“Bà Hoàng” Nhóc (2)

Mai An Nguyễn Anh Tuấn

(Tập Nhật ký – Tùy bút dành cho con gái)

Ngày…

Có những “chân dung thời hiện đại” con cần ghi khắc vào lòng như một thứ thước đo Giá Trị “Phi Nhân”: “NHỮNG KẺ BA TRỢN”.

“Kẻ ba trợn” là khái niệm mới được thốt ra từ miệng người khoác áo tu hành đạo Phật luôn đe dọa người khác về Khẩu Nghiệp nhưng tự cho mình có quyền phạm vào Khẩu Nghiệp này, bất chấp sự thật đời sống, công lý thế gian, luật pháp hiện hành để dọa dẫm và mua chuộc Phật tử nhằm trục lợi cá nhân ích kỷ! Chính họ đã trở thành “Kẻ ba trợn” chính hiệu mà không cái vỏ học vị, chức sắc nào che đậy nổi bản chất Tham – Sân – Si của họ hàng ngày bày ra trước thanh thiên bạch nhật, tựa một Ngạ quỷ trong sách Lương Hoàng Sám miêu tả: thân hình xấu ác, miệng có sâu bọ máu mủ hôi thối, thân bị lửa đốt… Nhưng mong rằng họ biết sám hối như Ngạ quỷ này trước Mãn Túc La Hán: “Thà cầm dao bén tự cắt lưỡi mình, kiếp này sang kiếp khác, cam tâm chịu khổ, không nên nói một lời phỉ báng việc lành của người. Nguyện xin ngài trở về dương thế, đem hình trạng xấu ác của tôi răn dạy các thầy Tỷ kheo và các Phật tử, khéo giữ gìn lỗ miệng, chớ buông lời nói ác…”

Mấy “Kẻ ba trợn” trong giới Tăng- Ni – Phật tử đang làm ô uế Phật đường và hủy hoại Đạo pháp thiêng liêng của Dân tộc, các vị hãy đọc kinh Lương Hoàng Sám ngay đi, kẻo đã muộn lắm rồi!

Ngày…

Sau cuộc Tọa đàm Khoa học “Trưởng lão Thích Thông Lạc – Cuộc đời và đạo nghiệp” do Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Tôn giáo tổ chức vào ngày 8/5/2022 (mà bố cũng có tham luận: “Một sự tiếp nối quý giá truyền thống Phật giáo tích cực ở Việt Nam”), Ban Giới – Định – Tuệ của Trung tâm được sự chấp thuận của Giám đốc Trung tâm là nhà nghiên cứu Phật học Trần Khánh Dư, đã mời bố làm phim chân dung về Trưởng lão… Một trong những hình ảnh tư liệu quan trọng cho bộ phim tài liệu khá quy mô này là dịp về thắp hương tưởng niệm 10 năm Trưởng lão viên tịch và trao tặng sách mới ấn tống của Trưởng lão cho Phật tử tại chùa Hương Hải Thiền, xã Lệ Chi, Huyện Đông Anh Hà Nội. Ngôi chùa này được chính Trưởng lão đứng ra hưng công chỉ đạo xây dựng – với các Thất, các bia kinh, tượng Phật… theo đúng hình mẫu của Chùa Am tại Trảng Bàng, Tây Ninh…

Bên một bức tượng Phật, bố được nghe một vị cư sĩ từng tu tập tại chùa Hương Hải Thiền kể cho nghe nhiều câu chuyện cảm động về Trưởng lão, nhất là những chuyện có liên quan đến hai vị đệ tử mới đây liên quan đến Ngạ quỷ làm dậy sóng dư luận mà Linh giác kỳ lạ của cụ đã báo trước những điều đến giờ nghiệm ra sẽ thấy nổi gai ốc… Sau đó bố đã tìm đọc lại những câu chuyện về Ngạ quỷ này nằm trong tập II Kinh Tiểu Bộ, ở bộ sách đồ sộ Đại Tạng Kinh Việt Nam Nam truyền  Nikāya gồm 13 cuốn do một Hội đồng phiên dịch đảm nhiệm nội dung từ tiếng Pāli gồm Chủ tịch là Hòa thượng Thích Minh Châu và Tổng thư ký là Thượng tọa Thích Trí Siêu (TS Lê Mạnh Thát). Bố đã viết thành truyện:

LINH GIÁC CỦA BẬC TRƯỞNG LÃO NƠI CHÙA QUÊ VỀ MỘT ĐỆ TỬ SẼ CÓ MÕM LỢN RỪNG. https://vietvanmoi.fr/index3.10360.html

Ngày…

Là một người làm nghề liên quan đến Diễn Xuất, bố không thể cam tâm đứng nhìn những kẻ đang “Múa rìu qua mắt thợ” một cách thô thiển thậm chí thô bỉ như thế này, đành buộc phải viết: CHÂN THÀNH GÓP Ý VỚI NHỮNG “NGHỆ SĨ CHÙA BA VÀNG”!

Mấy ngày qua, trên mạng xã hội chỗ nào cũng tràn ngập những “cảnh diễn” sinh động của những người tôi mạnh dạn nói rằng “Nghệ sĩ Chùa Ba vàng” – họ thuyết giảng và thực hành làm mẫu về tu hạnh Đầu đà, về gọi vong và trục vong, cùng nhiều “tích trò” khác lấy Phật giáo và đời sống tâm – sinh lý người ta làm đề tài…

Các “diễn viên” đàn bà đàn ông, người lớn và trẻ em trong các màn/ lớp diễn đó, kể cả “tác giả” và “đạo diễn” vào vai chính như đều được “nhập vai thăng thiên hồn hóa” đến độ “mê hoặc” toàn phần những khán giả là các Phật tử u mê trước các cảnh diễn, trên các “sân khấu” mà họ tạo ra bằng tiền cúng dường của khán giả…

Có điều, trong thời đại kinh tế trí thức, khi văn hóa truyền thống cũng đã được hiện đại hóa và trí thức hóa khá nhiều, lại đầy rẫy thông tin đại chúng từ sự thật đời sống lẫn thông tin chuyên biệt mang tính khoa học đáng tin cậy, nên tất cả những cảnh diễn kiểu này lại chỉ tạo ra phản ứng ngược, gây phản cảm và bức bối: Phần đông người có lương tri tỉnh táo đều nhận ra đó chỉ là những trò diễn bịp bợm, và hóa ra bao công phu tập dượt trình diễn của các “nghệ sĩ bất đắc dĩ” đó trở thành trò cười cho thiên hạ!

Vì vậy, rất ái ngại, T. cận tui xin tham góp cho các “nghệ sĩ” nói trên, biết đâu họ sẽ tạo nên được một hiện tượng “sân khấu đại chúng” có khả năng đi vào lịch sử sân khấu nước nhà:

Trước khi trưng ra gương mặt từ bi trầm buồn xuất hiện trên sân chùa, trên Phật đường hay trong bối cảnh rừng suối lúc ôm bình bát vàng khất thực, hay nói điều gì đó để “thôi miên” cô bé diễn viên “chim mồi” thì diễn viên chính hãy học cách “xưng danh” trong sân khấu truyền thống: “Ta đây chính là… Ta sắp kể lại điều hệ trọng này đây…”

Thực ra điều đó chẳng xa lạ gì với phương pháp nghệ thuật gián cách (lạ hóa) của nhà viết kịch lớn người Đức Bertolt Brecht: Diễn viên không được tự coi mình là hiện thân của nhân vật mà chỉ là người kể lại những hành vi của một người khác, khiến khán giả không còn ảo tưởng sân khấu giống cuộc đời thực nữa, buộc khán giả phải thắc mắc, ngạc nhiên, tự vấn về những điều đang/ sẽxảy ra trên sân khấu, nghĩa là họ buộc phải luôn tỉnh táo để suy ngẫm, và  tác giả mời gọi khán giả tìm giải pháp cho vấn đề cảnh / vở diễn đặt ra (Mời các “nghệ sĩ” trên xem lại vở kịch Vòng phấn Côcadơ và những bài viết về vở kịch/ vở diễn này).

Cam đoan rằng, khi các “diễn viên chùa Ba vàng” (và một số chùa khác đang rắp tâm học tập theo) thực hiện được đôi điều chỉ dẫn trên từ sân khấu cổ truyền và sân khấu hiện đại, các “Trò diễn”, “Tích diễn” của họ sẽ không bị coi là những “Trò hề” thô thiển lố bịch nữa, ngược lại sẽ được hoan nghênh nhiệt liệt!

Ngày…

Những ngày các vị Giả Sư xuất hiện lộng lẫy như các ông Hoàng thời xưa kêu gào “Cúng Dường” và lảm nhảm thuyết giảng đạo lý, lại vào dịp sư TMT về với các Phật tử nghèo ở Gia Lai, bố nhớ lại một chuyện buồn cũ ngót mười năm trước nên viết bài: PHẬT TỬ NGHÈO.

