Nhìn lại âm nhạc miền Nam 1954-1975 (kỳ 1)

Nguyễn Phú Yên

LỜI TỰA

Do hoàn cảnh lịch sử, chúng ta đã mất đi rất nhiều giá trị văn hóa mà miền Nam đã để lại. Hầu hết sách vở, băng nhạc, phim ảnh đều bị thiêu hủy. Ngọn lửa đốt cháy sách vở trong nhiều năm tháng nhưng không thể lấy đi khỏi trái tim, khỏi hoài niệm của phần lớn người dân miền Nam. Thật vậy, khi đống tro tàn đó tan biến, bỗng vụt dậy những trang sách, những câu thơ, bài văn, những dòng nhạc mà ký ức của cộng đồng khơi gợi. Theo thời gian, khi những tiếng gào thét yên ắng đi thì những giai điệu dịu dàng sống dậy sưởi ấm những con tim, những tâm hồn biết hoài niệm. Bỏ lại đằng sau những vướng bận buổi giao thời, bước qua những lời phê phán hoặc chê bai, từ bỏ ý niệm “âm nhạc đô thị, âm nhạc phản động, lai căng, đồi trụy”, rũ bỏ tâm lý thù hận, phân ly nhất thời thì đó là lúc người ta nhận ra giá trị vàng son bắt đầu lấp lánh. Những trang sách, những dòng nhạc bắt đầu hồi sinh và bừng lên như một đóa sen thơm ngát giữa chốn bùn lầy.

Những dòng chữ của cuốn sách này bắt đầu khởi đi từ trong bầu khí của một xã hội biết lắng nghe cái đẹp trong những giai điệu vang lên từ trong quá khứ. Thử chắp nối những mảng hồi ức, những lóe sáng của hoài niệm, một thế giới quá vãng của tâm tình đã được phục dựng khiêm tốn, thầm lặng dù chưa hoàn chỉnh, dù chỉ là những nét phác họa nhưng có thể nhìn vào đó để thấy lại những tình tự thân yêu làm nên thế giới tâm hồn của một thế hệ đã qua.

Khi đọc một cuốn sách nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của nền tân nhạc Việt Nam đã xuất bản, chúng tôi thấy các tác giả chỉ dành cho âm nhạc miền Nam có 25 trang giấy, trong khi sách dày 1.000 trang. Điều đó cho thấy tác giả đã để lại một khoảng trống rất lớn khi nhận diện về một giai đoạn của nền âm nhạc miền Nam hoặc chỉ đề cập một phần nhỏ bé và thiên lệch. Để bổ sung cho sự khiếm khuyết ấy, chúng tôi đã liều lĩnh nhận lấy một công việc đáng ra là phải của một tập thể hơn là của một cá nhân, để nhìn lại di sản âm nhạc của miền Nam bằng những trang viết tổng quan về các hoạt động, các khuynh hướng và phong trào âm nhạc đã hiện diện ở miền Nam. Với sự liều lĩnh có chút đam mê đó, chúng tôi ước mong bạn đọc xem đây như là một viên gạch trong hàng ngàn viên gạch để xây dựng lại ngôi nhà di sản mà các thế hệ sau cần biết tới. Mong có sự chung tay trong nỗ lực bảo tồn một giá trị tinh thần mà miền Nam đã dày công xây dựng được trong 20 năm chia cắt đất nước, để ai đó có thể bổ sung vào công trình nghiên cứu lịch sử âm nhạc Việt Nam sau này.

Khi chúng tôi ghi chú miền Nam 1954-1975, điều này có nghĩa đó chỉ là con số xác định một mốc giới lịch sử phân chia hai miền làm hai quốc gia, chỉ là tạm thời về mặt thể chế chính trị, không có nghĩa là một sự đứt gãy văn hóa với những giai đoạn trước đó. Nói khác đi, đối với miền Nam, những thế hệ nối tiếp cha anh vẫn duy trì tính liên tục lịch sử về mặt văn hóa. Có nghĩa văn hóa dân tộc, nền nghệ thuật mà tổ tiên, cha ông ta đã xây dựng bao đời vẫn được miền Nam tiếp nhận, bảo lưu và chợt nhận ra một di sản sáng giá cần để lại cho đời sau. Do đó độc giả tìm thấy trong tập sách này chúng tôi vẫn nói đến từ bước khởi đầu cho đến những thành tựu của nền tân nhạc Việt Nam qua mấy chục năm tồn tại. Những giá trị sáng tạo của bao lớp nghệ sĩ tiên phong được tôn trọng và phát triển, vẫn được tiếp tục hiện diện trong đời sống tinh thần của miền Nam. Do đó dòng ca khúc lãng mạn trong nền tân nhạc vẫn được quan tâm, được biểu diễn trong sinh hoạt ca nhạc và giữ vai trò đặc biệt trong tâm thức những người yêu nhạc.

Ngoài những giá trị nghệ thuật từ thời tiền chiến, trong hoàn cảnh và bầu khí mới, các khuynh hướng sáng tác âm nhạc, các phong trào, hoạt động âm nhạc được phát triển rực rỡ. Âm nhạc miền Nam chính là tiếng lòng của người dân trước hoàn cảnh xã hội, trước biến cố nhân sinh được tự do bày tỏ, khi tươi vui, khi ngậm ngùi, nhưng đều là tiếng nói của con tim chân thực của một giai đoạn lịch sử.

George Jellinek, giám đốc âm nhạc Đài phát thanh WQXR của thành phố New York, đã từng nói: “The history of a people is found in its songs” (Lịch sử của một dân tộc được tìm thấy trong các bài hát của họ). Thật vậy, những giai điệu biểu lộ tình cảm, tư tưởng trong các bài ca được viết ở miền Nam đều mang trọn vẹn tâm tình chân thực, đầy tính nhân văn với cá tính sáng tạo đặc thù và phong phú. Độc giả sẽ vô cùng ngạc nhiên và thích thú khi được bước vào vườn hoa âm nhạc đầy những kỳ hoa dị thảo, tuy chúng có những số phận khác nhau nhưng vẫn muôn màu muôn vẻ, luôn tỏa đầy hương thơm và chói lòa màu sắc.

Do điều kiện in ấn với khối lượng ca khúc khổng lồ, chúng tôi không thể in được hết những khuông nhạc hoặc sự trình diễn của các ca sĩ khi các bài ca được dẫn chứng.

Với tấm lòng của một người yêu nhạc muốn gìn giữ những giai điệu một thời, chúng tôi mong độc giả lượng thứ cho những thiếu sót trong quá trình tìm lại tài liệu hoặc do ký ức không trọn vẹn. Mong được các bậc thức giả góp ý để chúng tôi có thể hoàn chỉnh nếu có điều kiện xuất hiện lại trong tương lai.

