Nguyễn Hoàng Văn
Vẫn tha thiết với cuộc sống nhưng tâm trạng thế nào mà một người có thể tự bắn vào mình và, thậm chí, còn xem đó là cách để níu kéo cuộc sống?
Đó lại là “chuyện thật” về Vincent Van Gogh mà Giáo sư Jean-Pierre Isbouts – một sử gia, đạo diễn kiêm nhà sản xuất phim thuộc Fielding Graduate University ở California – trình bày trong Van Gogh: The Real Story. [1] Theo Isbouts thì hành động bạo liệt của Van Gogh – bậc thiên tài bị trầm cảm nặng với chứng “rối loạn lưỡng cực” (bipolar disorder) – đã diễn ra khi bị hụt hẫng thêm với cảm giác bị bỏ rơi.
Isbouts nói đến tâm trạng bơ vơ của Van Gogh khi Paul Gaugin rời bỏ mình giữa thế giới văn minh đã chán ngấy này để đến Tahiti tìm kiếm một không gian văn hóa nguyên sơ, một mình. Isbouts nói đến sự hụt hẫng của Van Gogh khi hay tin người em trai thân yêu Theodorus (Theo) Van Gogh – không chỉ là người nuôi sống mà hầu như là người duy nhất ngưỡng mộ tài năng của mình – gặp khó với công việc ở Paris nên phải đưa vợ con về Hà Lan, để Van Gogh bơ vơ trên đất Pháp, một mình. Isbouts lưu ý rằng, nếu muốn tự kết liễu mình, sao Van Gogh không bắn thẳng vào đầu hay ngực mà chỉ nhắm vào bụng? Và Isbouts cho rằng người bị bipolar disorder có xu hướng tự đả thương mình như là cách để gây chú ý và, ở đây, bậc thiên tài đang cảm thấy bị bỏ rơi của chúng ta cũng vậy. Không có ý định tự sát nên, sáu tiếng đồng hồ sau khi nổ súng, Van Gogh vẫn có thể lê bước về quán trọ và, mãi hai ngày sau, mới trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay của Theo. [2]
Chúng ta có thể nhận ra điều đó phần nào qua chính “tự sự’ của Van Gogh, trong tác phẩm. Với nguồn năng lượng cuồn cuộn qua cách dùng màu có khi rất dữ dội, với những cảm xúc sâu thẳm trong cách diễn đạt, tác phẩm của thiên tài này vẫn luôn mang lại cho chúng ta cảm giác về một thế giới hay cả một vũ trụ yên bình, tĩnh lặng. Từ The Bedroom in Arles đến Wheatfield with Cypress Trees, Café Terrace at Night hay Olive Grove, v.v. và cả The Starry Night hay The Starry Night over the Rhone với bầu trời sao cuộn sóng hay những vì sao bùng nổ như Mặt Trời, tất cả đều mang lại cảm giác thanh bình ấy. Đó là gì nếu không phải là hành trình tự cứu rỗi của một khát vọng sống đang vùng vẫy trong hố thẵm tuyệt vọng?
Đau đớn vì thất bại, lạc lõng vì mất phương hướng, vì bị bỏ rơi thì người nghệ sĩ chỉ có thể cứu rỗi lấy mình bằng chính nghệ thuật của mình. Nói theo Jiddu Krishnamurti thì cảm giác bị bỏ rơi đã chắp cánh cho cội nguồn sáng tạo khi người nghệ sĩ không còn cảm thấy bị bó buộc bởi cái gì, không phải lo sợ về sự hiện hữu của mình, không hề lo toan phải đạt đến cái gì đó. [3] Họ tìm tòi hay xây dựng các mối quan hệ, bằng nghệ thuật. Họ khám phá đến mức tận cùng của niềm đau, những ý nghĩa sâu thẵm và tinh tế nhất của kiếp nhân sinh, cũng bằng nghệ thuật. Và họ để lại những tác phẩm bất hủ. Từ Van Gogh đến Edvard Munch, Pablo Picasso và bao nhiêu thiên tài khác, hội họa, văn chương, và âm nhạc, như Wolfgang Amadeus Mozart, như Ludwig van Beethoven, v.v. chúng ta đều ghi nhận những góc đời tương tự. Những thiên tài với những dấu hiệu bipolar disorder ở những mức độ khác nhau, luôn vật vã với cảm giác bị bỏ rơi nhưng hừng hực một sức sáng tạo phi thường như là hành trình cứu rỗi cho mình.