Hắn không có bất cứ quan hệ nào với những Phật tử giàu có vẫn chăm chỉ nhiệt thành cúng dường vật phẩm tiền tài khủng vào các chùa to vật vã, mà chỉ quan hệ với các Phật tử nghèo ở địa phương, tìm hiểu đời sống của họ dành cho những bộ phim hắn đang ấp ủ mà có liên quan đến chùa chiền, “sãi – vãi”…

Mấy tuần qua, hắn đã thấy hàng trăm, hàng ngàn những Phật tử nghèo như vậy tràn ra đường nghênh đón, quét dọn, dâng đồ chay cúng dường cho vị Khất sĩ – người chỉ nhận đủ cho bữa trưa đạm bạc theo một hạnh Đầu đà quy định…

Còn gần 10 năm trước, trong một lần công tác tại một tỉnh miền núi phía Bắc, hắn được biết về nỗi đau lòng của những Phật tử nghèo xứ “chó ăn đá gà ăn sỏi” và thường nhận gạo cứu đói của Trung ương… Chuyện này gắn với một vị sư hổ mang, tuy chỉ là Đại đức nhưng quyền lực thần quyền có thể ngang với các vị Hòa thượng nơi khác… Mấy tháng ròng, hắn đã lao vào cuộc giúp đỡ các Phật tử nghèo ấy, không phải với tư cách nhà báo hay người của Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Tôn giáo, và bất chấp những nguy hiểm rình rập, chỉ vì thương các bà vãi nghèo tội nghiệp…

Câu chuyện như sau: Một bà vãi mang một mớ đơn từ kiện cáo, khiếu nại của những tín đồ Phật tử nơi ấy tới rất nhiều cơ quan Nhà nước, tổ chức phi chính phủ ở Thủ đô. Bởi chẳng ai thèm quan tâm tới chúng, nhất là khi những người có trách nhiệm và quyền hạn đã bị bội thực bởi những kiện cáo khiếu nại quanh chuyện đất đai, thì chúng mới may mắn, đúng hơn là tình cờ lọt vào tay hắn. Và qua một Phật tử quen người Hà Nội, hắn đã tìm được bà ta trong một quán cơm chay bình dân hiếm hoi đất Hà thành.

Sự thật kinh khủng trong những lá đơn viết tay nghệch ngoạc khiến hắn sởn cả gai ốc. Sự thật và lòng phẫn nộ, khinh bỉ, căm ghét của nhiều Phật tử nghèo đối với một vị Đại đức có chân trong hội đồng trị sự Gia1o hội Phật giáo tỉnh này. Một sư hổ mang, một tăng chúng vi phạm hầu hết các giới luật của người tu hành đạo Phật ở cái mức thậm tệ và trơ tráo, vượt khỏi mọi sự hình dung thông thường. Và ông ta đã dùng mọi thủ đoạn hèn hạ nhất nhằm ngăn chặn, triệt đường tất cả những vị sư nào định lên lãnh địa đó trụ trì mà không thần phục, không cung phụng ông ta. Mọi lá đơn kiện đều bị vô hiệu hoá ở một xứ sở có điều kiện hơn bất kỳ nơi nào khác cho luật rừng tác yêu tác quái… Trong đời làm phim làm báo, hắn chưa bao giờ nắm được trong tay nhiều chứng cứ chân thật và sinh động đến thế! Hắn chợt run lên, không phải vì bản năng nghề nghiệp được đánh thức, mà vì một sự kinh ngạc dần dần bị nỗi căm giận chiếm chỗ.

Con đọc câu chuyện này trong truyện ngắn của bố: CHÙA, BIỆT PHỦ VÀ TÌNH BẠN đã đăng tải trên https://vietvanmoi.fr/index3.9744.html và https://hopluu.net/a3247/chua-biet-phu-va-tinh-ban

Ngày…

Hôm nay, trên mạng xã hội tràn ngập tiếng cười của một ni sư khiến bố buộc lòng viết: TIẾNG CƯỜI CHẾ RIỄU CÚNG DƯỜNG KHIẾN LÒNG NGƯỜI TAN NÁT…

Bố đã quá ngao ngán và chẳng muốn nói gì thêm nữa về mấy vị chức sắc khá cao trong Giáo hội, đương quản lý các ngôi chùa lộng lẫy tựa cung điện, thậm chí có cả bằng tiến sĩ (Luật học, Phật học…) nhưng lại phát ngôn diễn thuyết hầu như ngược lại Phật pháp kinh điển, xa lạ với thuần phong mỹ tục dân tộc, luân lý đạo đức xã hội, đang mê hoặc bao Phật tử (và con cháu họ) tuy lắm tiền nhiều của song sự ngu muội đã tới độ vô minh đáng bị ném vào vạc dầu của Thập điện Diêm phủ cùng với các vị sư phụ tham lam thâm hiểm của họ!…

Nhưng khi thấy một vị ni cô trẻ trung, tròn trĩnh, tươi rói như mới gặp hơi trai hăng hái giảng về cúng dường và chế diễu những Phật tử nghèo một cách vừa vui vẻ vừa cay độc như sau: “Đem đến chùa cúng dường có một nải chuối, mà xin quá trời lun. Há há há há…”, thì bố không thể chịu nổi được nữa!

Rõ là “Thầy nào trò nấy”! Chắc chắn là ni cô này đã sống quá lâu trong “môi trường sinh thái” nhiễm độc nặng của các khu kinh doanh tôn giáo khủng, nơi mượn tượng Phật mượn Kinh Phật và hình dáng chùa ngoại lai để thường xuyên truyền bá mê tín dị đoan, bày mọi thủ đoạn từ tinh vi nhất cho tới thô bỉ nhất nhằm móc túi Phật tử giàu có dưới chiêu bài “Cúng dường”!

Ni cô này thực đáng thương, vì từ khi “ăn mày cửa Phật” tới nay, chắc chưa lần nào được nghe được học nghiêm chỉnh về những bài học cho thấy bản chất Từ Bi cứu khổ thực sự của đạo Phật là gì, chưa hề được biết Tâm Từ Bi Là Cội nguồn của Hạnh Phúc như lời Phật dạy, gieo Tâm Từ Bi đời gặt Phúc Đức chứ không phải là cúng dường càng to Phúc Đức càng dày…

Bố đã kể cho ni cô một câu chuyện Cúng dường xảy ra tại quê hương Đức Phật mà thi hào Ấn Độ R. Tagore viết lại, biết đâu ni cô sẽ thấy xấu hổ vì lời chế diễu của cô, và biết đâu cũng thấy ngượng thay cho điều lý giải đầy thực dụng của sư phụ cô về chuyện “cúng dường nải chuối” của cô:

Sớm tinh sương, một vị khất sĩ đi trên đường phố sang trọng và rao: “Ai có gì quý báu nhất, hãy đem dâng lên Đức Phật”. Biết bao của cải châu báu bày ra, song vị khất sĩ cứ bước qua tất cả, rồi ông tới khu phố bình dân, và cũng rao như thế. Lại nhiều đồ đạc rải bên chân vị khất sĩ. Ông bước vào khu phố nghèo và lại rao lên… Một người đàn bà bước khỏi cánh cửa tồi tàn, gọi to: “Thưa ngài, xin ngài hãy đợi chút ạ”. Vị khất sĩ đứng im chờ đợi. Lát sau, có một bọc vo tròn ném ra từ sau cửa tới, cùng lời cầu xin nghẹn ngào của người đàn bà: “Thưa ngài! Tôi chỉ còn có độc nhất thứ này thôi… Mong Đức Phật thương tình”. Vị khất sĩ cầm vật đó lên: tấm váy chằng đụp của người đàn bà. Ông ta rưng rưng nói: “Thưa mẹ, đây quả là thứ quý báu nhất của mẹ dâng lên Đức Phật”…

Thưa các vị tăng – ni đáng kính của Đại Việt xưa – Việt Nam nay!

Người dân Việt ta vốn sùng Đạo Phật, và hiện cũng không ít người nghèo không kém người đàn bà Ấn Độ kia. Họ muốn dâng lên Đức Phật linh thiêng nhân từ niềm tin yêu sâu sắc của họ, cùng lời cầu mong được Bình An, Hạnh Phúc… Nhưng trừ đôi ba kẻ giàu có bằng cách trấn lột của Dân và Tài nguyên quốc gia đã/ đang cúng dường hậu hĩ cho các ngài, thì phần đông chỉ lo được hai bữa ăn xoàng hàng ngày và lo học cho con cũng đã bạc cả tóc rồi, nên có lẽ cái thiêng liêng cao cả nhất của họ dâng lên Đức Phật chỉ là tấm lòng thơm thảo…

Vậy đó ni cô đáng thương! Nải chuối vườn nhà, củ khoai trên nương rẫy, tấm váy đụp trong chòi rách… – những đồ cúng dường đó không nghèo nàn tầm thường chút nào ở một trái tim nhân hậu đang hướng Thiện, hướng về Chân lý Phật! Nếu như cô không kịp tỉnh ngộ trước những thủ đoạn kêu gọi cúng dường, nỡ vơ vét cả chút mồ hôi nước mắt từ người bán vé số tàn tật của các sư phụ cô – những người đang bị thiên hạ nguyền rủa, thì Điạ ngục đang chờ cô cùng sư phụ cô nhỡn tiền đó!

Ngày…

Bố đang ngắm nhìn cái chòi cũ nay là ngôi chùa đơn sơ của tu sĩ TMT ở Gia Lai qua mạng xã hội, thì con gọi điện bảo: “Con bỗng nhớ đến ngôi chùa Từ Tôn mà mười năm trước ông Quách Giao đưa bố con mình tới thăm…” .

