm 94, được trao giải thưởng năm 95. Anh mất năm 97. Ðến 98, tập Mùa Sạch được nhà xuất bảnVăn Học cho ra mắt.

Trả lời Nguyễn Quang Lập, hỏi qua thời Nhân Văn, anh tự thấy anh được cái gì nhiều nhất? Trần Dần đáp, được cái hoạn nạn. Do được cái hoạn nạn nên được không dưới ba chục tác phẩm trong ba mươi năm.

Ðó là thời anh đi Huế gặp anh em làm báo Sông Hương. Hoàng Phủ Ngọc Tường hỏi, sau khi anh nhận “hội tịch”:

– Thưa anh, con người sống ai cũng cần có nhân cách, nhà văn lại càng phải có nhân cách. Theo anh, nhân cách nhà văn quan trọng nhất ở chỗ nào?

Trần Dần đáp:

– Nhân cách nhà văn chính là văn cách của anh ta… (Ghi, trang 439)

Sau đó, Trần Dần vào Sài Gòn. Và đó là dịp tôi gặp anh lần cuối.

***

Gặp những người tôi gắn bó, lần nào tôi cũng tự nhủ, ai biết đâu những bất trắc và tình cờ, với thời gian thì không chừng lần nào cũng có thể là lần cuối. Ðó là cách tôi sửa soạn tâm thế sẵn sàng nhếch mép cười trước mọi được – thua, mất – còn, đời người ai cũng có. Lần gặp các anh sau dịp Tết Dương Lịch năm 1982 cũng vậy.

Chúng tôi “hội sao” ở nhà Dương Tường một buổi xế chiều. Gió mùa đông bắc vi vút qua những cành bàng trơ lá dọc con lộ Lý Thường Kiệt, đẩy cái se se băng giá ngấm qua những chiếc áo len mỏng mảnh chụp xuống con người khiến dáng dấp co ro tội nghiệp đến xót lòng.

Các “tư mã” lục tục, người trước kẻ sau, gặp thì cười, nhưng là cái cười của những cuộc chia tay ai cũng tránh nói thành lời. Quà cho tôi là những bài thơ các anh chép tặng. Thơ Ðặng Ðình Hưng thơm mùi ổi, bốn câu. Thơ Lê Ðạt, dập dờn bóng chữ, bốn câu. Thơ Hoàng Cầm, thê thiết quan họ, bốn câu. Thơ Dương Tường, gập ghềnh lyrique, tám câu. Riêng Trần Dần, bốn trang thơ, viết chữ như kiến bò ngang bò dọc, rồi vẽ vẽ, viết viết, đọc trên, mũi tên chỉ xuống, sang trang mũi tên lại bay lộn về. Ghim vào tim với những nỗi đau “vỡ kỷ”, những hạt bụi “xổ” vào bao la, với nhân duyên và những sợi tơ hồng đứt đoạn trong niềm đau “mạt kỷ” thuở lễ Zàng sao…

Ôi tài hoa, bao nhiêu đây quanh tôi là tài hoa. Và tài hoa, khốn khổ thay cũng là hoạn nạn, bao nhiêu là hoạn nạn. Tôi thầm hỏi, này sông này núi, ai trấn ai yểm gì mà cái đất nước này cứ phải chôn sâu vùi chặt những đứa con ưu tú nhất? Cớ sao những gì là tinh hoa trí tuệ cứ muôn đời phải chống trả với cái vung tay thô bạo của thứ quyền lực nhất thời?

Năm 1982, Hoàng Cầm lại bị bắt. Tội danh là bán rượu chui! Oan nghiệt ló mặt nhìn bằng cặp mắt những con chuột nhắt chui ra lúc đêm đổ xuống thế gian. Bán rượu chui đâu phải chỉ một Hoàng Cầm? Lẽ nào là vì anh giao du với tôi, Việt kiều, tức là người nước ngoài (ngoài nước?).