                                                                                                                               Tác giả

CHƯƠNG I

BỐI CẢNH LỊCH SỬ GIAI ĐOẠN 1954-1975

Lịch sử không là gì hơn ngoài màn kịch của tội lỗi và bất hạnh

(History is nothing more than a tableau of crimes and misfortunes)

                                                                                  Voltaire

I. TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ.

1. Những diễn biến trước ngày chia cắt đất nước

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ e ngại sự bành trướng của cộng sản ở Đông Nam Á, xem ông Hồ Chí Minh là thành viên quốc tế cộng sản nên đã giúp Pháp tái chiếm Việt Nam. Đó chính là tinh thần của bị vong lục NSC-64 ngày 27-2-1950 và NSC-124/2 ngày 25-6-1952 của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ.

Năm 1946 Mỹ đưa tàu chở những nhóm lính Pháp đến Việt Nam kiểm soát nhiều thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế, Sài Gòn. Ngày 7-10-1947, quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Cạn. Đây là chiến dịch lớn nhất đến nay (chiến dịch Léa) trong chiến tranh Việt – Pháp với 12.000 quân Pháp tấn công vào Việt Bắc để tiêu diệt chủ lực quân của Việt Minh và hòng bắt sống toàn thể nhân viên chính phủ lúc bấy giờ. Pháp thất bại trong việc bắt giữ các bộ trưởng, ngoại trừ Bộ trưởng Bộ Cứu tế xã hội và là Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Nguyễn Văn Tố. Những năm 1940, đã có hàng trăm ngàn bộ đội chống Pháp. Cuối năm 1945, Việt Nam giải phóng quân trở thành lực lượng vũ trang lớn mạnh; tháng 9-1945 đổi thành Vệ quốc đoàn. Ngày 22-5-1946, Vệ quốc đoàn chính thức trở thành quân đội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH).

Năm 1949, Pháp tuy thừa nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập nhưng vẫn sử dụng lá bài Bảo Đại. Ngày 8-3-1949, Bảo Đại và Tổng thống Pháp Vincent Auriol ký thỏa ước Elysées biến Việt Nam thành một quốc gia độc lập trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 7-2-1950, Hoa Kỳ và Anh cùng công nhận nước Việt Nam độc lập và thiết lập quan hệ ngoại giao với chính quyền Bảo Đại. Phái bộ ngoại giao Hoa Kỳ được thành lập ngay tại Sài Gòn từ tháng 2-1950 với đại biện lâm thời Edmund A. Guillion và chính thức được nâng lên hàng đại sứ vào tháng 6-1952 với vị đại sứ đầu tiên là ông Donald R.Heath, một nhà ngoại giao kỳ cựu.

Cuối năm 1950, sau khi bị đánh bại nặng nề ở Cao Bằng, ngày 6-12 Pháp bổ nhiệm tướng Jean De Lattre de Tassigny làm tổng tư lệnh quân đội kiêm Cao ủy Đông Dương để mong cứu vãn tình hình ngày càng nguy ngập. Đầu mùa thu năm 1952, tổng số lính Pháp bị tử trận, thương vong và mất tích tại Đông Dương lên đến hơn 90.000 người. Đến 7-5-1954 Điện Biên Phủ thất thủ, Pháp phải ký Hiệp định Genève, chấm dứt gần 100 năm thống trị ở Đông Dương, nhường lại vai trò ở đây cho Mỹ. (Thật ra Mỹ đã dính líu sâu vào Việt Nam và Đông Nam Á trong 28 năm kể từ 1945 mà mười năm sau là cuộc chiến tranh thật sự). Tính đến năm 1954, Mỹ cung cấp cho Pháp 513 máy bay, 300 tàu chiến, 1.400 xe thiết giáp, 20.000 xe ôtô và nhiều phương tiện chiến tranh khác, chiếm đến 70% tổng chi phí cho chiến tranh ở Đông Dương (lên tới 7 tỉ USD). Ngày 16-6-1954, Bảo Đại ký sắc lệnh bổ nhiệm Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Mười ngày sau Ngô Đình Diệm từ Paris về nước chấp chính sau năm năm ở nước ngoài. Hiệp định phân chia Việt Nam làm hai miền Nam – Bắc, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Mỹ và Quốc gia Việt Nam từ chối ký hiệp định. Người Mỹ coi cuộc chiến tại Việt Nam là một phần của một cuộc xung đột toàn cầu mới chống lại chủ nghĩa cộng sản, trong khi VNDCCH xem cuộc chiến này là giai đoạn mới nhất của một cuộc đấu tranh giành độc lập (1). Ngày 12-5-1954, Tổng thống Mỹ Eisenhower phát biểu: "Thế giới tự do không thể bỏ Đông Dương". Walter Robertson, trợ lý ngoại trưởng Mỹ về các vấn đề Viễn Đông lúc đó, tuyên bố mục tiêu sự can thiệp của Mỹ là giữ Việt Nam trong hai năm để Mỹ huấn luyện 300.000 người Việt Nam nhằm chống lại chủ nghĩa cộng sản.

2. Sân khấu chính trị và tình hình quân sự ở miền Nam Việt Nam

Ngày 1-10-1954, Eisenhower gửi thư cho Ngô Đình Diệm hứa sẽ chi viện. Ngày 8-11, Eisenhower cử tướng Lawton Collins sang Sài Gòn làm đại sứ đặc biệt có quyền hạn rộng rãi, lập phái đoàn quân sự Mỹ (MAAG) do tướng O’Daniel cầm đầu. Ngày 13-12-1954, tướng Ely của Pháp và tướng Collins ký hiệp ước qui định Mỹ thay thế Pháp về quân sự ở miền Nam Việt Nam. Năm 1955 Mỹ để Ngô Đình Diệm thay thế Bảo Đại, với sự giúp đỡ đắc lực của hồng y Spellman, giáo sư Buttinger và đại tá CIA Lansdale. Được Mỹ khuyến khích và hỗ trợ, Ngô Đình Diệm từ chối tổng tuyển cử vì điều này không có trong hiệp định mà chỉ có trong phụ lục ngày 21-7-1954 không có nước nào ký tên nên không có tính chất bắt buộc. Thay vào đó, ông cho trưng cầu ý dân ở miền Nam. Ngô Đình Diệm thắng với 98,2% số phiếu và trở thành tổng thống (TT) nền Đệ nhất Cộng hòa. Những số liệu chính thức của miền Nam biên soạn tháng 10-1955 cho thấy rằng những người di cư từ Bắc vào Nam bao gồm 676.348 người Công giáo (76,3% toàn bộ người miền Bắc di cư), 209.132 Phật giáo (23,5%), và 1.041 Tin Lành (0,2%) (2). TT Diệm đặt tên nước là Việt Nam Cộng hòa (VNCH), lấy Sài Gòn làm thủ đô. Đây là một thực thể chính trị và hành chính hợp pháp về mặt công pháp quốc tế và đương nhiên là một nước có chủ quyền. Từ đây Mỹ khởi đầu chiến lược nhằm chặn đứng sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á. TT Diệm vẫn mời vào chính phủ những người đã từng cộng tác với Pháp, đặc biệt đối với người Công giáo – dù chiếm 10% dân số nhưng theo chủ trương của TT Diệm muốn Công giáo hóa dân miền Nam nên được nhiều ưu đãi và chiếm lĩnh hầu hết các chiếc ghế trong chính phủ.