Bố giật mình, như có sự giao cảm kỳ lạ – không chỉ của hai bố con mà của tất cả những ai đang quan tâm đến số phận tu tập của ông TMT… Và bố chợt nghĩ tới sự hình thành của những ngôi chùa Việt xưa nay…

Nhưng trước hết hãy trở lại chùa Từ Tôn con mới nhắc. Chùa này nằm trên Hòn Đỏ, cận kề danh thắng Hòn Chồng – chỉ cách đất liền khoảng 300m – không chỉ là nơi sinh hoạt của các Phật tử mà còn là điểm du lịch tâm linh thiêng liêng và yên bình bậc nhất tại thành phố biển Nha Trang.

Sở dĩ đảo có tên gọi là Hòn Đỏ là bắt nguồn từ hiện tượng tự nhiên của những khối đá tại đây, khi ánh nắng mặt trời chiếu rọi xuống những phiến đá trên đảo ánh lên sắc đỏ. Nhiều ngư dân cũng thường neo đậu ghe tàu ở đây khi đánh bắt. Khi có sự xuất hiện của chùa, nơi đây mới bắt đầu có sinh khí và tươi đẹp dần lên.

Ông Quách Giao đã kể cho bố con ta nghe về lai lịch nhiều ngôi chùa ở Khánh Hòa, mà theo nhà thơ Quách Tấn trong cuốn Xứ Trầm hương thì Khánh Hòa là tỉnh có nhiều chùa hơn tất cả các tỉnh miền Nam Trung Việt, và các Tổ khai sơn đều là người Việt…

Nhưng sự hình thành ngôi chùa nhỏ Từ Tôn trên Hòn Đỏ vốn là nơi hoang vu giữa biển khơi, chỉ có đá tảng và cỏ gai, được mệnh danh là “đảo chết”, với công phu thấm mồ hôi nước mắt của nhà sư Thích Viên Mãn đã khiến nhiều người cảm động hơn cả. Và nhà nghiên cứu Quách Giao đã kế tục sự nghiệp tôn vinh “Xứ Trầm hương” của cha mình bằng nhiều công trình văn hóa – nổi bật là cuốn Người gánh nắng, trong đó tái hiện toàn bộ ý chí, khát vọng cao đẹp của một nhà sư đã tạo nên một  danh lam thắng cảnh giữa trời biển thẳm xanh, trên cõi đời bát ngát này…

Nhưng những danh lam thắng cảnh đó, khởi đầu bao giờ cũng chỉ là hoang sơ, cỏ dại, với Tâm Phật hướng thiện cao cả – giống như ngôi chùa nhỏ hôm nay ở Gia Lai khiến bao người xúc động…

Lúc đó, khi lần đầu thăm chùa Từ Tôn, con đã tập làm Phật tử nhí bằng cách chắp tay lạy Phật trong chùa mà bố chụp trộm được khá nhiều ảnh, lát nữa lục lại kho tư liệu sẽ gửi con hết…

Ngày…

Tràn ngập mạng xã hội hôm nay hình ảnh ông TTTM hoan hỉ phát quà cho đại biểu và Phật tử, song nhẫn tâm giơ tay gạt bỏ một đứa bé đang kính cẩn đến với ông ta, và bố đã viết: TỪ BI HỶ XẢ BIẾN ĐÂU MẤT RỒI?!

Trong một clip, tu sĩ Minh Tuệ có bảo rằng: ông đã tụng trì các Kinh Trung BộKinh Kim cangKinh Pháp cú… bố đã có dịp nói sơ qua về Kinh Kim cang.

Còn trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada) Ðức Phật khuyên dạy tu sĩ-Phật tử hãy chăm tu tập “bốn món tâm rộng lớn không lường được”, còn gọi là “Tứ Vô Lượng Tâm”. Từ đó trở thành phương châm tu tập căn bản của tu sĩ Phật Giáo, là “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Vì vậy, Đạo Phật thường được gọi là đạo từ bi, đạo cứu khổ. Ở đâu có Đạo Phật, ở đó có tình thương. Người Phật tử có tâm từ bi được coi là tâm Phật. Tâm “Từ” là khả năng hiến tặng niềm vui cho người khác. Tâm “Bi” là khả năng làm vơi đi nỗi khổ. Tâm “Hỷ” là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm “Xả” là thư thái nhẹ nhàng, không kỳ thị. Bốn thứ “Tâm” rộng lớn trên là “Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả” của đức Phật và các vị Bồ tát, thấm tới mọi chúng sinh – Phật tử, vì thế đạo Phật mới có sức trường tồn qua hàng ngàn năm…

Triết lý và đạo hạnh “Từ, Bi, Hỷ, Xả” đã thấm vào hồn dân tộc ta trong bao câu ca dao tục ngữ rung động: “Dẫu xây chín bậc Phù đồ/ Không bằng làm phúc cứu cho một người” – “Người ta là Hoa đất” – “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”… Lòng Từ bi đó đã đi sâu vào đời sống tự cổ xưa cho tới hôm nay, như một thước đo của nhân phẩm…

Chỉ xin kể một chuyện nhỏ: tôi đã yêu quý ông giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản văn hóa Tôn giáo Trần Khánh Dư, và nhiệt tình tham gia với Trung tâm này, chưa phải vì kiến thức Phật học của ông ấy mà là vì điều này: ông ấy đã trăn trở tìm cách tặng người trông xe nghèo một chiếc kính lão mới ra sao để ông ta không thấy bị hàm ơn, không đánh mất lòng tự trọng… Bố nhiều năm nay tìm “thủ lĩnh” sản xuất phim cũng từ cái góc đánh giá cảm nhận như vậy, cái gốc phải là Tình thương, có thế mới hiểu được và đủ tư cách để tôn vinh xứng đáng những nhân vật trong phim của tôi – như Thiền sư Thánh y Tuệ Tĩnh, người hằng tâm niệm: “Thương nhân dân chết chóc/ Chọn hiền triết phương thang”…

Xã hội ta, đang cố vượt lên bao hỗn độn để tồn tại và phát triển, cũng chỉ là để bảo lưu gìn giữ sức mạnh Tình thương – cái gốc của “Từ, Bi, Hỷ, Xả”… Thế nhưng, qua rất nhiều hình ảnh và lời phát ngôn của các vị tu hành có “máu mặt” vừa rồi, “Từ, Bi, Hỷ, Xả” cần có, vốn có của đạo Phật dường đã bay biến đâu hết, còn lại trần trụi là sự trục lợi trắng trợn, đã chà đạp lên không chỉ giới luật kinh điển mà cả Tình thương giữa con người với con người…

Nhiều bài viết, nhiều hình ảnh vừa qua được cộng đồng mạng sưu tầm đã phơi bày tận đáy bản chất của những kẻ giả tu hành, mượn áo Phật để ngang nhiên phỉ báng bản chất Từ Bi thiêng liêng của Đạo Phật! Tôi chỉ đưa lên một hình ảnh cắt từ một clip miêu tả ô TTTM hoan hỉ phát quà cho đại biểu và Phật tử, song nhẫn tâm giơ tay gạt bỏ một đứa bé đang mong chờ hưởng lộc Phật bước tới ông với tâm thế thành khẩn nhưng chỉ nhận được sự hắt hủi phũ phàng của ông “Phật tái thế” – chỉ vì em không phải là đối tượng cúng dường!

Từ Bi đâu mất rồi? Tôi đã phải chảy nước mắt thương đứa bé và thương cho Đạo Phật Việt vào cái thời mà “Từ, Bi, Hỷ, Xả” chỉ còn là câu kinh đầu lưỡi của những kẻ đang sống trong nhung lụa và trơ tráo “vét máu mỡ của dân” – như một danh sĩ xưa kia nói về hiện trạng Phật giáo suy đồi… Tôi sẽ cho các con gái tôi xem những hình ảnh xót xa và nhục nhã này!

Ngày…

Chẳng bao lâu nữa con sẽ làm Luận án Tốt nghiệp, và biết đâu có hứng thú học lên làm Luận án Tiến sĩ, vì thế con nên tham khảo bài này của bố: THEO CHÂN MỘT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO

Tuần qua, trước những thông tin tràn ngập về một Luận án TS. khoa học xã hội của một nhà tu hành có “máu mặt” được thực hiện như là đi dự tiệc ăn cỗ, T. cận tôi bỗng nhớ đến một Luận án TS. triết học của người bạn quý mà tôi có dịp được quan tâm, và có đóng góp tý chút cho công trình của bạn…

Bạn tôi bảo vệ TS. khi vào tuổi 60, sau nhiều năm vốn là người “ngoại đạo” Phật giáo dám “liều mình như chẳng có” vào một lĩnh vực cao siêu mà tôi, kẻ cũng chịu đọc chịu học Phật vài chục năm mới chỉ liếc mắt qua cũng thấy suýt ngất: “Nhận thức luận trong Thiền Phật giáo” (Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2023). Bản Danh mục Tài liệu tham khảo cả tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Trung lên tới 247 mục (chủ yếu là sách báo có xuất xứ nhà XB, năm xuất bản, số trang trích dẫn; riêng tiếng Anh là ngót 200 tài liệu!).