Nếu đó là những cá nhân thì, trong tầm mức cộng đồng, con đường “cứu rỗi” ấy có thể chữa lành cho thế giới đang quằn quại với dị biệt và chia rẽ, có thể những ranh giới để con người xích lại và hòa hợp với nhau như thể một global village, một cái “làng toàn cầu”. Có thể nhận ra điều này từ mười lăm năm trước, giữa lúc đất nước chúng ta đang rộn ràng với “Đại lễ ngàn năm” và tang tóc với một trận lụt thì, hầu như cả thế giới, lại chăm chú vào cuộc “đại giải cứu” ở một hầm mỏ của Chile, cái sự “trùng khớp” mà tôi từng nhắc đến trong cuộc phỏng vấn trên trang talawas:
[…] Trận lụt nói trên xảy ra trong thời gian tổ chức “Đại lễ Ngàn Năm Thăng Long”, kỷ niệm sự kiện vua Lý Thái Tổ dời kinh từ vùng núi Hoa Lư chật hẹp ra Thăng Long của đồng bằng rộng lớn. Thăng Long nằm sát sông Hồng và hàng năm phải oằn mình ra đối phó với lũ lụt và khi dời đô như thế thì vua Lý Thái Tổ đã thách thức lại thiên nhiên để từ đó mở ra “ngàn năm văn hiến”.
Trong trận lụt vừa qua qua báo chí đã nói nhiều đến trường hợp hy sinh của cô giáo Trần Thị Hoa, giáo viên Trường mầm non Hương Thủy (Hương Khê, Hà Tĩnh). Anh Lê Trọng Thống đã kể với các phóng viên câu chuyện của cô Hoa (Dân Trí 7/10/2010): “7h sáng ngày 3/10, khi biết nước lũ dâng cao, trường Mầm non Hương Thuỷ sắp bị ngập trong lũ, cô Hoa đã nhờ tôi và chồng là anh Trung ra để cứu trường. Ra đến đường sắt thấy nước lũ quá cao, tôi và anh Trung bảo cô Hoa đưa chìa khoá phòng đây để bọn anh ra cứu trường còn em về lo dọn dẹp nhà cửa mà chạy lũ. Cô Hoa không chịu cứ một hai để em đi cùng các anh chứ việc nhà để sau giờ lo việc tập thể đã. Trường có hai người giữ chìa khóa tầng một, em cầm một cái còn cô kia thì ở xa không thể đến được, trường lại sắp ngập, nên đây là trách nhiệm của em. Em phải ra dọn trường đưa toàn bộ sách vở, dụng cụ học tập lên tầng hai chứ giao cho các anh em không yên tâm chút nào.[…] Vừa vượt qua được chỗ sâu nhất sắp lên phía bờ bên kia thì bất ngờ nước lũ đổ về quá mạnh cuốn trôi cả ba người. Tôi tìm cách vẫy vùng bám vào bụi cây rồi gắng sức bơi lên bờ. Sau khi quan sát thấy anh Trung đang hấp hối cố bơi vào bờ tôi đã lao ra cứu. Còn cô Hoa mất tăm mất tích. Anh Trung gào thét định lao ra tìm vợ nhưng tôi đã ngăn cản lại. Nếu giờ anh ra đó sẽ chết, biết tìm vợ đâu giữa biển nước thế này, hai người phải có một người sống để nuôi con”.
Theo tôi thì không có thí dụ sống nào hay và đúng với ý nghĩa của “đại lễ” hơn thế. Cô giáo đã thách thức lại sự cuồng nộ của thiên nhiên để cứu trường, để bảo toàn việc học hành của các em. Đây chính là hành động mang ý nghĩa “mở mang văn hiến” và trong một “đại lễ” như thế thì một nhà lãnh đạo sáng suốt, có tầm nhìn sẽ lập tức sử dụng tấm gương cô giáo Trần Thị Hoa để gây sinh khí, để tạo một niềm “cảm hứng” cho đất nước.