Thời gian đó tôi ở Paris. Tin anh bị bắt tôi đọc trong tờ Le Monde giữa một tiệm ăn Việt Nam khu Quartier Latin. Nước mắt tôi ứa ra, không cầm lại được. Tôi bắt Métro trạm St Michel, nhìn xế qua là bồn nước có những con sư tử há miệng phun có vòi. Có lẽ dáng điệu tôi lúc ấy thảm thương lắm. Ðến độ một người da đen nghèo khổ vỗ vai, một kẻ sans abri có lẽ, đưa cho tôi điếu thuốc anh đang hút dở.

A, con người với nhau. Thật may, cũng có chút tình! Tôi lẳng lặng rít một hơi, rồi trả lại. Sau Hoàng Cầm, còn ai nữa? Trần Dần, Ðặng Ðình Hưng, Lê Ðạt… Tôi lại còn giao du cả với Nguyễn Tuân, Văn Cao, Bùi Xuân Phái… toàn thuộc diện Nhân Văn xưa có vấn đề… Tối hôm đó, tôi ghép thơ các Tư Mã tặng, để báo đền chút tình tri ngộ. Tiện đây tôi xin chép lại:

Một chùm sao nhấp nháy những âu lo

Về tụ lại lễ Zàng Sao giữa hạ

Nơi đã đặt tên và chỗ định số dăm chàng Tư mã

Nhễ nhại trăng khuya nhiễu xuống ngân hà

Thuở Bích Câu vọng câu tao ngộ

Chuyển tần số lòng những ánh sao sa

Chở đá đến một vùng chưa tiếng nói

Ðốt lửa lòng lên đuổi mù sa

Ai khép gió giữa hai mùa vội vã

Trời quê hương xao xác một canh gà

Tiếng chó sủa

Tiếng huýt sáo một người đi chơi đêm về đánh thức

Mắt lũ ánh buồn kẻ ở xa

Bờ ao mẹ nắng trở mình, sáo tắm

Rỉa cánh gầy xổ bụi giữa bao la

Xin đợi nhé mùa chim mây vỡ tổ

Ðầu ăng ten sẽ lại tin nhà

Khâu lý lịch chữ, Lễ Zàng Sao, Tư Mã, nhấp nháy âu lo là clignetitude, chữ Trần Dần bịa. Tiếng huýt sáo, mắt lũ ánh buồn là Dương Tường. Mùa vội vãbờ ao mẹ, Ðặng Ðình Hưng, từ “bao giờ về trong khoanh một cái ao – ngồi giặt áo cả ngày”. Nắng trở mình, khép gió, chữ Hoàng Cầm. Rỉa cánh, xổ bụi, lại Trần Dần. Mùa chim mây vỡ tổ, và ăng ten, là chữ Lê Ðạt. Những chữ này lý lịch như thế chẳng hiểu chúng có được ba đời bần cố nông hay không?

***

Về Hà Nội hè năm 1988, tôi sững sờ, không biết là buồn hay vui khi nạn nhân Nhân Văn – Giai Phẩm đều “được”, và đều “nhận”, phục hồi hộ tịch. Văn Cao trước đấy được Huân chương hạng tư, hân hoan cà – vát vét – tông đi chụp ảnh, với Hải – Không quân, vì là tác giả của những bài hát biểu trưng những binh chủng này.

Ðó là cái rớt sau khi Tổng bí thư Nguyễn văn Linh “cởi trói” văn nghệ sĩ năm 1987 và Trung Ương thông qua nghị quyết do Trần Ðộ, Trưởng ban Văn hoá Văn Nghệ, soạn thảo.

Nhưng chỉ năm sau Ðổi Mới đã khựng lại. Trần Ðộ mất chức. Linh thụt lùi và Ðỗ Mười xông lên. Tôi trách Văn Cao. Tôi bảo, tiếng tăm anh chỉ mất đi chứ thêm được gì với cái Huân chương đó. Anh giả say, mắng tôi là quân khiêu khích – agent provocateur – rồi giơ tay dọa đánh.

Thái Bá Vân, chuyên gia và là nhà phê bình Mỹ Thuật có ở đó, đứng dậy chìa mặt cho Văn Cao, kêu, anh muốn đánh thì cứ đánh tôi. Thao, con trưởng anh, cũng nhổm lên, bảo tôi chú đừng chấp bố cháu. Không đóng được kịch đánh (trước một khán giả có thể là kẻ đi theo “bảo vệ” (!) tôi), anh đành đuổi vậy.