Nhưng tôi chỉ thật sự được “tâm phục khẩu phục” sau một ngày tham dự cuộc Bảo vệ, được nghe những lời Phản biện chặt chẽ của các GS. và lời Bảo vệ căng thẳng của TS. tương lai… Tôi được vỡ ra rất nhiều điều thế nào là Bảo vệ luận án TS, được thêm nhiều kiến thức Phật học quý từ người đã “đọc hộ”, “khảo cứu hộ” cho mình. Và quan trọng hơn cả là: ngày hôm nay càng nhận thấy mồ hôi nước mắt và máu não thật sự của bạn qua Luận án, càng ngộ ra sự hời hợt, vô bổ, nhảm nhí của cái Luận án TS. kia cùng sự ngớ ngẩn và thảm hại của hệ thống đào tạo và công nhận học vị TS cao qúy tại Trường Đại học nọ!

Chưa kịp hỏi nên chưa được sự đồng ý của bạn, nên tôi chỉ mới nói tên Luận án mà chưa dám trình tên bạn ra. Đó là một nhà báo kỳ cựu của báo Tiền Phong, từng nhiều năm hoạt động báo chí trong lĩnh vực môi trường – qua tổ chức Diễn đàn các Nhà báo Môi trường Việt Nam – VFEJ – tổ chức phi chính phủ của các nhà báo Việt Nam, lấy hoạt động báo chí bảo vệ thiên nhiên, môi trường, vì sự phát triển bền vững làm sự nghiệp của mình.

Mười năm trước, anh có mời tôi tham dự một Hội thảo quan trọng về Môi trường tại Nha Trang liên kết với Thái Lan, có tên “Hiệu ứng cánh bướm Nha Trang”, và làm phim về Hội thảo này. Trước đó, với tư cách người phụ trách Diễn đàn VFEJ, anh có đề nghị tôi và một nhà báo khác trèo lên đỉnh cao nhất của Tam Đảo nhằm cung cấp những tư liệu thực tế để góp phần phản biện công trình: “Xác định cơ sở khoa học để đánh giá tác động môi trường phục vụ dự án xây dựng khu du lịch sinh thái bền vững Tam Đảo 2” của trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) và Ban Qản lý Dự án Tam Đảo 2 được làm theo “hợp đồng có định hướng” của UBND tỉnh Vĩnh Phúc – mà trên cơ sở đó, tỉnh sẽ triển khai các bước tiếp theo nhằm thu hút 380 triệu USD cho một dự án xây dựng khu vui chơi giải trí cao cấp – gồm khách sạn, sòng bạc, sân golf, chuồng ngựa… ngay trong vùng lõi của một Vườn Quốc gia nổi tiếng – tức là phá nát “lá phổi” miền Bắc! Khi rừng TAM ĐẢO bị phá nát, tôi đã chia sẻ với “Tam Đảo mù sương” viết bằng máu mắt của nhà văn Thái Kế Toại (“Cuối cùng, cuộc đấu tranh bảo vệ Tam Đảo đã thất bại. Thế lực đồng tiền tàn bạo đã thắng thế. Tỉnh Vĩnh Phúc, được sự hỗ trợ của một thế lực trong chính phủ vẫn bất chấp tất cả, duyệt phá lõi rừng nguyên sinh xây Tam Đảo 2”) bằng lời kêu cứu mấy năm trước của tôi lúc lên đỉnh Tam Đảo theo yêu cầu của anh phụ trách Diễn đàn VFEJ:  https://vanviet.info/van/thin-duong-hay-dia-nguc/

Trong cả hai lần cộng tác với TS. tương lai này và VFEJ, tôi nhận thấy anh là người ham mê tri thức cuồng nhiệt – trong đó có tri thức về Phật giáo, mong đem kiến thức khoa học vào sự nghiệp Môi trường của Diễn đàn các Nhà báo Môi trường Việt Nam. Anh đã có lần nói đến mơ ước của anh đi sâu vào Triết học Phật giáo, đặng có thể ứng dụng những điều thâm sâu của đạo Phật vào cuộc sống – đặc biệt là vấn đề Môi trường nóng bỏng hiện giờ…

Suốt 10 năm sau đó, anh chuyển giao Diễn đàn VFEJ cho người khác, ẩn dật và “hành hương” vào thế giới Phật học mênh mông, uẩn súc, để có được một luận án TS. triết học mà hầu hết các vị Giáo sư của Hội đồng phản biện cũng phải kính nể!

Thêm một lần được chúc mừng anh. Và thêm đau buồn cho nền giáo dục Việt ở vài cơ sở giáo dục Đại học!

Ngày…

Con gái à, có một nữ nhân có vẻ ngoài thoạt trông khiến người ta liên tưởng đến một “Tú bà” thời hiện đại vừa mới tự nhận là đại diện cho giới “truyền thông sạch” để to tiếng mạt sát những gì bênh vực sư Minh Tuệ và dám động chạm đến “sư phụ TCQ” của thị là “truyền thông bẩn”, bố buộc phải viết: TRÁI TIM CHỨA NỌC ĐỘC NGẬM MÁU PHUN NGƯỜI. Khi thị hùng hồn công khai liệt kê ra tên bộ phim (“Nồi cơm điện”) cùng nội dung và thành phần thực hiện bộ phim này (xem trên bảng générique kèm theo) thì khán giả đông đảo càng có dịp hiểu thêm về động cơ cũng như bản chất thực của thị, chắc không thua kém vợ tên gian thần Tần Cối xưa kia mà Đại thi hào Nguyễn Du đã vạch ra: “Suốt đời trái tim chết của nó chứa đầy nọc độc. Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan kỳ lạ” (“Nhất thể tử tâm hoài đại độc, Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan”).

Còn những người đang bị thị to mồm vu oan cho là “làm truyền thông bẩn” xin được cung cấp thêm cho thị vài tư liệu quan trọng của bộ phim do thị nghĩ ra nhưng chắc thị bỏ quên (hoặc cố tình quên) những gì có liên quan đến sư phụ “Thích Cúng Dường” của thị đang khiến cả xã hội sửng sốt, khinh bỉ, miệt thị, nhổ nước bọt – y như ngàn năm qua thiên hạ đã nhổ nước bọt vào đôi tượng sắt quỳ vợ chồng Tần Cối ở Giang Nam – Trung Quốc…

Xin được cung cấp cho những người tò mò về vợ chồng Tần Cối bằng tiểu luận: NHỮNG TƯỢNG MỘ Ô NHỤC- https://vanviet.info/…/nhung-tuong-mo-nhuc-tho-chu-hn…/ (Sẽ in trong sách NGUYỄN DU- HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT)

Ngày…

Mấy ngày qua, bên cạnh hình ảnh Hành giả Minh Tuệ, thì hình ảnh trung hậu cùng những lời nói ấm áp chân tình giàu lòng trắc ẩn của vị chân tu Thích Minh Đạo cũng đã khiến hàng triệu người rung động, và thêm tin ở sự “hoàn nguyên” của đạo Phật Việt sau bao sóng gió bất ổn… Cám ơn sư thầy Thích Minh Đạo!

Ngày…

Giữa lúc có một băn khoăn nảy sinh trong tâm lý xã hội: Vì sao có hiện tượng Hành giả Minh Tuệ, bố đã viết: VỀ BỐI CẢNH XÃ HỘI XUẤT HIỆN HÀNH GIẢ MINH TUỆ

Mấy năm qua, xã hội ta dường đã bắt đầu tràn ngập sự suy đồi của sinh hoạt Phật giáo, bao người phải đau xót kinh hoàng trước sự tàn phá thiên nhiên để xây dựng những khu Du lịch Tâm linh trá hình nhằm lợi dụng Tôn giáo để kinh doanh một cách trắng trợn; không ít nhà tu hành có “máu mặt công khai bộc lộ sự chà đạp Giới luật kinh điển, tự tiện sửa đổi Giới luật phục vụ lợi ích nhóm tăng lữ giàu có; ngang nhiên tuyên truyền mê tín dị đoan; kêu gọi (và đe dọa) cúng dường; cổ vũ và trực tiếp tham gia cuộc sống tôn sùng vật dục, dâm dục (mà xưa kia Đức Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông gọi là “dâm từ”, “dâm thần”, và cụ đã phải chống gậy vất vả đi khắp nơi để phá bỏ các “dâm từ” đồng thời khuyến hóa dân tu Thập Thiện)…

Cái bối cảnh sinh hoạt Phật giáo hiện đại này khiến ta phải nhớ lại sử gia Lê Văn Hưu đã từng than thở trước sự “tiêu phí của cải, nhân tài, vật lực của trăm họ” của giới “môn đồ đạo Phật” đông đảo: “khơi vét máu mỡ của dân mà có thể gọi là làm phước được ư?” (theo Toàn tập Trần Nhân Tông, Lê Mạnh Thát, Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2010, tr. 298). Còn Danh nhân văn hóa lớn đời Trần Trương Hán Siêu cũng đã nói về “Bọn sư sãi rông dài” trên văn bia chùa Khai Nghiêm như sau: “một bọn giảo hoạt gian ngoan, mất hết cả bản ý khổ hạnh không hư, chỉ ham chiếm đoạt được vườn sinh cảnh đẹp, để nhà cửa lộng lẫy như vàng ngọc, tay chân đông đúc như rồng voi…” (Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1972, tr. 156).