Tôi nghĩ đến những hình ảnh chiếu trên truyền hình ngày 14/10/2010 khi ông Luis Alberto Urzua, trưởng kíp của 33 thợ mỏ, được cứu lên mặt đất. Lúc đó Tổng thống Chile Sebastian Pinera bước đến bắt tay chào đón trong tiếng nhạc của bản quốc ca Chile, nói: “You are not the same, and the country is not the same after this. You were an inspiration. Go hug your wife and your daughter.” (Anh sẽ không còn là anh của trước đây nữa và đất nước của chúng ta không còn là Chile trước đây nữa. Chính anh là nguồn cảm hứng. Hãy tới ôm vợ và cháu gái đi anh).
Ông Urzua, trong vai trò trưởng kíp thợ, đã ở lại đến giây phút cuối cùng, chờ khi toàn bộ công nhân của mình được đưa lên mặt đất an toàn. Và ông Pinera, trong vai trò người đứng đầu đất nước, đã ở lại cho đến giây phút cuối khi người thợ cuối cùng được đưa lên mặt đất an toàn. Không chỉ là người thợ trưởng kíp mà tự thân hành động của Tổng thống Pinera cũng là một niềm “cảm hứng”.
So sánh với ông Chủ tịch của Việt Nam chúng ta thấy gì? Ông Chủ tịch không có lời nào về các nạn nhân của trận lụt. Ông không đá động gì đến sự hy sinh đầy ý nghĩa của cô giáo, cho dù trong các ngày 6, 7 và 8 báo chí liên tiếp đưa tin về cô, diễn tả đám tang thương tâm của cô. Tại lễ bế mạc đại lễ ông chỉ máy móc đọc bài diễn văn soạn sẵn nhưng cũng lập cập, cà lăm. “Lý Thái Tổ” là cái tên lẽ ra học trò tiểu học phải thuộc làu nhưng ông cũng lắp bắp “Lấy… Lý Thái Tổ”. [4]
Trong tai nạn ở Chile, ba mươi ba thợ mỏ đã bị mắc kẹt ở độ sâu gần 700 mét khi mỏ vàng San Jose sập đổ vào ngày 5/8/2010, 69 ngày sau mới được giải cứu với sự trợ giúp của nhiều quốc gia, đặc biệt là những kỹ thuật siêu việt của NASA, Cơ quan không gian của Mỹ. Hàng trăm triệu người trên khắp thế giới đã hồi hộp theo dõi sát sao từng diễn biến của cuộc giải cứu trong hai ngày cuối cùng, từ những hình ảnh phát trực tiếp trên Internet, các bản tin trực tiếp trên các đài truyền hình lớn. Tại thủ đô Washington của Mỹ, một đám đông đã hô vang “Chi! Chi! Chi! Le! Le! Le!” mỗi khi màn hình lớn giữa quảng trường thủ đô cập nhật hình ảnh một người thợ được đưa lên mặt đất. Ông Connie Preti, một người Mỹ sống tại New York, đã nhận xét trên Twitter:
“Cách đây 41 năm người ta đã hồi hộp theo dõi bước chân con người trên mặt trăng. Giờ đây thế giới hồi hộp theo dõi người ta đi lên từ lòng đất. Hai sự kiện đều gây ấn tượng sâu sắc như nhau”. [5]
Trái với lệ thường khi tin xấu mới thu hút đám đông như là tin nóng, đây lại là sự thống trị của “tin lành”. Mà đó không chỉ là duy nhất. Trước đó, tháng Năm năm 2006, là vụ giải cứu ở mỏ vàng Beconsfield, ở Úc. Sau đó, tháng Sáu năm 2018, là vụ giải cứu đội bóng thiếu niên Lợn Lòi, ở Thái Lan. Những điều như thế đều cho thấy rằng nỗ lực “không bỏ rơi đồng loại” luôn là một mẫu số chung để kết nối con người lại với nhau bất kể màu da, bất kể tín ngưỡng và, do đó, một cách không chính thức, đã giúp thế giới này nhích lại như một cái “làng toàn cầu”, suốt mấy tuần lễ.