Thật ngộ nghĩnh, chị Băng vợ anh can thiệp. Xấu gì ở Văn Cao cũng đổ cho “bà” Băng là sai. Hôm ấy, hành xử rất tư cách, chị quát anh. Phần tôi, tôi xin với bạn bè có mặt là quên đi, để giữ “huyền thoại” Văn Cao. Bởi huyền thoại cũng cần: có tí gì để hãnh diện, để vênh vang, cũng là một cách giữ cho mình tồn tại giữa một cơn hỗn mang đạo lý.

Gặp nạn nhân vụ Nhân Văn – Giai Phẩm, tôi bớt gay gắt, nhưng cũng chẳng giấu gì cách mình suy nghĩ. Không khác với trường hợp Văn Cao, tôi nghĩ nhận hội tịch là phá đi một cái huyền thoại, không phải về những con người, nhưng là huyền thoại về phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm, ngọn lửa dẫu ai có dang tay dập sao vẫn cứ âm ỉ ba mươi năm nay trong lòng người. Vâng, tôi nói thế, dẫu các anh có thể không vui. Phần Trần Dần, anh buồn, im lặng. Con cọp ngày khật khừ, nhướng lên, ánh mắt không rừng rực như cọp nhớ rừng. Với thời gian, anh thành cọp nhà, cọp phố Vũ Lợi, cọp chống gậy đi dọc Yết Kiêu, đến Trần Hưng Ðạo rẽ trái, và lững thững bước về phía Bờ Hồ. Vài ngày sau anh bay ra Huế.

Chúng tôi gặp lại nhau ở Sài Gòn giữa một buổi trưa nắng gắt. Anh đợi, ngồi rìa một cái quán bên đường. Vẫn cái tư thế cọp ngồi chống mắt nhìn đời, chập chùng xe qua xe lại nhả khói khét mùi xăng nhớt. Cọp nheo mắt chóa nắng lừng lững chống gậy đứng lên. Lần ấy là lần đầu anh vào miền Nam. A, cái lưỡi dao cùn. Nó chẳng phải chỉ cứa cổ người. Nó chém ngang lưng Tổ Quốc. Không đứt được thật, miền Nam vẫn đó. Nhưng mà đau, nỗi đau còn đó, lưng rướm máu, nay vết sẹo mới tấy da non, xin chớ ai động mạnh. Chúng tôi lại hẹn hò.

Tối hôm sau, liên hoan trên gác ba nhà Nguyễn Quang Sáng. Nguyễn Duy mới đi Liên Xô và Ðông Âu về, đang đánh tiết canh vịt dưới bếp. Ðã hẹn, nhưng sao mãi chưa thấy Trịnh Công Sơn. Khoảng bảy giờ, có tiếng chân, tiếng người. Sơn đi trước, Lữ Quỳnh đang xốc Bùi Giáng theo sau. A, hay thật là hay. Con đười ươi Tề Thiên tối nay gặp cọp ngày. Năm 24 tuổi và đầu một đời thơ, Giáng hạ bút Vòng theo máu hai vòng tay khép chặt. Ồ thưa em ta thấy mộng không thường. Năm xấp xỉ 20, Dần “chôn tiền chiến”, và trong Dạ Ðài, bản tuyên ngôn Tượng Trưng, anh gầm:

Không thể rung cảm chúng ta nữa cái văn chương cổ tích chỉ có một chiều chỉ nhắc gợi một cõi đất một tâm tình… Sau cái thế giới hiện trên hàng chữ, phải ẩn giấu muôn nghìn thế giới, cả thế giới đương thành và đương hủy… Bọn lãng mạn, sau khi chùi xong nước mắt lại lảm nhảm nói chuyện những nàng tiên.

…Chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đương kể những câu chuyện cổ tích cho người đứng tuổi nghe. Phải gây nên cả hai không khí hoang đường và hiện thực… Chúng ta cũng không thể tách lập được hẳn thực hư, và chia đôi địa trấn bằng một bờ sao rõ rệt… Làm sao mà giải quyết được sự mâu thuẫn phi thường đó?