Năm 1955, sau khi ra sức dẹp các tổ chức quân sự của Bình Xuyên và của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo ở Nam bộ, TT Diệm tổ chức bộ máy chính quyền từ trung ương đến cơ sở; nắm chắc bộ máy quân đội, cảnh sát; tiến hành quốc sách tố Cộng (từ mùa hè 1955, khoảng 50.000 đến 100.000 người bị nhốt vào trại tập trung, trong số này đa số không liên hệ gì với cộng sản), truy nã những người kháng chiến, bức hại gia đình họ; gom dân vào các ấp chiến lược (một chương trình do sáng kiến của ông Thompson người Anh, cố vấn du kích chiến của Nhà Trắng, đã đưa 10 triệu dân vào 17.000 ấp chiến lược) để dễ bề kiểm soát. Để thanh lọc những người theo Cộng sản, TT Diệm ra sắc lệnh số 49 bỏ tù tất cả những người chống lại chế độ cộng hòa và luật 10/59 là đỉnh cao của quốc sách này, thiết lập ba tòa án quân sự đặc biệt ở Sài Gòn, Huế, Ban Mê Thuột chỉ xét xử ở hai mức tử hình và chung thân.

Cùng với việc dựng nên chế độ, Mỹ lập ra quân đội VNCH, thành lập SEATO (South East Asia Treaty Organization, gồm ba nước châu Á và năm nước phương Tây), trở thành công cụ để Mỹ bảo trợ cho miền Nam Việt Nam, đồng thời bảo vệ miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia. Đến năm 1958, Mỹ không chỉ trả tất cả chi phí quân đội mà còn trả 80% các chi tiêu của chính phủ TT Diệm nữa.

“Từ ngày 12 đến 22-1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN họp Hội nghị lần thứ 15 tại Hà Nội đưa ra nghị quyết ‘giải phóng miền Nam’. Tháng 5-1959, Hà Nội quyết định mở con đường Tây Trường Sơn trên đất Lào để xâm nhập vào miền Nam, lấy tên là Đường 559, thường được gọi là đường Hồ Chí Minh… Ngày 25-1-1963, Tổng thống Kennedy tuyên bố ông muốn biến Lào thành “một nước độc lập, hòa bình và không liên kết”. Averell Harriman, Thứ trưởng Ngoại giao về vấn đề chính trị, được coi là người có quyền hành nhất lúc đó tại Tòa Bạch Ốc, cho rằng phải trung lập hóa Lào để ngăn chận miền Bắc dùng đất Lào xâm nhập vào miền Nam. Ngày 16-5-1961, Hội nghị Quốc tế giải quyết vấn đề Lào được triệu tập tại Genève. Chính phủ Ngô Đình Diệm phản đối rất mạnh, nhưng Harriman cứ tiến tới. Ngày 23-7-1962, Hiệp ước Hòa bình tại Lào đã được ký kết, kết quả 666 cố vấn Mỹ và toàn bộ quân đội của VNCH phải rút khỏi Lào. Bắc Việt cũng cam kết như thế. Nhưng thực tế không như Harriman tuyên bố. Theo báo cáo của CIA, sau khi Lào tuyên bố trung lập, khoảng 7.000 bộ đội Bắc Việt chẳng những không chịu rút khỏi Lào mà còn bành trướng thêm” (3) .

Ngày 20-12-1960 thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, tổ chức cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. Phong trào Đồng khởi diễn ra vào năm 1960. Ngày 15-2-1961 Quân giải phóng được thành lập. Trong năm này quân giải phóng tấn công sư đoàn 21 của quân đội cộng hòa khiến sư đoàn này bị thiệt hại nặng nề, bị mất toàn bộ vũ khí của một trung đoàn. Họ còn tấn công nhiều nơi như vùng U Minh Hạ (Cà Mau), Thái Lai (Phong Dinh), Bầu Răm, Đức Huệ (Long An), Phong Phú (Kiến Tường), Gia Rai (Ba Xuyên), Cai Lậy (Định Tường), Phước Tân, Bàu Sen (Tây Ninh), Cao Lãnh (Kiến Phong), quận Đức Hòa gần Sài Gòn, ở Cóc Rinh (Đức Huệ, Long An), các đồn Dakpek, Daksout, Dakse ở Kontum; tấn công công trường làm đường Kontum – Quảng Ngãi, căn cứ Hiệp Đức ở Quảng Nam…

Vào năm 1961, quân giải phóng làm chủ tình hình nhiều nơi, liên tiếp tấn công nhiều quận lỵ khắp miền Nam. Ngày 1-4-1961 tấn công tỉnh lỵ Kiến Hòa; ngày 28-6-1961, tấn công Đơn Dương, sau đó là khu Tô Hạp (biên giới tỉnh Ninh Thuận và Khánh Hòa); ngày 16-7-1961, tiểu đoàn 502 tấn công giữa ban ngày một tiểu đoàn nhảy dù tại Mỹ Quý (Kiến Phong); ngày 18-9-1961, tấn công chiếm đóng, đốt phá tỉnh lỵ Phước Thành, sát hại tỉnh trưởng, phó tỉnh trưởng và nhiều viên chức khác… Sau chuyến thăm của Phó tổng thống Johnson và hai ông Taylor – cố vấn quân sự, và Rostow – cố vấn an ninh – năm 1962, viện trợ hùng hậu của Hoa Kỳ đổ vào miền Nam sau khi TT Diệm hứa sẽ cải cách chế độ. Về quân cụ, Hoa Kỳ trang bị thêm thiết vận xa M113, phi cơ trinh sát, phóng pháo cơ, chiến hạm và nhiều vũ khí. Đầu năm 1962, Mỹ thành lập Bộ tư lệnh quân đội Mỹ tại Sài Gòn (MACV) để điều hành và phối hợp chính sách viện trợ và hành quân tại Nam Việt Nam. Tuy được Mỹ yểm trợ hùng hậu như vậy nhưng cũng chẳng cải thiện được tình hình miền Nam.