Sau thời sự nóng sốt thì đến điện ảnh mang tính hậu nghiệm. Những câu chuyện như thế đều được kỹ nghệ này khai thác, như phim 33 của Tây Ban Nha với Antonio Banderas, tài tử chính, là một khuôn mặt gạo cội của Hollywood. Mà, thượng vàng hạ cám, “bản hùng ca giải cứu” này cũng là đề tài bất tận của Hollywood trong đó, nổi lên như một trong những tác phẩm điện ảnh vĩ đại nhất, là Saving Private Ryan (1998) của đạo diễn Steven Spielberg và nhà biên kịch Robert Rodat.
Câu chuyện bắt đầu từ một ý tưởng rất… người rồi tiếp diễn với những cảnh tượng khủng khiếp của Đệ nhị thế chiến, ngay giữa tình thế nóng bỏng và cấp bách nhất của trận địa. Nó bắt đầu khi những nhà chỉ huy cao nhất của bộ máy quân sự Mỹ quyết tâm rằng, bằng mọi giá, phải “cứu” cho bằng người mẹ đã mất ba người con trai trên chiến trường, và, do đó, phải cứu cho bằng được người con trai thứ tư vừa được ghi nhận là mất tích. Họ không nỡ lòng nhìn bà mẹ này mất thêm đứa con thứ tư nhưng người con này, binh nhất James Francis Ryan, khi được tìm thấy giữa trận địa lại không đành lòng bỏ rơi đồng đội ở trận địa để theo toán giải cứu rút về nơi an toàn.
Đạt đến tầm vóc sử thi và thành công về thương mại, phim đạt rất nhiều giải thưởng điện ảnh uy tín, từ Golden Globe đến Oscar, BAFTA , Saturn, v.v. Được giới quân nhân ca ngợi là chân thực trong cách tái hiện chiến tranh, được giới phê bình tán thưởng cả về kỹ thuật dựng phim và nghệ thuật diễn đạt, mười sáu năm khi ra mắt, phim được Viện lưu trữ điện ảnh quốc gia và Thư viện Quốc hội chọn vào danh mục tác phẩm phải giữ gìn cho thế hệ mai sau vì những ý nghĩa “văn hóa, lịch sử và mỹ học”.
Cũng là một thứ “hùng ca giải cứu” nhưng Rambo thì ngược lại, hoàn toàn. Hình thành từ mặc cảm thua trận, nung nấu bởi ý chí trả thù trong ý nghĩa “ái quốc” kiểu dân túy, Rambo bị xem như là một thứ “orgy of violence”, một bữa tiệc buông thả của bạo lực khi người lính biệt kích vạm vỡ tung hoành trong đất thù giải cứu đồng đội. Rambo, theo giới phê bình, là sự kết hợp khập khiễng giữa bạo lực tột cùng và sự hời hợt không thể hời hợt thêm của nhân vật chính. Cái tên Rambo, thậm chí, còn được ví von với ý nghĩa miệt thị như năm 2006, ông Kevin Rudd – lúc đó là Phát ngôn viên ngoại giao của Đảng Lao Động và sau trở thành Thủ tướng Úc – đã gọi nguyên Thủ tướng John Howard của Đảng Tự Do là “một thứ Rambo chính trị” (political Rambo). Và đâu hai năm sau đó, nhân cuộc phiêu lưu thứ tư tại Miến Điện, Rambo còn bị một nhà phê bình ví von như một thứ “violence / murder porn” bởi, tương tự việc khêu gợi bản năng sinh lý của những sản phẩm khiêu dâm thì Rambo, bên cạnh chủ nghĩa ái quốc kiểu dân túy, lại “khêu gợi” bằng bạo lực, là bản năng nguyên thủy của con người như một thứ động vật săn mồi. [6]
Nhắc đến những điều như thế là bước sang khía cạnh chính trị nên, do đó, phải chú ý đến phản ứng cộng đồng, như một khối duy nhất. Một cá nhân đơn độc chỉ biết có nghệ thuật như Van Gogh mà khi cảm thấy bị bỏ rơi có thể bộc phát với một hành vi bạo liệt như thế thì, trong tâm thức tương tự, một cộng đồng sẽ phản ứng như thế nào?