Chúng ta chỉ có một con đường đi để thoát khỏi mê đồ. Chúng ta chỉ có thể dung hợp được thực và hư bằng hình tượng…Thế nên chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi sẽ nói lên và chỉ nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn ngữ của những thế giới yêu ma, của những thế giới thần nhân mà cũng là của cái thế giới âu sầu đây nữa.

Thế ra anh cũng mộng không thường! Anh bổ những nhát cuốc đào mồ “tiền chiến”: …cái thi ca cổ rích, cái thi ca tĩnh của tiền nhân ngâm vịnh, của bọn lãng mạn chẳng làm chúng ta quên, vì chẳng có thể đẩy đưa chúng ta theo những nhịp điệu bồng bềnh của bản thanh âm hoàn vũ. Thế nên chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi sẽ đón về đây tất cả những thế giới quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải mờ đi, một chế độ phải tàn vong và một bài thơ phải vô cùng linh động. Và với anh, nghĩa là một bài thơ… không được dùng lý trí, không được dùng cảm tình, nghĩa là không được chỉ dùng có một quan năng tách bạch của chúng ta – dù quan năng nào đi nữa. Hãy đem tất cả linh hồn, hãy mở tất cả cửa ngách của tâm tư mà lý hội. Trận gió sẽ lên: tức khắc và đột nhiên, vì thơ đã không cần lý luận.

Chẳng biết đười ươi Tề Thiên đã đọc Dạ Ðài hay chưa? Chỉ thấy đười ươi hếch miệng cười khan và xáp lại, mắt hấp háy. Cọp bất động, nhưng nhìn đười ươi chằm chằm. Anh em xếp cho đười ươi ngồi trước mặt cọp. Sơn tươi tỉnh “…Anh Giáng, hứa không được phá nghen!”. Móm mém, Giáng cười, tiếng cười trong vắt hồn nhiên. Chưa đụng vào đũa, Giáng bi bô chỉ trỏ vào Dần, và nói, tay vung lên, miệng say sưa. Chẳng ai hiểu gì! Vì anh nói một thứ tiếng lai tiếng Ðức, tiếng Anh, tiếng Pháp, nghĩa là thứ tiếng riêng của Bùi Giáng, lộn nhộn đủ loại ngữ ngôn. Lạ thật, Dần gật gù. Thình lình, Giáng đứng lên ghế, tiếp tục nói, như diễn thuyết. Sơn ra bên cạnh, kéo Giáng ngồi xuống, nhắc “…Phá quá cha nội! Hứa gì quên rồi ư…”. Giáng cười khì khì, giả ngồi yên. Sơn vừa về chỗ, Giáng lại đứng dậy. Con đười ươi Tề Thiên nghiêng ngả, kêu chí choét, lại nói. Lúc ấy Dần giơ tay. Giáng ngừng ngay, mắt trố lên nhìn. Con cọp giọng trìu mến thốt “…Người ta bảo Bùi Giáng giả điên!”. Giáng lại kêu chí choét, như giục, còn gì nữa? Dần im lặng. Giáng vùng đứng lên ghế, rồi giả xiêu giả vẹo. Lữ Quỳnh phải chạy lại đỡ. Con đười ươi Tề Thiên cứ thế, diễn màn độc thoại, nhưng vô ngôn, có lẽ dành riêng cho cọp. Lữ Quỳnh và tôi, mỗi người một bên, dìu Giáng xuống thang, ra đường gọi xe xích lô. Ðẩy Giáng lên, chúng tôi trả tiền xe. Vừa quay lại thì Giáng đã nhảy tót xuống xích lô, tay chìa ra, miệng kì kèo "… “tau” không đi xe, mi chia “tau” một nửa tiền xe hỉ!”. Rồi Giáng lẩn trong bóng đêm trên đường xưa là Công Lý, nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa, vạt áo bà ba trắng vụt biến vụt hiện như một linh hồn lạc lõng. Lữ Quỳnh kể, người nghe lo cho Giáng. Sơn cười “…Già ấy tỉnh, khôn thấy mồ tổ, đừng lo!”.