Trận Ấp Bắc xảy ra vào ngày 2-1-1963 là một trận đánh lớn. Tình báo quân đội cộng hòa được tin một đại đội du kích quân hoạt động tại đây nên tư lệnh Quân khu 4 – tướng Huỳnh Văn Cao và tư lệnh sư đoàn 7 – đại tá Bùi Đình Đạm quyết định tung vào đây một lực lượng gồm nhiều tiểu đoàn bộ binh, biệt động quân, trực thăng CH21, thiết vận xa M113, pháo binh, bảo an tỉnh Định Tường cùng 31 cố vấn Mỹ. Khi chạm súng, quân đội cộng hòa bị thiệt hại nặng nề và nhận ra rằng ở đây không chỉ có một đại đội mà là tiểu đoàn 514 với khoảng trên 400 quân giải phóng. Kết quả phía lính cộng hòa có 5 trực thăng bị phá hủy, 11 chiếc bị hư hại nặng, 65 lính và 3 cố vấn Mỹ chết và vô số bị thương.

Chiến thắng quân sự của quân giải phóng ngày càng dồn dập, tuy vậy TT Mỹ bấy giờ là J.F.Kennedy vẫn đặt niềm tin vào quân đội cộng hòa, ngày càng tăng cường viện trợ. Lính mũ nồi xanh trực tiếp làm việc với lính cộng hòa trong mỗi chiến dịch. Cố vấn Mỹ ngày càng đông đảo: tháng 1-1961 có 800 cố vấn Mỹ; giữa năm 1962 có 12.000; tháng 10-1963, con số ấy là 16.732 và giữa năm 1964 Johnson nâng lên 27.000 (4). Về phía lính cộng hòa, đầu năm 1963 có 225.000 lính chính qui, 100.000 bảo an, 90.000 địa phương quân, 85.000 dân vệ…, tất cả khoảng 500.000 người, chưa kể 100.000 nhân viên công an, cảnh sát dã chiến, nhân viên an ninh xã ấp (theo Bernard B. Fall).

Tháng 11-1963, tướng Dương Văn Minh đảo chính, lật đổ Diệm – Nhu với sự đồng ý của CIA và đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge. Sau cái chết của J. F. Kennedy, Johnson lên làm TT Mỹ. Ông ta tin rằng chìa khóa thành công trong chiến tranh Việt Nam là làm cho lãnh đạo VNDCCH sợ rằng Mỹ sẽ can thiệp bằng cách leo thang chiến tranh Việt Nam. Cũng chính trong năm này, cảnh giác với một quan chức Mỹ về việc Mỹ dấn sâu vào chiến tranh Việt Nam, Thủ tướng Liên Xô lúc đó là Nikita Khrushchev nói: "Nếu các ngài muốn, hãy cứ đi mà chiến đấu trong rừng rậm Việt Nam. Người Pháp đã chiến đấu ở đó 7 năm và cuối cùng vẫn phải ra đi. Có lẽ người Mỹ sẽ trụ lại được ở đó lâu hơn một chút nhưng rồi họ cũng sẽ phải ra đi thôi". (5)

Tháng 1-1964 Mỹ lên kế hoạch tấn công miền Bắc bằng biệt kích với nhiệm vụ phá hủy cầu cống, đường sắt…, còn hải quân Mỹ kiểm soát bờ biển Việt Nam. Johnson còn bí mật tăng cường ném bom Lào và đường mòn Hồ Chí Minh (6). Lấy cớ sự kiện vịnh Bắc bộ do chính Mỹ tạo ra, Johnson ra lệnh cho máy bay tấn công miền Bắc. (Vào năm 2001, nhà sử học của Cục An ninh quốc gia Mỹ – The National Security Agency – Robert J. Hanyok đã đăng bài Skunks, Bogies, Silent Hounds, and the Flying Fish: The Gulf of Tonkin Mystery, 2-4 August 1964 trên tạp chí Cryptologic Quarterly của Cục An ninh quốc gia Mỹ NSA dựa trên những tài liệu tối mật, đưa ra chứng cớ là vào ngày 4-8-1964 không xảy ra việc Bắc Việt Nam tấn công các tàu chiến Mỹ trên vịnh Bắc bộ, mà NSA cố tình che đậy và bóp méo sự thật).

Dưới chế độ TT Diệm, tổng số quân Mỹ tại Việt Nam khoảng 17.000 người, 14 tháng sau khi TT Diệm bị lật đổ, con số ấy là 23.000 người. Ngày 8-3-1965, 1.500 thủy quân lục chiến Mỹ đầu tiên đến Đà Nẵng. Đến tháng 4-1965 số lính Mỹ có mặt ở miền Nam là 56.000, cuối năm 1965 là 184.314, cuối năm 1966 là 385.000, cuối năm 1967 là 485.000, cuối năm 1968 là 536.000 lính. Năm 1969 số lính Mỹ lên tới 543.500 người cùng 70.300 lính của Úc, Đại Hàn, Thái Lan, Tân Tây Lan. Có một điều nghịch lý là càng đổ quân, Mỹ càng nhận ra khó mà tìm được chiến thắng. Vì vậy ngay sau khi lính Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng không bao lâu, nhất là sau ba lần đi Sài Gòn (tháng 10-1965, tháng 7 và 10-1966), Kissinger đã phải thừa nhận: "Tôi đã nhận thấy ngay chúng ta đã tham gia một cuộc chiến tranh mà chúng ta không biết làm thế nào để chiến thắng mà cũng không biết làm thế nào để kết thúc".(7) Sau đó, trên tập san Foreign Affairs, Kissinger đã rút ra kết luận: "Nguyên tắc chủ yếu của chiến tranh du kích là khi người ta không thua là thắng, trong khi đối với quân đội chính qui, không giành được thắng lợi là thua".(8)