Thế là nhiều người có dịp được hiểu thấm thía, vì sao sự xuất hiện của Hành giả Minh Tuệ với pháp tu khổ hạnh của ông suốt hơn tháng qua đã làm chấn động trái tim hàng triệu người – một số đông (trong đó có Tăng – Ni) thì khao khát có được một hình ảnh Đẹp về Phật giáo Việt trên đường hòa nhập với Phật giáo nhân loại theo quan niệm của nhà bác học Albert Einstein, còn một số ít thì giãy nảy như “đỉa phải vôi” trước hành xử của một người đang đe dọa quyền lợi của họ, cùng cái uy tín đã có nhờ lừa được biết bao cư sĩ Phật tử thiện lương từng bị họ “vét máu mỡ” đến thê thảm…

Ngày…

Con cũng yêu quý Nguyễn Du và Truyện Kiều chẳng kém bố, chắc sẽ có câu hỏi này: ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU NÓI GÌ VỀ HÀNH GIẢ MINH TUỆ?

Có những người là Phật tử hay không là Phật tử hỏi Đại thi hào như vậy giữa khi hình tướng và xuất xử của hành giả Minh Tuệ gây chấn động lòng người cả bên ngưỡng vọng lẫn bên hằn học chửi bới

Cụ lắc đầu cười buồn thở dài:

Chính ta là kẻ đã đồng hành đồng tâm với Du sĩ kia kể từ ngày ta khoác áo mũ vàng nhà sư tự phong mà lang thang khắp vùng Giang Bắc Giang Nam với chiếc túi rỗng không tìm đến tận hang hùm nọc rắn để có dịp hiểu thêm nanh vuốt của những kẻ ăn thịt người uống máu người ngọt xớt như đường đã thống trị thế gian từ thời ta đến mãi về sau…

Nhờ đọc Kinh Kim Cang cả ngàn lượt mà ta mới hiểu Kinh không chữ mới là Chân Kinh và cõi tạm này cùng mọi Pháp là “Như mộng huyễn bào ảnh – Như lộ diệc như điện” (Như mộng ảo bọt nước – Như sương sa điện chớp)

Những kẻ giả Phật mượn Phật để buôn bán mọi thứ trên đời làm sao hiểu nổi câu Kệ này nhưng có hiểu thì họ cần xuyên tạc hay bưng mắt bịt tai để bảo vệ bình bát cúng dường bằng vàng của họ…

Chỉ vì lo tìm Chân Chúa và lẽ tồn tại của Dân tộc khốn khổ này mà ta tạm buông bỏ ý chí ẩn dật và khát vọng hành hương theo hạnh Đầu-đà ấp ủ từ ngày trẻ tuổi chống kiếm ngóng trời xanh lúc mưu sinh và chí giúp đời thường mờ mịt cả hai…

May mắn thay giờ có người thay ta thực thi sứ mệnh của những tấm lòng mang nặng đau thương nhân quần bằng những bước chân rớm máu tìm lẽ chân thực của Nhân sinh…

Rớm máu không phải bởi thép gai mà bởi răng hổ báo hùm sói cá mập đã xuất hiện ngày một đông đảo trên quê hương yêu dấu đương tràn lan bao dòng Mịch La mà ta tưởng đã cầu hồn vĩnh biệt chúng xưa kia…

Ta mong chàng Du sĩ – Khất sĩ kia hẵng sớm tỉnh ngộ và đồng cảm với niềm tuyệt vọng của ta để có thêm lòng dũng cảm tiếp tục hành hương trong thân phận Đầu-đà bị ganh ghét thù hằn…

Ngày…

Sau khi được TS. Phật học Lê Mạnh Thát (LMT) gửi tặng bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam (ba tập tái bản có bổ sung), bố say mê đọc lại, đọc kỹ, rồi “lẩy” ra điều này: LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT MINH CHỨNG CHO SƯ MINH TUỆ:

Chìm đắm trong những trang sách viết về Lịch sử Phật giáo Việt Nam của nhà Phật học TS. Lê Mạnh Thát, không chỉ một lần chúng tôi giật mình bởi hành trạng của sư Minh Tuệ hóa ra đã được soi rọi, minh chứng một cách hiển nhiên qua hành trạng và tư tưởng của nhiều vị Thiền sư Việt trong quá khứ – như Vô Ngôn Thông, người mở ra dòng Thiền Kiến Sơ, tiếp tục của dòng thiền Pháp Vân. Bài kệ do sư Vô Ngôn Thông truyền lại cho sư Cảm Thành có câu: “Rằng thủy tổ ta/ Chính tự Tây Thiên” Trước đó, khi sư Thiện Hội hỏi: “Thế nào là Phật?”, sư Cảm Thành trả lời: “Phật ở khắp mọi nơi”…

  1. Lê Mạnh Thát đã nhiều lần đúc kết rất cảm động về bản chất Phật giáo Việt, trong đó có đoạn: “Cho nên, nếu hệ tư tưởng dòng thiền Pháp Vân đã xác định việc giác ngộ phải tìm thấy ở nơi chính mỗi người, tức mỗi người phải thấy Phật ở ngay tại chính lòng mình, thì rõ ràng mỗi con người là một vị Phật. Xác quyết này mấy trăm năm sau vẫn còn có tác động mạnh mẽ lên đời sống các thiền sư, đến nỗi có những vị thuộc dòng dõi quý tộc như Trí Bảo là cậu ruột của thái úy Tô Hiến Thành, đã biểu lộ một sự kính trọng đặc biệt đối với tất cả mọi người. “Thiền uyển tập anh” kể, Trí Bảo mỗi khi ra đường, “gặp một kẻ nghèo thì vòng tay tránh đường, gặp một sa môn thì quỳ gối lễ bái” (Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập II, tr.354).

Sự kính trọng mang Phật tính Việt chân chính đó còn diễn ra trên đất này 900 năm sau, với sư Minh Tuệ trên đường hành hương khất sĩ gặp bất kỳ ai cũng coi là Thầy mình và đều xưng “Con” bằng tất cả sự khiêm hạ và quý trọng tận đáy lòng… Phải chăng, đó là điều đã thu phục được nhân tâm của hàng triệu người hôm nay?

Và bài: TÌM SƯ MINH TUỆ TRONG SÁCH PHẬT HỌC…

Lang thang trong “Rừng Thiền – Biển Phật học” mênh mông, rắc rối nhưng đầy lý thú của thầy Thích Trí Siêu (tức TS. Lê Mạnh Thát) qua các tác phẩm đồ sộ mà ông dày công sưu tầm khảo cứu như Tổng tập văn học Phật giáo Việt NamLịch sử Phật giáo Việt NamThiền uyển tập anhTrần Nhân Tông toàn tập, v.v, sẽ bất ngờ tìm thấy từ trong các bước đường lịch sử của Phật giáo nước nhà hiển hiện bóng dáng và đạo hạnh của sư Thích Minh Tuệ ngày hôm nay…

Ngay mở đầu Lời Tựa cuốn Kinh Pháp kính (Gương pháp) của tác-dịch giả Khương Tăng Hội ở thế kỷ III SCN – thiền sư đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam –, ta có thể đọc thấy điều này:

“Rằng Tâm là cội nguồn của mọi pháp, là căn của thiện ác, cùng ra khác tên, họa phúc chia dòng, lấy thân làm xe, đi khắp mười phương, vốn không ngưng nghỉ” (Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam tập 2, Nxb TPHCM 2001, tr191).

Phải chăng đó cũng là những dòng dành riêng để nói về con đường tu tập 6 năm qua của hành giả-khất sĩ Minh Tuệ?

Trong tác phẩm Lục độ tập kinh của thiền sư Khương Tăng Hội trước tác và sau đó dịch sang chữ Hán ta có thể thấy quan niệm ‘Phật là gì’ như sau: “Đạt được sự không lạnh không nóng, không đói không khát, công nghiệp và phước đức hội tụ, mọi thứ độc không thể làm hại…”. Phật là bậc có quyền năng để “có thể còn, có thể mất, có thể già có thể trẻ, có thể ẩn có thể hiện, không bị nóng, không bị lạnh, không đói, không khát, biến hóa không chừng…” (Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, Sđd, tr.613).

Còn Mâu Tử (cuối thế kỷ thứ II SCN) với tác phẩm Lý hoặc luận nổi tiếng, một tác phẩm lý luận gối đầu giường của người Phật giáo ở Viễn Đông, là nhà Phật học quan niệm “Ai cũng có thể trở thành Phật” đã khẳng định như sau: “Phật là nguyên tổ của đạo đức, là đầu mối của thần minh, nhanh chóng biến hóa, phân thân tán thể, hoặc còn hoặc mất, hay lớn hay nhỏ, hay tròn hay vuông, hay già hay trẻ, hay ẩn hay hiện, đạp lửa không bỏng, đi dao không đứt, muốn đi thì bay, ngồi thì phóng quang” (Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1, Nxb Đồng Nai 2023, tr.128).

Song, những vẻ “siêu phàm” đó của “con người Phật”, hay “Phật sống giữa đời thường” thực ra là cách thể hiện đầy ẩn dụ và hình tượng về sức mạnh tinh thần của người tu Phật coi bản chất của đạo là trí tuệ, coi trí tuệ vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của giác ngộ… Những điều này, hàng triệu người Việt và nhiều người nước ngoài, thuộc các tôn giáo khác nhau, đã được chứng kiến, chiêm nghiệm thông qua hành trạng và phát ngôn của sư Minh Tuệ trên các chặng đường hành hương tìm Phật của ngài…

Kính mời các anh chị em và các bạn tìm đọc những trang sách Phật học nói trên để có dịp hiểu thêm về “hiện tượng hành giả Thích Minh Tuệ” vẫn còn đang gây dư chấn mạnh mẽ trong lòng người kể từ mấy tháng nay…

Ngày…

Một sinh viên đạo diễn cũ giờ là đồng nghiệp ở phía Nam hồ hởi gọi cho bố: Thầy ạ, em vừa làm qua một cuộc khảo sát khán giả, thấy tâm lý nôn nóng chờ đợi một vài phim điện ảnh hay truyền hình dài tập nói về Phật giáo Việt hiện nay. Em đang suy tính thực hiện một dự án điện ảnh có thể tham góp cho Giải Cánh Diều Vàng của Hội nghề nghiệp ta, nhân vật chính là từ nguyên mẫu sinh động một nhà tu hành đang được cộng đồng mạng bàn tán phân tích rầm rộ như một người đang phá hoại đạo Phật, phá hoại nền tảng luân lý đạo đức xã hội, lũng đoạn giáo dục… Thầy cho ý kiến ạ?