Hai bữa sau, tôi lại lên đường. Nhưng sao chưa đi mà đã nhớ! Lại tự nhủ, lần cuối, nhưng miệng cứ hẹn sẽ gặp lại, còn gặp lại, dẫu trời mang mang, đất mang mang, vì đại dương bây giờ, lời Nguyễn Tuân, chỉ còn là cái ao ếch một đêm mưa.

Từ trụ sở báo Văn Nghệ số 43 Ðồng Khởi, Nguyễn Duy, Hồng Ðăng và tôi ghé lên căn gác nơi Trần Dần nghỉ trưa nhà Hồng Văn, một nhà báo hưu non, đang ở tạm. Trần Dần nằm, mắt nhắm nghiền, tay vẫn nắm chiếc gậy hôm nọ tôi xin anh. Khi đó, anh nói “…Bửu Chỉ mới cho” và tôi đành “thế thì anh giữ làm kỷ niệm!”. Nhìn anh, tôi thì thào với Ðăng, “…Thôi để ông ấy ngủ!”, dẫu tôi biết anh chỉ nhắm mắt. Anh thừa biết tôi đến chào anh. Nhưng cả anh lẫn tôi, chúng ta nào có ai biết đấy là lần cuối.

Tám năm sau, tôi ghé Bolsa gặp Trịnh Cung. Câu đầu Cung nói, là “Anh Dần mới mất, mình vừa nhận được tin!”. Về nhà Hoàng Khởi Phong, tôi dìm nỗi đau xé lòng trên phiến máy điện toán, viết về con cọp ngày vừa chia tay cả phố thị lẫn rừng xanh. Bản viết đó, rõ ràng tôi gõ “save”, nhưng nó lại trôi tuột vào hư không vì máy hỏng. Hoàng Khởi Phong loay hoay chữa nhưng vô phương. Dẫu có “Save”, ai làm thế nào cứu vãn được cái mất mát chính, là anh. Vâng, mất mát đó vô cùng lớn cho tất cả những kẻ lòng còn gắn bó với chữ nghĩa và quê hương.

***

Một chuỗi biến cố kể từ cuộc đàn áp ở Thiên An Môn đến sự sụp đổ bức tường Bá Linh khiến tôi lại chẳng được visa để “qui cố hương” thăm hỏi các anh sau năm 1990. Thế là Ðặng Ðình Hưng đi. Rồi Bùi Xuân Phái, Văn Cao. Và Trần Dần năm 97. Nghe tin Lê Ðạt “được” qua Paris, tôi vội bay đến hàn huyên. Chúng tôi có vài ngày với nhau nơi nhà một người bạn nhà văn Ðỗ K. đã mượn cho ở.

Sáng nào chúng tôi cũng ra uống cà phê trên St – Germain. Nhìn ra phía trước là Métro Odéon, quay về phía sau, sao chúng tôi vẫn lại chỉ thấy Bờ Hồ trong cơn mưa bụi. Lê Ðạt bảo “…Dần mất thế là hơn nửa năm rồi! Nhanh thật, cứ như mới hôm qua…”. Vâng, mới hôm qua. Những cái mặt đồng hồ trơ trẽn không kim trong giấc mơ ở Hà Nội ngày nào lại hiển hiện trước mắt tôi. Ở Paris, kim đồng hồ là một hiện thực. Vòng quay của kim một chiều, và chiều đó là chiều quay đánh dấu những tiến bộ trong một số địa hạt nhất định. Như khoa học. Kỹ thuật. Như công, thương nghiệp. Dưới một mức, là quyền con người. Nhưng dẫu sao, nó cũng nhích lên, trong một thế giới thông tin mở, không chập chạp, ù lì, chai cứng đến độ mất hết sức sống. Lê Ðạt nhắc kỷ niệm xưa, giọng tiếc nuối “…Dần nó có tư cách “chưởng môn”! Còn mình thì không, cứ bông lơn ba lăng nhăng…”. Tôi lại hình dung ra con cọp ngày, mắt rừng rực, quyết liệt tuyên ngôn, rằng cái kho chữ là tài sản quí nhất của một dân tộc. Anh nhếch mép, râu rung rinh đùa hỏi tôi, cái môn kinh tế học của cậu nó có dạy thế không? Không hả, anh cười, thế thì “hỏng”. Những phút ấy thật hiếm. Ðùa xong, anh lại trầm ngâm.