Chiến sự ngày càng dồn dập. Ngày 20-3-1967, căn cứ Dốc Miếu cách cầu Hiền Lương 4km về phía nam với một tiểu đoàn lính Sài Gòn và Mỹ đã ngập chìm trong trong bão lửa của trung đoàn pháo binh 164 (Quân khu 4); 2.500 lính (trong đó có hơn 1.000 lính Mỹ) bị tiêu diệt, hàng chục khẩu pháo bị phá hỏng, 5 máy bay trực thăng, 57 xe quân sự, một kho đạn cối và một kho xăng bị thiêu hủy; lính Mỹ còn lại tan tác bỏ chạy về Quảng Trị. Tháng 12-1967, quân giải phóng tấn công căn cứ Mỹ ở Khe Sanh. Mỹ điều động 50.000 lính đến bảo vệ căn cứ này nhưng đến 23-6-1968 phải rút bỏ. Đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 (mồng 1 rạng mồng 2 Tết Mậu Thân), VC gồm 85.000 quân tấn công 44 đô thị và 22 căn cứ quân sự của Mỹ ở miền Nam. Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn bị chiếm giữ suốt 8 giờ làm rúng động chính trường Mỹ. Ngày 31-3-1968, Johnson tuyên bố ngừng ném bom hạn chế miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, đề nghị đàm phán với Bắc Việt. Lính Mỹ đã phạm nhiều tội ác khi tấn công vào dân thường, bị dư luận thế giới lên án. Tháng 3-1968 lính Mỹ giết 500 dân thường ở Sơn Mỹ, Quảng Ngãi; ngày 25-2-1969 trung úy Bob Kerry thuộc đơn vị đặc nhiệm SEAL dẫn đầu một toán lính biệt kích càn quét làng Thạnh Phong, Bến Tre (Ted Rall, New York Times, 3-5-2001). Còn Neil Sheehan thì nói: "Vào năm 1966 (ba năm trước vụ Sơn Mỹ và Thạnh Phong), tôi chứng kiến lính Mỹ làm cỏ ba làng chài, giết tới 600 dân thường… Sổ tay quân nhân nói tấn công bệnh viện là bất hợp pháp, nhưng chúng ta đã thường xuyên ném bom và nã pháo vào các bệnh viện. Khi nhìn lại, chúng ta nhận ra rằng vấn đề tội ác chiến tranh luôn tồn tại khi đó" (9). Về phía quân giải phóng, trong suốt thời chiến tranh, họ không ngừng pháo kích vào các đô thị, các vùng ven nên nhà nào cũng xây dựng hầm trú ẩn.

Johnson quyết định không ra tranh cử năm 1968. Richard Nixon lên làm tổng thống với lời hứa sẽ chấm dứt được chiến tranh Việt Nam, khẳng định lại mục đích như vị tổng thống tiền nhiệm là không để miền Nam rơi vào tay Cộng sản, tuy nhiên điều đó không thể bảo đảm được nếu không tiếp tục theo đuổi chiến tranh. Khi Nixon lên nhậm chức vào tháng 1-1969 và trong nhiệm kỳ của ông, đã có gần 21.000 lính Mỹ chết và 53.000 lính bị thương; đến cuối nhiệm kỳ của ông số lính Mỹ giảm một nửa là 270.000 người (10). Nixon đề ra chủ trương Việt Nam hóa chiến tranh, tuyên bố có một kế hoạch bí mật để chấm dứt chiến tranh. Đáng kể trong thời gian này là chiến dịch Phượng hoàng, một chiến dịch tình báo và ám sát bí mật của CIA từ 1968-1975. Trong thời gian diễn ra chiến dịch Phượng Hoàng, CIA bị tố cáo là đã sử dụng các hình thức tra tấn một cách có hệ thống. Theo lời K. Barton Osborn, một sĩ quan tình báo quân đội tham gia chiến dịch, đã có nhiều hình thức tra tấn dã man với quân địch. Để lấy lại thể diện, CIA cũng đã tiến hành một cuộc điều tra toàn diện về những khai nhận của Osborn và bác bỏ một số chi tiết nhỏ trong lời nói của sĩ quan này, nhưng về toàn cục sự tàn bạo của cả chương trình là không thể chối bỏ (11). Năm 1971, William Colby đưa ra số người bị giết là 20.857 người bị nghi ngờ là cộng sản, nhưng thật ra đa số trong đó là người vô tội (12). Lúc này Mỹ không ngừng tăng cường đánh bom miền Bắc, đánh bom cả Lào và Campuchia. Quân đội Sài Gòn được giúp đỡ và trang bị tốt hơn năm 1965, tuy vậy vẫn không đủ sức chiến đấu nếu không có sự hỗ trợ của không quân Mỹ.

Johnson đã từng bàn đến chuyện thương thuyết sau vụ tấn công Tết Mậu Thân. Ngày 13-3-1968 cuộc nói chuyện tại Paris đổ vỡ do chính quyền Sài Gòn từ chối thương thuyết. Tháng 10-1968, trong cuộc tranh cử tổng thống Mỹ, Hubert Humphrey kêu gọi thương thuyết, Nixon thuyết phuc Nguyễn Văn Thiệu nhưng ông này không chịu. Trong khi đó Hà Nội đòi Mỹ rút quân, còn Mỹ thì đòi Hà Nội đưa quân trở lại miền Bắc: cuộc thương thuyết thất bại.

Mỹ bí mật ném bom ở Lào vào năm 1964 và tháng 3-1969 ra lệnh ném bom Campuchia, cuộc ném bom kéo dài bốn năm làm 100.000 người dân chết, hai triệu người dân phải rời bỏ nhà cửa. Khi Nixon tuyên bố tấn công, sinh viên Mỹ bắt đầu biểu tình phản đối. Phong trào phản chiến bắt đầu với việc tự thiêu của Norman Morrison ngày 2-11-1965 trước Lầu Năm Góc ở Washington D.C. Đã có hơn 200 tổ chức chống chiến tranh ở khắp các bang ở Mỹ, Ngày 15-11-1969, bốn năm sau đó, một cuộc tuần hành 250.000 người diễn ra ở đại lộ số 5 trung tâm New York, chỉ cách quảng trường Times Square vài dãy phố. Cùng lúc là hàng loạt các cuộc xuống đường ở nhiều thành phố lớn tại cả bờ Đông và bờ Tây nước Mỹ (13). Ở Đại học Kent (bang Ohio), bốn sinh viên bị giết và chín người khác bị thương ngày 4-5-1970 (14). 16 triệu trong số 27 triệu thanh niên Mỹ đến tuổi quân dịch đã chống lệnh quân dịch, 2 triệu người Mỹ “gây thiệt hại bất hợp pháp” vì chống chiến tranh Việt Nam, 75.000 người Mỹ bỏ ra nước ngoài vì không chịu nhập ngũ và đấu tranh chống chiến tranh Việt Nam(15).

Ở miền Nam Việt Nam, từ 1962 đến 1971, Mỹ đã rải hàng triệu gallon (1 gallon = 3,78 lít) chất độc da cam và chất khai quang ở rừng núi Trường Sơn khiến nhiều bộ đội miền Bắc bị ảnh hưởng lâu dài (16). Tháng 3-1972, 150.000 quân Bắc Việt tấn công Quảng Trị; từ 24-4 đến 6-6 mở chiến dịch Tây nguyên, tiêu diệt 41.000 lính cộng hòa, chiếm tỉnh Kontum, trừ thị xã. Từ 30-5 tấn công quy mô và rộng khắp miền Nam. Phần lớn các tỉnh Quảng Trị và Bình Long đã thuộc về quân Bắc Việt.