Câu trả lời cũng chẳng hề xa lạ gì bởi vì đó chính là… lịch sử. Những cuộc cách mạng rực rỡ như những kiệt tác chính trị bất hủ. Những chiêu bài cách mạng kèm theo những xáo trộn thời cuộc với sự đổi ngôi của cán cân bất công: đen tối, đẫm máu, như một thảm họa nhân sinh nối dài. Những cuộc nổi loạn mang màu sắc vô chính phủ với một đám đông ô hợp, càng tạp nhạp thêm với những thành phần đá cá lăn dưa chầu chực cơ hội trộm cướp, hôi của. Những cuộc biểu tình ôn hòa nhưng cương quyết. Những cuộc chuyển giao chính quyền êm thắm dân chủ. Những giành giật quyền lực đầy máu của những nền dân chủ tập sự hay những nhà dân chủ thoái hoá. Vấn đề nằm ở trình độ, ở nhận thức của cộng đồng, và ở lý tưởng của những nhà cải cách. Vấn đề còn nằm ở mức độ láu cá và trâng tráo của giới đầu cơ chính trị, chăm chăm khai thác mặc cảm bị bỏ rơi và cả sự kém cõi trong nhận thức của cộng đồng. Cũng giống như hai tầng bậc khác nhau của Saving Private Ryan và Rambo, sự khác biệt nảy sinh từ xuất phát điểm của một hành trình cứu rỗi rất người hay là ý đồ phục hận như là bản năng nguyên thủy của loài thú săn mồi cộng thêm chủ nghĩa ái quốc dân túy.
Và đó chính là những gì đang diễn ra trên quê hương của Ryan và Rambo khi những công dân “bị bỏ rơi” vùng lên theo hiệu triệu của nhà dân túy xây dựng sự nghiệp chính trị bằng chia rẽ và hận thù. Họ cảm thấy bị bỏ rơi trước những chính sách di dân, đa văn hóa hay toàn cầu hóa. Họ cảm thấy bị bỏ rơi bởi những chính sách “cứu rỗi” môi trường. Và khi hung hăng tấn công vào Quốc hội Mỹ, họ đã hành động khác nào loài thú săn mồi? Nước Mỹ đang chia rẽ một cách sâu sắc và nếu diễn tả “Cộng đồng Mỹ” như một khối duy nhất thì, phải chăng, suốt một thập niên qua, cộng đồng này đang bộc lộ những triệu chứng bipolar disorder?
Và cả chúng ta, như một “Cộng đồng Việt”, cơ hồ cũng theo chân nhà dân túy Mỹ mà thể hiện dấu hiệu rối loạn này. Nhưng nếu người Mỹ bị cảm thấy bị bỏ rơi trước những đường lối mà họ cho là “thiên tả” thì chúng ta, như một nước nhỏ, lại cảm thấy “bị bỏ rơi” trước sự đe dọa của Trung Quốc, như một nước lớn. Nước lớn này chiếm đoạt lãnh thổ của chúng ta, đất, biển, và bản đồ. Nó cướp bóc chúng ta hệt như quân cướp biển. Nó lường gạt, nó chèn ép chúng ta triền miên, y hệt bọn gian thương. Nhưng ngoài mấy khẩu hiệu sáo mòn, ngoài câu phản đối máy móc như một cuộn băng ghi âm nhạt phèo, mở đi mở lại, hầu như chẳng có ai bảo vệ chúng ta. Trong tuyệt vọng, khá đông trong chúng ta lại phung phí niềm tin cho nhà dân túy mà, thực chất, cũng chỉ là một tên thực dân nước lớn. Y thực dân nước lớn khi hăm he nhìn lãnh thổ nước khác, thậm chí cả bản đồ nước khác, y như thú săn mồi. Y thực dân nước lớn khi ra mặ bao che quyền xâm lược của một nước lớn với một nước nhỏ, có hoàn cảnh y hệt chúng ta. [7]
Chính sự phung phí niềm tin với chủ nghĩa dân túy này là cội nguồn phổ biến nhất của những tai họa lịch sử, mà rõ nhất là Đệ nhị thế chiến với nhà dân túy Adolf Hitler. Và chúng ta, chúng ta có liên tiếp phung phí niềm tin như thế thì hôm nay mới có một đất nước như thế này. Việc cứu rỗi, do đó, phải là nhận diện những trò dân túy, cái trò khêu gợi tình cảm ái quốc bằng cách khai thác sự chia rẽ, sự thù hận cộng với sự ve vuốt bằng sự phô trương hào nhoáng và “hoành tráng” bên ngoài cùng lợi ích nhất thời, hoàn toàn kém bền vững.