Tôi hỏi Lê Ðạt, đã đến lúc anh viết về Nhân Văn – Giai Phẩm như những chứng nhân và nạn nhân chưa? Ðạt bảo, Hoàng Cầm nói và thu cát – xét, dễ có đến cả chục cuộn băng. Còn mình, anh cười, mình chưa ghi chép gì cả. Tôi bàn, viết về Nhân Văn – Giai Phẩm là viết về một giai đoạn và một tinh thần văn học. Anh gật gù, thế cậu thấy cái gì gọi là tinh thần Nhân Văn? Câu anh hỏi, tôi chưa đáp, khất đến hôm nay. Xin thưa gọn: tính nhân bản cộng với tinh thần sáng tạo. Và như phương tiện vận chuyển xã hội đến lý tưởng mà chung quyết là hạnh phúc con người, văn chương hành động dấn thân, can đảm phê phán hiện thực. Tệ quan liêu, chủ nghĩa tô hồng cơ hội, và bản chất phi nhân giữa thập kỷ 1950 là đối tượng. Nghĩ kỹ lại, đến nay là thiên niên kỷ thứ 21, tình hình xã hội cũng chưa khác là bao, thậm chí so với thời đã qua thì nhiều vấn đề cấp bách hơn, trong đó sự mất niềm tin vào tương lai đến độ tuyệt vọng là căn bệnh ung thư bộ não đã vào giai đoạn cuối cùng.

Tương quan giữa quyền lực và văn hóa trong xã hội có một số thuộc tính khó chối cãi được. Năm 1987, ông Nguyễn văn Linh “cởi trói” cho văn nghệ sĩ, thừa nhận hiện thực “bị trói”, và trói bằng những vòng kim cô xiết lại nới ra tùy theo nhu cầu chính trị.

Ðùng một cái, từ 87 đến 91, liên tiếp một số tác phẩm sáng giá ra đời. Tướng về hưu, Thiên sứ, Những Thiên Ðường mù, Nỗi buồn chiến tranh, Ði về nơi hoang dã, Những mảnh đời đen trắng, Bến không chồng… Và những khuôn mặt mới như Dương Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm thị Hoài, Bảo Ninh, Nhật Tuấn… làm nổi lên một không khí sáng tác, mạnh dạn hơn, chất lượng có, và gầy nên được cái hy vọng lấp dần khoảng trống của thứ văn học khẩu hiệu, xoàng xĩnh, có tính dịch vụ tuyên huấn, uỷ lạo, động viên thi công thúc chiến.

Rồi cũng đùng một cái, Linh co lại, Ðỗ Mười lên. Ðùng một cái, sáng tác lại khuôn phép ngậm miệng. Và ở giai đoạn bỏ bao cấp xã hội chủ nghĩa quá độ tiến lên (tiểu) tư bản thủ công đỏ và đen, văn hóa trong nước tràn lan trăm chuyện xe cắn chó, chưởng rẻ tiền, tình Hồng Kông, Ðài Loan, Thái Lan…

Ðất nước chúng ta có phải chăng đang phá sản ở mọi mặt? Kinh tế tụt hậu, nợ cứ nợ, thế hệ sau (?) trả. Con người hạ giá, xuất khẩu làm tôi mọi khắp nơi, ô – sin vinh quang với nhiệm vụ quốc tế. Còn văn hóa, ta chỉ còn độc cái món thi hoa hậu, hoa hậu từ làng tới huyện, từ huyện tới tỉnh, từ tỉnh tới vùng, từ vùng tới thành phố, rồi từ thành phố đến toàn quốc. Giáo dục, ôi thôi, cả nước “lãng” học nhưng tiến sĩ, phó tiến sĩ nhan nhản đầy đường.