Từ 1969 Nixon chỉ đạo 41.000 lượt xuất kích đánh phá miền Bắc, phong tỏa hải cảng Hải Phòng. Chiến tranh đã làm Nixon mệt mỏi nên có lần vào ngày 25-4-1972 Nixon từng nảy ra ý kiến ném bom nguyên tử xuống Việt Nam. Theo CNN, chi tiết này được tiết lộ ngày 28-2-2002 khi Cơ quan Lưu trữ quốc gia Mỹ công bố cuốn băng dài 500 giờ về các cuộc thảo luận của Nixon trong sáu tháng đầu năm 1972. Câu nói chính xác của Nixon: "Tôi thiên về lựa chọn dùng một quả bom nguyên tử". Cố vấn an ninh Kissinger trả lời: "Theo tôi, điều đó sẽ là quá mức". Trong buổi thảo luận vào tháng 6-1972, Nixon thẳng thừng nói với cố vấn Charles Colson: "Chúng tôi muốn phá hủy cái nơi quái quỷ đó… Miền Bắc Việt Nam phải được tái thiết trật tự. Đây là lúc phải làm và đó là điều lẽ ra phải làm từ lâu". Song điều đó không xảy ra và Nixon chỉ còn ra lệnh tiến hành leo thang chiến tranh tại Việt Nam. Sau bầu cử năm 1972, Kissinger xem lại thỏa thuận về thương thuyết mà ông ta đã soạn trước. Việc xem xét này bị phản đối và Kissinger đe dọa lại sẽ ném bom miền Bắc nếu điều kiện mới mà ông đưa ra không thực hiện được. Giáng sinh năm 1972 Nixon ra lệnh đánh bom ác liệt nhất Hà Nội và Hải Phòng từ 18 đến 30-12 với 200 máy bay B52 thả trên 35.000 tấn bom. Cuộc ném bom này dẫn đến cuộc nói chuyện giữa Kissinger và Lê Đức Thọ ngày 8-1-1973 để rồi ra đời Hiệp định Paris ngày 27-1-1973 (17). Giáo sư John Mc Alister – Đại học Princeton và Stanford, chuyên gia cố vấn Thượng viện Mỹ, từng có mặt ở miền Nam Việt Nam – đã sớm báo trước cho nước Mỹ rằng chiến tranh mà Mỹ đang can dự vào Đông Dương là vô vọng, không thể thắng nổi một xã hội nông thôn có thể chế truyền thống đặc biệt, được vũ trang bằng một chủ nghĩa yêu nước sâu sắc và mãnh liệt. Từ sau hiệp định Paris 1973, Quốc hội Hoa Kỳ lại mạnh tay cắt giảm viện trợ kinh tế và quân sự khiến cho miền Nam phải sụp đổ mau chóng hơn cả kế hoạch dự liệu của các chiến lược gia Hà Nội.

Tổng chi phí quân sự của riêng Mỹ tại cuộc chiến tranh tại Việt Nam từ 1965-1975 là 111 tỷ đôla, quy đổi theo thời gian năm 2008 thì bằng 686 tỷ đôla. Cao điểm của cuộc chiến là năm 1968, chi phí quân sự của Mỹ vào cuộc chiến tại Việt Nam bằng 2,3% GDP của Mỹ (18).

3. Nền tảng của chế độ Sài Gòn

a) Nền Đệ nhất Cộng hòa

Tuy là chế độ do Mỹ hỗ trợ, TT Ngô Đình Diệm tự thấy mình cũng phải tìm kiếm những giá trị tinh thần nào đó để làm nền tảng cho quốc sách chống Cộng và để xác lập một chủ thuyết nhằm chống lại lý tưởng của cuộc đấu tranh của nhân dân. Chúng ta biết Ngô Đình Nhu – cố vấn chính trị của Ngô Đình Diệm, là một người Thiên Chúa giáo từng du học ở nước ngoài – đã cùng một số linh mục như Bửu Dưỡng, Nguyễn Văn Thích, Lý Văn Lập… quyết định chính trị hóa giáo hội mà khởi đầu là hình thành một chủ thuyết vừa mang tính triết lý vừa mang tính chính trị, gọi là chủ nghĩa cần lao nhân vị, dựa trên triết thuyết le personalisme (chủ nghĩa nhân vị) của Emmanuel Mounier (1905-1950) và Jacques Maritain (1882-1973) – những trí thức Thiên Chúa giáo Pháp.

Chủ nghĩa nhân vị là một hệ thống triết học, đồng thời là một chủ thuyết về đạo đức và xã hội, đặt cơ sở trên giá trị tuyệt đối của con người, trên sự cao cả và tôn trọng nhân phẩm. Theo đó, khi nói con người là nói đến ý thức, đồng thời con người được xem trước hết như một chủ thể và là một chủ thể tinh thần. Quyền con người dựa trên ý tưởng có một phẩm giá nổi trội của con người mà ta không thể mua bán hoặc chối bỏ, đó chính là quyền của nhân vị. Vì lý do này, từ con người có ý nghĩa khác với từ cá nhân để chỉ một thành viên trong xã hội, hay trên lĩnh vực sinh học, là một nhất thể có sự sống. Nhà xã hội học nhìn xã hội như một tập hợp các cá nhân, còn nhà triết học nhìn thấy ở đó như một quần thể các nhân phẩm. Nhân phẩm là một hình thế tâm lý cá nhân của con người, trong đó có tính tình, tính cách, lịch sử cá nhân…- tất cả những gì làm nhân phẩm là một nhất thể luôn khác biệt với người khác, đó là một nhân vị. Theo quan điểm đạo lý, chúng ta đều là những con người đồng nhất, nhưng theo quan điểm tâm lý chúng ta là những nhân phẩm rất khác nhau. Vấn đề nhân phẩm là vấn đề tâm lý. Trong cách tiếp cận theo tâm lý học, cần phải hiểu tính riêng biệt của mỗi con người. Chúng ta là sản phẩm của quá khứ, của những liên hệ với điều kiện môi trường và xã hội chung quanh. Điều chúng ta trở thành, với tư cách là nhân phẩm, tùy thuộc vào nhiều điều mà chúng ta đã sống và đã trải nghiệm. Nhận biết nhân phẩm chính là khám phá một phức hợp hoàn toàn duy nhất. Con người phải được xem như một cứu cánh nội tại và không bao giờ là một phương tiện; nếu nhìn nhận ngược lại tức là vô luân.