Bố bảo: Đúng là thứ phim mà khán giả đang mong đợi! Điện ảnh thế giới đã có nhiều phim về đạo Phật, như: Xuân, Hạ, Thu, Đông… rồi lại XuânTiểu PhậtMật Lặc Nhật Ba truyện kýCuộc Đời Đức Phật Thích CaQuán Thế Âm Bồ TátNgọc Lâm Quốc SưSự tích Địa Tạng Bồ Tát, v.v. Còn ở ta, bên cạnh rất nhiều hình ảnh Thiền sư chói ngời gương Hoằng pháp cao cả, thì cũng có những hình ảnh u ám, tương phản với vẻ đẹp trên, cũng cần miêu tả thành hình tượng điện ảnh giúp cho công chúng và giới tăng ni – Phật tử hiểu thêm thế nào là nhà tu hành chân chính, thế nào mới là sự gắn kết Đời – Đạo tích cực như các vị thiền sư lớn nước ta đã làm mà tiêu biểu là Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông – nhân vật lịch sử mà thầy ấp ủ nhiều năm nay cho điện ảnh…

Nhân vật nhà tu hành mà em định dựng thành phim, nói đúng ra là giả tu hành, mượn tu hành để mua danh trục lợi, quả là một khối u nhọt kinh khủng cần mổ xẻ giúp đời và đạo Phật trong sạch hơn. Thầy xin góp mấy nội dung chính trên cơ sở tâm lý nhân vật:

– Ông này trong mối quan hệ rộng rãi và sâu trên cơ sở “nén bạc đâm toạc tờ giấy”, với: + Đồng đạo + Phật tử + Ngành Giáo dục + Giới kinh doanh + Giới chính trị + Giới văn nghệ…

– Ông này với tham vọng: Trở thành thủ lĩnh tinh thần theo kiểu Bang Hội không chỉ trong đạo Phật, không chỉ một địa phương, mà còn cả nước – thậm chí quốc tế nữa (Lập ra hàng chục tổ chức Chúng Thanh niên Phật tử, sửa đổi giới luật, mua hàng loạt bằng cấp và danh hiệu cho bản thân và đàn em thân tín, với tham vọng làm “Bố già” tinh thần – tư tưởng cho hàng trăm ngàn thanh niên-sinh viên…)

– Nhưng, để có chất đời thường của phim, nhất định không thể đơn giản hóa chất mâu thuẫn – bi kịch trong con người ông ta: Muốn nêu gương đạo hạnh từ bỏ Tham Sân Si song lại không thể từ bỏ được thú vui dục lạc trần tục, không thể ép con tim mình trước rung động thèm khát các cô gái trẻ xinh đẹp đang mộng vươn tới đỉnh cao thiên thần âm nhạc…

– Về tài năng, năng lực tinh thần: Cần sòng phẳng mà thấy rằng, ông ta rất có tài – tài ăn nói, tài thuyết phục người khác dâng hiến của cải cho mình, năng khiếu thơ ca nhạc họa, võ thuật… Song các năng khiếu đó lại bị dàn trải, lại nhằm mục đích trục lợi thâm hiểm, nên chúng trở nên méo mó và nguy hiểm với đông đảo mọi người – nhất là những đối tượng mà ông ta nhắm vào “hút máu mủ” của họ đến cạn kiệt song vẫn mù quáng cho đến chết và nguyện làm con chó trung thành cho ông ta…

Bộ phim này chắc chắn sẽ được sự ủng hộ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Ban Tôn giáo Chính phủ và đông đảo tầng lớp xã hội …

Ngày…

Hôm nay bố vừa viết: ĐỂ HIỂU THÊM HẠNH TU CỦA SƯ MINH TUỆ TRÊN QUỸ ĐẠO LUÂN HỒI.

Những ai nói rằng: hành giả Minh Tuệ không phải là tu sĩ, cần biết tới bài Kệ này của vua Lý Thái Tông (Lý Phật Mã), người đã cho dựng chùa Một Cột: “Bát nhã chân vô tông/ Nhân không, ngã diệc không/ Quá hiện vị lai Phật/ Pháp tính bản tương đồng” (Trí tuệ bát nhã không thuộc tông phái nào/ Không phải người, cũng không phải ta/ Các vị Phật của quá khứ, hiện tại và tương lai/ Vốn cùng chung một Pháp tính” (Thơ văn Lý-Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, 1977, tr. 242).

Và nếu không sợ rắc rối lý luận, thì cũng rất cần tham khảo một quan điểm về Vòng Luân Hồi (saṃsāra) như một nguyên lý Nhân sinh căn bản của nhà Phật học Junjro Takakusu người Nhật Bản, trong cuốn Tinh hoa triết học Phật giáo (The Essentials of Buddhist Philosophy), do Thiền sư Tuệ Sỹ dịch từ nửa thế kỷ trước làm giáo trình cho sinh viên Phật học:

“Trên thực tế, khi tất cả các trường phái tư tưởng (cả ở Đông Phương lẫn Tây Phương) bắt đầu với một nguyên lý tối sơ tĩnh, thì Phật giáo bắt đầu với thế giới động, hiện thực; và cá nhân, bằng cách tự tài bồi, nỗ lực để thể hiện lý tưởng trong cứu cánh. Saṃsāra, các đợt chìm nổi của đời sống, không phải là một dòng nước trôi xuôi, mà là một chu kỳ ba động, mỗi đợt sóng là một chu kỳ của đời sống xuất hiện trên quỹ đạo vĩ đại của Saṃsāra …” (Nxb Phương Đông, 2008, tr. 60).

Ngày…

Con hỏi bố: Mọi người hay niệm câu A Di Đà Phật. Vậy đó có phải tên một vị Phật không?

A DI ĐÀ PHẬT

Trong một clip mới nhất về sư Minh Tuệ mà hàng chục vạn người đã hồ hởi xúc động đón xem, ta thấy lời của vị sư Khất sĩ này nói rất rõ ràng: “Con đang tu để thành Phật A Di Đà, và mong mọi người cũng trở thành Phật A Di Đà…”

Vậy Phật A Di Đà là vị Phật nào luôn ở trên miệng mọi Phật tử cũng như số đông người yêu đạo Phật hiện nay: “Nam mô A Di Đà Phật”, và vừa mới đây tượng Ngài đã bị đập phá tan tành tại Tu viện Chân Như bởi ông TMH trụ trì tu viện này – người đang bị cả xã hội lên án bởi sự sa đọa, phá giới, phá đạo Phật?

Đức Phật A Di Đà (Amitābha) được biết đến với danh hiệu Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Thanh Tịnh Phật, Cam Lồ Vương Phật hay Vô Lượng Quang Phật. Mật Tông xem Ngài là giáo chủ của Liên Hoa Bộ ở phương Tây trong các vị Phật của Ngũ Phương. Thân của Phật A Di Đà có màu đỏ, ngồi ở phương Tây trên một bảo tòa được làm bằng hoa sen đỏ gắn trên đầu tám con công lớn. Các kinh điển quan trọng về Đức Phật A Di Đà gồm có Kinh Phật thuyết A Di ĐàKinh Phật Thuyết Vô Lượng ThọKinh Lăng NghiêmKinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, v.v.

Đạo Phật có hàng chục tông phái, song Việt Nam ta hầu như chỉ tiếp thu có Tịnh độ tông và Thiền tông. Tịnh độ tông (độ: bến, tịnh: trong sạch) là tông phái đã tôn đức A Di Đà làm giáo chủ, với quan niệm: “Nhất tâm bất loạn quán tưởng đức Di Đà” (Giữ tâm không nhiễu loạn mà quán tưởng đức Di Đà), “Hạnh trụ tọa tâm” (Giữ vững đạo hạnh thì tâm yên ổn), và “Tâm tịnh quốc độ tịnh” (Lòng mình yên tĩnh trong sạch thì cả nước yên tĩnh trong sạch).

Trong chùa Việt, tượng A Di Đà thường lớn nhất, phía trên treo bức hoành phi “Đại giác thế hùng” (Giác ngộ lớn, đời hùng mạnh). Như vậy tu Phật Tịnh độ tông chính là tu Tâm, chỉ cần giữ Tâm trong sạch và niệm “Nam mô A Di Đà Phật” (có nghĩa là kính dâng A Di Đà đức Phật) nhiều lần, bất kỳ lúc nào, khi cầu khấn, khi vui vẻ, khi buồn phiền, cả khi sám hối… Niệm liên tục thì đến một lúc nào đó sẽ thành Phật… Phật Tịnh độ tông đáp ứng được như cầu tu Phật của quảng đại quần chúng nghèo hàng ngày lo kiếm cơm gạo, không có thời giờ, điều kiện ngồi tụng kinh niệm Phật suốt năm suốt tháng…

Đài Cửu Phẩm Liên Hoa (hoa sen chín tầng) được dựng lên ở một số nơi như ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa Cẩm Giàng (Hải Dương), v.v. là để cho Phật tử khi miệng vừa niệm “Nam mô A Di Đà Phật” vừa lấy tay đẩy Đài Cửu Phẩm Liên Hoa quay thì câu niệm lập tức sẽ tăng lên 3.542.400 lần!