Tiếng báo động chục năm vang như tiếng sấm, sấm động nam bang theo cách nói một sứ giả đại quốc đến thăm viếng ta trong huyền thoại Trạng Quỳnh. Nhưng các vị lãnh đạo nay đang hy sinh cho tiền đồ hay hy sinh tiền đồ? Họ kiên quyết ngồi yên, không động đậy, bằng chân như vại, rủng rỉnh ngựa xe. Mặc dầu có 25 triệu (tức là 60% lực lượng lao động) người thất nghiệp, theo thống kê của Ngân Hàng Thế giới năm 2002. Thế thì trăm ngàn ô – sin, triệu gái mãi dâm, là tất yếu, là… “qui luật”, thứ qui luật mới.

Chưa bao giờ, tinh thần nhân văn cần như lúc này! Gió ơi, đừng nghe lời khuyên chớ đừng rung cây! Gió hãy lên! Cho cây đổi mùa thay lá. Vì sông mấy khúc nhưng rồi nước cũng chảy, mây mấy tầng nhưng rồi chim cũng bay…

***

Nhà văn Phạm thị Hoài, người biên tập và hiệu đính GHI, nói rõ “Với chúng ta, đó là những văn liệu và tư liệu vô giá về một giai đoạn văn chương và lịch sử cho đến nay vẫn xếp sổ, nếu quả còn có sổ…”. Ghi trở nên một hình phạt, Trần Dần viết, nhưng “kết quả của hình phạt với một người lại có thể là quà tặng không ngờ tới bao nhiêu người khác”. Ðiều này rất đúng. Nhưng nó đòi hỏi người khác, tức là chúng ta, một cách đọc để hiểu.

Chị tôi, chị Liên, đã đọc. Chị cũng hiểu, là Trần Dần đã từng đầu hàng, Hoàng Cầm thế này, Lê Ðạt thế kia… Ai cũng có lúc nhụt chí, yếu xìu, hèn đi, qui thuận và thậm chí đôi khi van lơn chạy “tội”. Chị buồn vì đèn tắt, nến tàn và dăm cây nhang cháy đến gốc không còn cái mùi ngất ngây gây mê trên bàn thờ nơi thần tượng vừa sụp đổ. Vâng, nếu là thần tượng, thì có thế thật. Nhưng nạn nhân vụ Nhân Văn – Giai Phẩm là những con người. Và nhất là những nhà văn. Họ có thành thần tượng, là do chúng ta nặn lên cho chính chúng ta. Nhu cầu tế lễ không phải là lạ, từ ngày con người tìm ra lửa, biết tầm quan trọng của quá khứ, và đẻ ra huyền thoại như một trong những phương cách nhằm xác định bản thể mình.

Họ là những nhà văn. Lặp lại lời Trần Dần, nhân cách của họ là văn cách. Ðiều sau, đòi hỏi họ có tác phẩm. Chính cái sự rất người là yếu, hèn… đẻ từ hoạn nạn mới cho phép họ viết về cái rất người của những con người. Giả như họ chỉ anh hùng (rơm), kiên cường, móc mắt mình như Thụy An (rồi chết), thì bất quá họ để lại cũng chỉ một hai câu, đại loại kiểu “bây là giặc!”, “không thành gì thì thành nhân”, hoặc “thà làm quỉ xứ tự do (miền Nam xưa, USA bây giờ?) còn hơn làm vương đất độc tài toàn trị (miền Bắc xưa, Nga mafia bây giờ?)”. Trời ơi! Ðất nước ta đã có quá nhiều anh hùng. Họ là những kẻ đã nằm xuống rồi, và cho sống dậy chắc gì họ chẳng không hối tiếc?

Cách đây bốn năm, tôi lại về Hà Nội. Tôi đến thắp hương cho Trần Dần, cho Văn Cao… Như những năm xưa, tôi đến thắp hương cho Nguyễn Tuân, cho Bùi Xuân Phái… Tôi có cảm giác họ vẫn đâu đây, như những người muôn năm cũ, lẩn quẩn trong tâm tư những kẻ nòi tình gắn bó vào chữ, vào nghĩa, và vào cả cái định mệnh khốn khổ của những người làm nghệ thuật nhưng không có tự do.

Ðâu đó, tôi nghe tiếng Nguyễn Tuân rủ rỉ, nước mắt tràn trề trên những sợi râu bạc, kêu khẽ … Sợ! Tôi tồn tại được là vì tôi biết sợ!