Trên cơ sở triết lý này, ông Nhu khi về nước đã thêm vào ý niệm về cần lao làm vế thứ hai trong học thuyết của ông rồi cho phổ biến trên tuần báo Xã Hội do ông chủ trương (sau đó còn tiếp tục trên tạp chí Quê Hương). Tuy nhiên học thuyết này không phát sinh từ thực tiễn lịch sử nên không phù hợp với hiện trạng xã hội, từ đó không có được một sử quan nhất quán để vận dụng vào điều kiện của xã hội lúc bấy giờ. Thực tế vì tham vọng củng cố quyền lực của gia đình, ông Nhu đã đi ngược lại những gì mà ông đã học được từ chủ nghĩa nhân vị khi còn ở La Mã. Năm 1953, nhờ sự yểm trợ của khối Thiên Chúa giáo La Mã và Hoa Kỳ, ông Nhu quyết định năng động hóa chủ thuyết của mình bằng cách xin phép Thủ tướng Bửu Lộc thành lập một lực lượng thợ thuyền lấy tên là Tổng liên đoàn Lao công dựa theo mô thức tổ chức và lãnh đạo của lực lượng thợ thuyền Thiên Chúa giáo Pháp và tháng 9-1953 tổ chức hội nghị đại đoàn kết đòi hỏi hòa bình cho Việt Nam. Song song hai việc này, ông Nhu bí mật hoạt động cho ra đời đảng Cần lao nhân vị. Tuy vậy không ai thấy cương lĩnh, nội quy của đảng như thế nào, song qua những bài báo trên tuần báo Xã Hội và qua những bài giảng tại Trung tâm Nhân vị ở Vĩnh Long sau đó, người ta thấy học thuyết của ông Nhu là một thứ tư tưởng pha trộn và chắp vá từ giáo lý Thiên Chúa giáo, chủ nghĩa nhân vị của E. Mounier, thuyết nhân ái của Khổng Tử cộng thêm một ít nét của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa duy linh chống Cộng… Vào những năm đầu của chế độ TT Diệm, tại miền Nam đi đâu cũng nghe nói đến thuyết nhân vị nhưng sau đó thuyết này lại chìm vào quên lãng. Đảng Cần lao nhân vị đã biến thể thành đảng Cần lao Công giáo tiếp tục hiện diện ở miền Nam.

Tiến trình hoạt động của đảng Cần lao nhân vị có thể gồm ba giai đoạn. Giai đoạn 1 từ năm 1953 khi Ngô Đình Nhu bí mật khai sinh đảng này với cấp lãnh đạo trung ương là người ngoài Công giáo như Trần Văn Đỗ, Huỳnh Kim Hữu, Trần Chánh Thành…, có lẽ ông Nhu muốn lập một tổ chức như các đảng Dân chủ xã hội Thiên Chúa giáo châu Âu. Sở dĩ ông Nhu muốn kết nạp người ngoài Công giáo vào đảng vì nghĩ rằng khối Công giáo bấy giờ không có những nhân vật chính trị tên tuổi. Giai đoạn 2 kể từ năm 1955 khi ông Diệm đã chấp chánh và củng cố được quyền lực nên ông Nhu kết nạp người Công giáo làm nòng cốt vì bấy giờ hầu hết người Công giáo di cư và Công giáo miền Trung đã là hậu thuẫn vững chắc của chế độ TT Diệm. Giai đoạn 3 từ cuối năm 1957 khi hai ông Diệm Nhu tin rằng chế độ đã vững chãi nên cần phải có một chủ lực trung kiên để đi đến việc Công giáo hóa miền Nam – mục đích tối hậu của nhà Ngô. Đảng lấy yếu tố tôn giáo làm cơ sở cho mọi chính sách, vì vậy đảng viên gồm toàn tu sĩ và giáo dân. Từ đó những đảng viên không Công giáo bắt đầu bỏ đảng, nhiều nhân vật nổi tiếng cũng xa lánh rồi chống đối nhà Ngô.

Đảng Cần lao nhân vị trở nên nguy hiểm vì cho tôn giáo của mình là độc tôn nên kỳ thị các tôn giáo khác (về mặt nhân văn) và độc tài, khống chế sinh hoạt quốc gia (về mặt chính trị). Với tham vọng đó, đảng Cần lao nhân vị biến thành đảng Cần lao Công giáo, trao cho một số chức sắc trong hàng giáo phẩm những đặc quyền siêu chính phủ. Trong chín năm cầm quyền, TT Diệm và đảng Cần lao Công giáo đã có nhiều chính sách ưu tiên cho một sách lược quan trọng là "Công giáo hóa nhân dân". Vì vậy TT Diệm đã đưa người Công giáo vào giữ các vị trí quan trọng trong chính phủ, quốc hội, các tỉnh miền Trung và cao nguyên. Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu đã tự gieo mầm mống suy yếu bằng chế độ gia đình trị, bằng kỳ thị tôn giáo, óc bè phái và như vậy dễ đi đến cáo chung.

b) Nền Đệ nhị Cộng hòa

Sau khi hai ông Diệm Nhu bị lật đổ ngày 1-11-1963 (và bị bắn chết ngày hôm sau), đảng Cần lao Công giáo bị thất thế song đảng viên vẫn tìm mọi cách để phục hồi vai trò của mình. Sau ba năm rối ren vì các tướng tá tranh giành địa vị, quyền lực, từ nội các quân sự sang chính phủ dân sự, năm 1966 nền Đệ nhị Cộng hòa được hình thành dưới sự lãnh đạo của TT Nguyễn Văn Thiệu. Lực lượng hậu thuẫn cho chính quyền mới cũng chính là người Công giáo và đảng viên đảng Cần lao Công giáo. Theo Đỗ Mậu(19), giúp việc cho Thiệu là bốn người Công giáo được gọi là "tứ trụ triều đình", đó là cố vấn an ninh tình báo kiêm cố vấn quân sự Đặng Văn Quang, cố vấn kinh tài Nguyễn Cao Thăng rồi Nguyễn Văn Ngân, cố vấn chính trị linh mục Cao Văn Luận, cố vấn tình báo chiến lược Huỳnh Văn Trọng. Ngoài ra còn có linh mục Bửu Dưỡng, cố vấn bí mật đặc trách văn hóa giáo dục cho chính quyền TT Thiệu, người được Mỹ giúp đỡ thành lập Đại học Minh Đức. Một giám mục nổi tiếng khác là Nguyễn Văn Thuận (gọi ông Diệm bằng cậu ruột) có tham vọng xây dựng khối Thiên Chúa giáo thành một lực lượng để nắm quyền ở miền Nam; ông được Thiên Chúa giáo quốc tế giao chức tổng thủ quỹ Caritas, một tổ chức bề ngoài thì làm việc từ thiện nhưng mục đích cũng là để lôi cuốn người dân theo đạo Thiên Chúa.