Giờ mọi người sẽ hiểu ra phần nào: vì sao ông TMH lại căm thù vị Phật A Di Đà đến thế?

Bố sẽ đưa con gái tới thăm Đài gỗ Cửu Phẩm Liên Hoa ở Hải Dương, bảo vật quốc gia hơn 300 tuổi còn hoạt động – công trình kiến trúc Phật giáo chỉ có ở Việt Nam mà mọi du khách có thể xoay tròn và niệm A Di Đà Phật để cầu mong hạnh phúc.

Ngày…

Con hỏi: nhiều người giải thích về khái niệm Khất sĩ, Khất thực, nhưng con chưa hiểu rõ. Thì hãy đọc bài của bạn bố: SỨC HẤP DẪN CỦA ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ VIỆT NAM. Sau vài tháng tràn ngập những thông tin nhiều chiều về hiện tượng Khất sĩ – Hành giả Thích Minh Tuệ, thì mới đây có một bài viết giàu tính khoa học, cô đọng và hấp dẫn về “Đạo Phật Khất sĩ” của nhà nghiên cứu văn học, PGS-TS Nguyễn Công Lý – Ủy viên Hội đồng tư vấn về Tôn giáo UBTW Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bài viết sẽ giúp công chúng đông đảo có một cái nhìn thật khách quan về “hiện tượng Khất sĩ TMT”: “Hình ảnh các vị Khất Sĩ ôm bình bát đi khất thực với dáng hạnh trang nghiêm, nhiếp tâm, nguyện cầu và hoá độ chúng sinh vào mỗi buổi sáng và mỗi ngày chỉ ăn một bữa, tức thọ thực vào giờ ngọ là một đặc trưng của Phật giáo Nguyên thuỷ như lúc Đức Thế tôn còn tại thế Ngài đã quy định trong giới luật mà các vị khất sĩ trong tăng đoàn phải thực hiện…”

Xin mời đọc toàn bài: https://vanvn.vn/suc-hap-dan-cua-dao-phat-khat-si-viet-nam/

Ngày…

Đọc xong bài viết của nhà báo Hoàng Hải Vân, con thấy hoang mang, liền hỏi bố. Đây con à, bố là người đầu tiên “phản pháo” – ngay khi bài ông ta xuất hiện trên mạng xã hội (TS Nguyễn Xuân Diện là người phát hiện điều đó): SỰ HIỂM ĐỘC TRONG GIỌNG ĐIỆU CỦA ÔNG HOÀNG HẢI VÂN. Mở đầu bố viết: “Nhiều người, cũng như tôi, từng rất kính nể một số bài báo của ông Hoàng Hải Vân – nhất là những bài ông viết về môi trường. Nhưng, mới đây, khi ông xuất hiện với tư cách một nhà báo dày dặn kinh nghiệm nói về hành giả Thích Minh Tuệ thì không ít người đã phải ngao ngán, thất vọng về tư cách người cầm bút trong ông, bởi qua bài báo: LĂN TĂN CHÚT XUNG QUANH VỊ HÀNH GIẢ HẠNH ĐẦU ĐÀ ĐI KHẤT THỰC, với cái tiêu đề mang vẻ khiêm nhường kia, bằng nghiệp vụ cao cường của một nhà báo lâu năm nhiều thủ đoạn, có thể nói ông đã giáng những “đòn âm” chí mạng vào ông Thích Minh Tuệ và vào tâm lý ái mộ ngày một dâng cao và sâu nặng đối với vị hành giả khất sĩ này!” Và kết: “Với bài báo nổi tiếng này, mọi người tin rằng ông HHV sẽ được các ông TTTM, TCQ, TNT… cúi lạy bái làm sư phụ – trong khi các ông ấy xưa nay chỉ được mọi người cúi lạy xin phước đức, bởi vì đây quả là cú đỡ đòn cho các ông ấy thật màu nhiệm…”

(https://www.tintucvietduc.net/goc-nhin/suy-nghi-va-cam-nhan/su-hiem-doc-trong-giong-dieu-cua-nha-bao-hoang-hai-van-noi-ve-su-thich-minh-tue.html)

Ngày…

Con gần như ném trả lại bố cuốn LỊCH SỬ CHÙA AM bố đưa con đọc hôm trước và bảo: Đây, ngôi chùa mà bố ca ngợi và còn định vào làm phim đây, sao lại chứa chấp một kẻ làm người kế tục trụ trì như lão sư hổ mang Thích Mật Hạnh chứ?

Con hãy đọc bài này bố vừa viết xong: SỰ THẬT KINH KHỦNG TẠI TU VIỆN CHƠN NHƯ – NƠI SƯ MINH TUỆ TỪNG TU TẬP.

Hai hôm trước, T. cận tôi được xem vài clip không hề dàn dựng cho thấy chân dung thực và lời nói thực của ông Thích Mật Hạnh – đương kim Trụ trì chùa Am-tu viện Chơn Như, người đã phỉ báng, chế riễu, nhục mạ hành giả Thích Minh Tuệ một cách trơ tráo ra sao. Tôi định gọi điện hỏi người của tu viện này, thì nhận được một clip âm thanh do một cư sĩ là H. (ông đề nghị giấu tên) của Ban Giới Định Tuệ (thuộc Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Tôn giáo) gửi đến. Sau đó, ông H. trò chuyện với tôi cả tiếng đồng hồ, với một nỗi buồn sâu sắc không kìm nén sự phẫn nộ về những sự thật kinh khủng đã/ đang diễn ra tại chùa Am, liên quan trực tiếp đến ông Thích Mật Hạnh (TMH).

Cư sĩ H nói trong nước mắt: 10 năm nay, ông TMH được Trưởng lão Thích Thông Lạc trước khi viên tịch đã tin cậy giao cho trụ trì tu viện Chơn Như, nhưng 10 năm nay, công việc chủ yếu của ông Hạnh chỉ là tìm cách chia rẽ nội bộ tu viện, vơ vét tiền cúng dường vào tài khoản riêng và tiêu xài cá nhân hết sức sang trọng, quan hệ với cả chục phụ nữ làm họ ganh tỵ cãi vã nhau, có cô đã cởi truồng ra ăn vạ sư trụ trì… khiến nhân dân địa phương khinh thường xa lánh tu viện, các mật thất bỏ hoang ít người xin đến tu tập, và mới nhất là có vài Phật tử gửi đơn tới các cơ quan Phật giáo kêu ca về phát ngôn kinh hãi của sư TMH cùng hành động đập phá tượng A di đà, tượng Di Lặc, tượng Quán thế âm Bồ tát của ông ta tại tu viện Chơn Như…

Cư sĩ H. hẹn tôi đến tư gia ông, để trực tiếp kể những gì ông biết, và sẽ đưa xem tận mắt những thư từ, văn bản, tài liệu, clip âm thanh… nhằm vạch trần chân tướng của người mang trọng trách kế thừa cơ ngơi – sự nghiệp của Trưởng lão Thích Thông Lạc nhưng đã phá hoại thanh danh đạo nghiệp của cụ một cách đáng buồn đến thế nào!

Tôi sẽ tiếp nhận, tổng hợp, chắt lọc những thông tin do cư sĩ H. cung cấp để trình sau với cộng đồng mạng xã hội. Tôi chỉ xin nói qua về clip âm thanh do cư sĩ H. gửi, ghi lời của một đệ tử thân cận của ô TMH gửi nhằm cảnh báo ông ta về cả trăm tin nhắn cho gái đã bị lộ, và về những hình ảnh quay trộm về ông đi với cô này cô nọ tại các khách sạn… (tôi nghe thoáng qua liền hiểu đó là một lời tống tiền ông TMH).

Và xin nói thêm điều này: sau cuộc Tọa đàm khoa học “Trưởng lão Thích Thông Lạc – Cuộc đời và đạo nghiệp” do Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Tôn giáo tổ chức vào ngày 8/5/2022, Trung tâm có gửi chục cuốn sách Kỷ yếu vào tu viện Chơn Như, nhưng đã bị ông TMH cho đem tiêu hủy hết, như một sự tuyên bố: Tu viện Chơn Như độc quyền đối với Di sản của Hòa thượng Thích Thông Lạc! Chỉ ông ta mới có quyền nói về Hòa thượng Thích Thông Lạc!