Tôi cũng thế, nghĩa là tôi từng sợ, từng hèn, từng yếu,… có lắm lúc buông trôi, nhưng cũng có đôi khi nổi loạn! Và tôi hỏi chị Liên, còn chị?

Tôi kể, tôi mơ thấy ông Dần ngồi trên vạch phấn, một bên là thiên đường, một bên là địa ngục. Cạnh ông, một rổ đá, cục nào cục nấy to bằng nắm tay. Ai đi qua, ông cũng chìa cho một cục, miệng bảo “Không từng sợ, không từng hèn… thì cứ ném đá cho tôi chết thêm một lần!”.

Làm gì có kẻ chết được hai lần!

Nói đến cái chết. Và chôn.

Trong dịp chuyện trò với anh em biên tập Sông Hương, Trần Dần kêu “…Thế hệ trẻ à? Tôi cứ đợi mãi. Nó bị trong vòng vây của văn chương cung đình, tôi sốt ruột đợi lớp trẻ lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến”.

Những ai đã chôn Trần Dần? Chưa chôn? Vì anh chưa chết, thế hệ trẻ ơi!

Vài tháng sau khi tôi đọc GHI, một hôm tiếng điện thoại viễn liên reng lên. Cầm máy nghe, lại chị Liên. Chắc chị mới từ Hà Nội bay về Cali. Chị kể chuyện, con cà con kê, rồi bảo, có một món quà bất ngờ cho cậu. Tôi hỏi. Giọng dịu dàng, chị nhỏ nhẹ:

– Chị mang quà anh Hoàng Cầm gửi. Vẫn như mọi bận, một lít rượu làng Vân. Ðể hôm nào chị qua chỗ cậu chị mang sang!

Cám ơn chị, đến thăm anh Cầm là chị đã hiểu. Chị cứ kêu chị thất học, nhưng chỉ học chữ dễ khiến lắm người quên mất nghĩa. Và cái học trường đời, chữ cần một, nghĩa cần đến mười, mới thành người được.

Chai làng Vân chị mang qua cho em lần trước vẫn còn một nửa. Tối nay, em sẽ uống, một ly cho chị. Một ly cho những huyền thoại chúng ta cùng nhau gìn giữ, không phải để phong thánh ai rồi nhang đèn điếu đóm, mà là từ đó ta lại khởi đi một cuộc lên đường sáng tạo. Còn lại, em uống để nhớ món quà Nhân Văn trao cho những thế hệ sau.

Rượu làng Vân, rượu tình rượu nghĩa. Cũng những chén rượu đó tôi nhắp môi vào, hai mươi năm trước, nghe anh Cầm nghẹn lời, hạ giọng “…Chỉ mình ta…Ta say ta đạp lùi tinh tú. Ngủ yên rồi đôi cá đòng đong.

Trên nền đất nện, một cái bàn mộc, dăm chiếc ghế chân lay, xộc xệch bao nỗi đời nên may mà có rượu chui, thơ chui. Như thơ các anh, những nhà thơ không được có độc giả, sao dám mãi cứ thi gan nhả chữ vào vực thẳm để tiếng vọng xô từ vách đá là tiếng thở dài lẫn trong tiếng nguyền rủa.

Thế đấy, nhưng Trần Dần vẫn cười khẩy, thách thức “tôi có thể mặc thây ngàn tiếng chửi tục tằn, trừ tiếng chửi ‘’sống không sáng tạo’’.

Như rượu làng Vân, cũng phải chui. Quốc lủi, khác rượu quốc doanh ở chỗ nó thật, không dối trá, không lên gân hô khẩu hiệu. Nó thoang thoảng hương nồng chất nếp than, để lại đầu lưỡi buốt bỏng vị cay của hoạn nạn. Uống vào, bỗng dưng sẽ thấy con chữ ở dạng nào cũng đèo trên mình chữ tâm của người viết, chữ tình trong kiếp nhân sinh.

Và nhất là trách nhiệm, với mọi người, kể cả những người muôn năm cũ.

18 – 11 – 2002

N.D

(Hết)

Comments are closed.