Bên cạnh các nhân vật này là một số người khác như linh mục Nhuận và nhóm Nguyễn Đức Xích chuyên theo dõi các đảng phái, tôn giáo và thành phần đối lập. Ngoài ra TT Thiệu cũng nắm lấy Thượng viện thông qua ba, bốn liên danh Công giáo giữ các chức chủ tịch, phó chủ tịch và nắm Hạ viện với đa số là người Công giáo, đặc biệt với khối Độc lập gồm toàn thành phần Cần lao Công giáo. Với một quốc hội như thế, Thiệu đã dễ dàng thông qua các dự luật như luật báo chí, luật ủy quyền, hợp thức hóa cuộc bầu cử tổng thống độc diễn…

TT Nguyễn Văn Thiệu không chỉ gây ảnh hưởng trên ngành lập pháp mà cả trong ngành hành pháp, cho giữ chức bộ trưởng những tay chân trung thành với nhà Ngô như Cao Văn Tường, Trần Chánh Thành, Trần Văn Lắm, Vương Văn Bắc, Ngô Khắc Tỉnh… Về phía quân đội, TT Thiệu dàn xếp chức vụ cao cấp cho Cao Văn Viên (tổng tham mưu trưởng), Đổng Văn Khuyến (tổng tham mưu phó), Trần Văn Trung (Tổng cục Chiến tranh chính trị), Bùi Đình Đạm (Nha Động viên)… Ở các quân đoàn, sư đoàn vẫn là tướng tá Cần lao hoặc chế độ cũ như Ngô Du, Phạm Quốc Thuần, Đỗ Cao Trí, Trần Văn Minh, Phạm Văn Phú, Nguyễn Văn Toàn, Lữ Lan… Phía công an có Nguyễn Mâu, Nguyễn Khắc Bình…

Việc điều hành đất nước của nhà Ngô với đảng Cần lao trong quân đội và ngoài dân sự vẫn được TT Thiệu duy trì. Hai chính sách đặc thù của ông Diệm vẫn được TT Thiệu cho hồi sinh: kỳ thị tôn giáo và kỳ thị địa phương. Đó chính là mối nguy hiểm nội bộ làm suy yếu bộ máy cầm quyền của nền Đệ nhị Cộng hòa.

Nói tóm lại, các hoạt động chính trị của cả hai chế độ TT Diệm và TT Thiệu đã không tạo được sự đoàn kết mạnh mẽ để đương đầu với Chủ nghĩa Cộng sản. Cùng với việc Mỹ cắt giảm viện trợ vào đầu năm 1975 và sự triệt thoái của quân đội Mỹ thì sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn vào ngày 30-4-1975 là điều có thể dự đoán được.

___________

CHÚ THÍCH

(1) Mitchell K.Hall, The Vietnam War, Pearson Education, 2007, tr. 3. (Trích: American viewed the struggle in Vietnam as part of a new global conflict against communism, while the Vietnamese saw the war against the United States as the latest phase of a long fight for independence). Dẫn theo http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam#cite_note-Chi_vien-69.

(2) Peter Hansen – Bắc di cư: Dân Công giáo tị nạn từ miền Bắc Việt Nam và vai trò của họ tại Cộng hòa Miền Nam, 1954-1959. Nguồn: Journal of Vietnamese Studies, Volume 4, issue 3, Fall 2009. http://www.talawas.org/?p=19371.

(3) Lữ Giang, Khi Mỹ vẽ lại lịch sử cuộc chiến Việt Nam, https://www.danchimviet.info/khi-my-ve-lai-lich-su-cuoc-chien-vn/10/2017/6840/

(4) "The Pentagon Papers", Gravel Edition, Volume 2, Chapter 3, "Phased Withdrawal of U.S. Forces, 1962-1964," pp. 160-200) (dẫn theo Lạc Văn – Tính chính đáng của các bên trong cuộc chiến tại Việt Nam 1945- 1975 ,www.x-cafevn.org/node/91).

(5) Bruce Kennedy, Việt Nam cuộc chiến không quên, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội, 2001, tr. 11.

(6)“Chapter 4 – The Burden’s First Fanfare: American SIGINT Arrives in the Republic of Vietnam,1961-1964".

(7) Kissinger, Những năm tháng ở Nhà Trắng, hồi ký, trích dẫn theo Mai Văn Bộ, Từ Genève đến Paris, NXB Trẻ, TP.HCM, 2002, tr. 224.

(8) Hoành Linh Đỗ Mậu, Tâm sự tướng lưu vong, NXB CAND, Hà Nội, 1995, tr. 224.

(9) Bruce Shapico, Salon News, 2-5-2001.

(10) Neil Sheehan, Sự lừa dối hào nhoáng, NXB CAND, Hà Nội, 2003, tr. 887 và 899.

(11) Alfred W. McCoy (2006). A Question of Torture: CIA Interrogation, from the Cold War to the War on Terror. Macmillan. 68. ISBN 0805082484 và Andrew Jon Rotter (1999). Light at the End of the Tunnel: A Vietnam War Anthology. Rowman & Littlefield. 154. ISBN 0842027130.

(12) http://homepage.ntlworld.com/jksonc/docs/phoenix-scfr-19700217.html truy cập ngày 22/11/2009.

(13) http://www.sggp.org.vn/hosotulieu/nam2005/thang4/45576/

(14) http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn_tranh_Vi%E1%BB%87t_Nam#cite_note-H.E1.BB.93_Khang-8.

(15) Báo Sài Gòn Giải Phóng, Nhìn lại “cuộc chiến trong lòng nước Mỹ”, 15-4-2005.

(16) Tại hội thảo quốc tế năm ngày bàn về ảnh hưởng của chất độc da cam và dioxin tới sức khỏe và môi trường ở Việt Nam ngày 3-3-2002 tại Hà Nội, đại sứ Mỹ Raymond F. Burghardt thừa nhận trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã rải 72 triệu lít chất hóa học khai quang, chủ yếu là chất độc da cam chứa dioxin.

(17) Joseph A.Amter, Vietnam Virdict, bản tiếng Việt Lời phán quyết về Việt Nam, NXB QĐND, Hà Nội, tr.425.

(18) Stephen Daggett, CRS Report for Congress. Costs of Major U.S. War. Dẫn theo Lạc Văn – Tính chính đáng của các bên trong cuộc chiến tại Việt Nam 1945- 1975. http://www.x-cafevn.org/node/91.

(19) Hoành Linh Đỗ Mậu, sđd, tr. 331.

(Còn tiếp)

Comments are closed.