Ở trên tôi đã nhắc đến “Đại lễ ngàn năm” và hiện tại đất nước thì đang rầm rộ với “Đại lễ 50 năm”. Đó là thứ “lễ” mà càng rầm rộ bao nhiêu, càng khơi sâu cách biệt bấy nhiêu, càng làm mục tiêu cứu rỗi như là sự hòa giải trở nên xa vời bấy nhiêu mà, trước mắt, đã “nhãn tiền” với tổn thất ngoại giao và, thậm chí, cả tổn thất về lãnh thổ, từ tay nước lớn. [8]
Trong hố sâu cách biệt đó có cả những tranh cãi râm ran quanh Địa đạo và, chợt, tôi nghiệm ra với kiến thức hạn chế của mình rằng, dường như, để tài chiến tranh của Điện ảnh Việt Nam hầu như chẳng có chỗ đứng nào cho người bị bỏ rơi và hướng đến vấn đề cứu rỗi. Trừ một vài ngoại lệ hiếm hoi và khá là nhẹ nhàng như Bao giờ cho đến tháng Mười hay Cô gái trên sông của Đạo diễn Đặng Nhật Minh, hình như nền điện ảnh ấy chẳng chú ý gì mấy đến hoàn cảnh bi đát của người bị bỏ lại phía sau, ở trận địa hay ở hậu phương, đến người thất trận, ở Hoàng Sa hay ở Gạc Ma. Nó chỉ chăm chăm với chiến thắng, đến khí thế hừng hực “cầm gươm, ôm súng, xông tới…” mà, mới nhất là Địa đạo, với cảnh xông lên, từ lòng đất… [9]
Đã nửa thế kỷ rồi mà vẫn thế, xem ra con đường cứu rỗi hay chữa lành của chúng ta vẫn còn xa xôi lắm, trắc trở lắm…
Tham khảo:
1. Có thể xem documentary này tại:
https://www.sbs.com.au/ondemand/tv-series/van-gogh-the-real-story
2. Một số tài liệu cho rằng thời gian này kéo dài suốt 11 tiếng đồng hồ: tiếng súng phát ra lúc 10 giờ trưa và đến 9 giờ tối mới lê bước về đến khách sạn. Cũng có giả thuyết cho rằng Van Gogh bị giết, thí dụ: “Van Gogh did not kill himself, authors claim”.
https://www.bbc.com/news/entertainment-arts-15328583BBC
3. “You can be creative only when there is abandonment-which means, really, there is no sense of compulsion, no fear of not being, of not gaining, of not arriving.
4. https://www.talawas.org/26492/
5. “I mentioned on Twitter how 41 years ago the world watched men walk on the moon,” said Connie Preti of New York. “Today we are seeing men come out from the earth. It’s equally striking.”
https://edition.cnn.com/2015/10/12/world/everyone-out-of-the-mine-in-chile/index.html
6. Internet không còn lưu giữ những thông tin này, tôi ghi lại theo trí nhớ.
8. https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cvgn3n0pyxeo
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c4g284dge72o
https://t-van.net/truong-thanh-thuan-tu-huyen-thoai-dia-dao-cu-chi-den-huyen-thoai-truyen-thong/