Và cái độc quyền đó, chưa biết ông ta sử dụng thế nào, chỉ biết rằng, ông ta đã làm vấy bẩn, đã đào hố chôn ngay danh tiếng và đạo nghiệp của vị Trưởng lão tiền nhiệm bằng cách chửi bới người đồng tu đồng đạo là hành giả TMT y như một kẻ vô học, chứa đầy lòng ghen ghét Sân hận Si muội, không hề có bóng dáng gì của một nhà tu hành có chức vụ được giao trọng trách thiêng liêng…

Ngày…

Trên những tư liệu thu thập và suy ngẫm, bố đã viết những trường đoạn phim đầu tiên HÀNH HƯƠNG TÌM PHẬT, trước hết là đúc thành một truyện ngắn mang tên TÌM PHẬT TRONG NGHĨA ĐỊA, được hai trang Web văn chương đăng tải:

https://vanviet.info/van/tm-phat-trong-nghia-dia/ và https://vietvanmoi.fr/index3.10296.html

Ngày…

Một nhà phê bình điện ảnh bạn thân của bố có gợi ý bố viết một kịch bản về bà PH, lúc đó đang “bóc lịch” trong trại giam, bởi “hai vợ chồng bà ta rất có tâm Phật, hay làm từ thiện”. Bố bảo: “Cứ chờ xem đã. Con người này khá phức tạp. Nhưng trong kịch bản tôi đang viết, đã có một nhân vật nữ Giám đốc kinh doanh liên quan đến hiện tượng MT; nếu bà ta quả như chúng ta nghĩ, thì đó sẽ là nguyên mẫu của kịch bản, còn nếu không, sẽ là hình mẫu để bà ta cần vươn tới… Sau khi bà ta ra tù chỉ ít ngày, khi cất lời chửi rủa sư MT đã hiện nguyên hình khiến bạn bố phải thốt lên: “Từ giờ phút này người đàn bà này đã chính thức đóng đinh cho mình vai ác quỷ, vĩnh viễn…”

Trường đoạn phim đó là thế này đây con gái, không dính dáng chút nào với nhân vật ngoài đời được mệnh danh là “Cuồn cuộn” – cuồn cuộn Tham – Sân – Si của loại người “Tâm xà khẩu Phật”:

HÀNH HƯƠNG TÌM PHẬT

Kịch bản điện ảnh (Trích)

VĂN PHÒNG GIÁM ĐỐC CTY NGUYỆT PHƯƠNG – NỘI NGÀY

Nữ Giám đốc Nguyệt Phương vừa giở ra bản báo cáo do cô thư ký đưa định xem, thì cô thư ký chạy vào hớt hải.

THƯ KÝ:

– Chị ơi! Chị…

NGUYỆT PHƯƠNG:

– Gì thế em? Báo cáo có chi lầm lẫn à?

THƯ KÝ:

– Không ạ… Chị ra đây mau… Đoàn của Hành giả Minh Thành sắp đi qua khu ta… Nhiều bà vãi ở mấy đạo tràng tỉnh ngoài cũng đang xếp hàng cầm hoa sen đón đợi các vị ấy, ở sát Công ty ta… Chị ra đi, dịp may hiếm có để tận mắt thấy nhà sư mà chị vẫn nhắc…

Nguyệt Phương xúc động, chắp tay lại và nhắm mắt.

NGUYỆT PHƯƠNG:

– A Di Đà Phật… Quý hóa quá… Các Hành giả và các bà vãi, đáng quý làm sao… – Bà mở mắt ra, ngấn giọt lệ trên mi – Chị hàng ngày nghe tin, xem hình của ông ấy và các đồng đạo mà thương… Chị những mong có dịp được tới gần ông ấy để đảnh lễ, cúng dường, sờ tay lên tấm y người tu hành để bày tỏ lòng kính trọng…

THƯ KÝ:

– Thế thì chị dẹp hết đi, ra luôn cùng em… Em sẽ gọi bảo vệ của Cty tạo một khoảng không dành riêng cho chị đón tiếp ông ấy…

NGUYỆT PHƯƠNG:

– Nhưng em à, em không thấy là quá nhiều người đeo bám theo ông ấy khiến ông ấy mệt mỏi, khó thực hiện được hạnh tu của mình, và chính ông ấy cũng phải than vãn rằng: Con đâu phải là diễn viên để mọi người xem ngắm… Rồi bao người cúng dường đủ thứ, cả tiền nữa, nhưng ông ấy chỉ nhận chút ít đồ chay đủ dùng cho một bữa… Thôi em à, nếu ta thật sự yêu quý kính trọng ông ấy thì hẵng để trong lòng, lấy đức độ và nghị lực của ông ấy làm bài học thấm thía cho riêng ta… Bớt cho ông ấy chút Sân Hận vì bị quá nhiều sự quấy rầy, tức là đã ủng hộ ông ấy đó em…

THƯ KÝ:

– Em không hiểu?…

Lúc đó ông Phó Giám đốc đứng tuổi bước vào, nghe được mấy câu cuối của Giám đốc và lời Thư ký, ông ta cười khẩy.

PHÓ GIÁM ĐỐC:

– Có gì mà không hiểu! Cô không thấy à: Giám đốc sang trọng của chúng ta, trang phục kiểu mẫu thế kia, mà lại ra đầu đường nghênh đón một kẻ bụi bặm lang thang bẩn thỉu ư? Để làm trò đùa cho thiên hạ ư? Sao cô xui dại Giám đốc thế?

Nguyệt Phương sững người, bà đỏ mặt lên vì tức, song nhanh chóng kìm hãm lại cơn giận cứ chực bùng ra. Bà từ tốn.

NGUYỆT PHƯƠNG:

– Anh Hùng ạ, anh phải cám ơn cái người mà anh gọi là “kẻ bụi bặm lang thang bẩn thỉu” đó đấy! – Hùng và thư ký ngạc nhiên – Bởi thế này anh ạ, nếu như lúc trước, khi tôi chưa biết đến ông hành giả Minh Thành, nghe những lời báng bổ miệt thị như vừa rồi của anh, tôi sẽ nổi cơn tam bành và đuổi anh ra khỏi Cty này – dù anh đã đóng góp nhiều thế nào cho Cty hoặc có quan hệ gì với cấp trên…

PHÓ GIÁM ĐỐC:

– Tôi miệt thị báng bổ một kẻ xứng đáng được nhận như vậy! Còn cô, lẽ nào một Phật tử thuần thành, một người mẹ tốt, một lãnh đạo gương mẫu của Cty này, lại đi bênh vực hắn ta?

NGUYỆT PHƯƠNG:

– Một người từng trải như anh, đã lăn lộn thương trường, và bằng đạo đức kinh doanh đã cùng Ban Giám đốc duy trì hoạt động Cty, giúp Cty vượt qua nhiều sóng gió để phát triển, lẽ ra anh nên có cái nhìn xa hơn những kẻ đương tìm cách bới móc, hằn học ông Minh Thành…

PHÓ GIÁM ĐỐC:

– Cô vòng vo gì khó hiểu thế?

NGUYỆT PHƯƠNG:

– Anh ngồi xuống đi đã – Với thư ký – Cả em nữa, ngồi lại đây, em cũng cần phải nghe những điều này… Anh và cô em hãy nhớ lại về những nỗi oan ức tôi đã trải qua, khi đó sẽ có cơ hội, dù chỉ chút ít, để hiểu rằng mình đã bất công với ông hành giả nọ, vâng, trở thành kẻ bất công một cách đáng xấu hổ trong khi bản chất ta không phải thế…

PHÓ GIÁM ĐỐC:

– Sao cô lại néo cái chuyện cô bị oan ức liên hệ với cái kẻ… phải, cái ông mà cả xã hội đang bàn tán đủ kiểu kia?

NGUYỆT PHƯƠNG:

– Có liên quan đó, thậm chí rất khăng khít… Đấy là chuyện Quả Báo ngay trong cõi này… Giữa khi tôi tự tin rằng tôi có chân lý, có lẽ phải, tôi đã coi thường bất chấp thế lực xấu, và tôi đã đơn thương độc mã đứng lên chống chọi với ma quỷ, tôi đã bỏ quên những người tốt xung quanh có thể làm bệ đỡ cho mình khi vấp ngã… Thế rồi, sự hiếu thắng của tôi lại trở thành đồng minh của kẻ xấu, đã quật tôi ngã… Mấy năm mất tự do, tôi lại được một bài học lớn về thái độ Buông Bỏ… Không phải là sự thỏa hiệp đâu, mà là một cách bảo vệ chân lý và lẽ phải bằng sự khôn ngoan, bình tĩnh, bằng lòng kiên trì thậm chí nhẫn nhục… Ông Minh Thành đã giúp tôi thấm thía thêm điều đó… Nhất là khi biết ông ấy đáp trả kẻ đấm ông tóe máu mũi bằng lời cám ơn, bằng lời chúc phúc người ấy sớm quay đầu thành Phật – Nguyệt Phương lau giọt nước mắt, đứng lên, đi ra phía cửa sổ nhìn ra xa – Một Phật tử được gọi là thuần thành như tôi, chỉ trong những ngày ngã ngựa đó, tôi mới dần thấm hiểu: lòng Từ bi của Phật không chỉ là biết thương người, làm nhiều từ thiện, mà cái chính là một sự thấu hiểu tận đáy bản tính con người để có thể tìm được cách hữu hiệu nhất cảm hóa họ theo hướng Thiện, và nhiều khi con đường ngắn nhất lại là con đường vòng…

PHÓ GIÁM ĐỐC lẩm bẩm:

– “Nhiều khi con đường ngắn nhất lại là con đường vòng…”. Đó chẳng phải là câu của nhà toán học Polya mà mấy năm trước tôi nói cho cô hay sao?

NGUYỆT PHƯƠNG:

– Đúng vậy, tôi biết ơn anh đã cho tôi biết nhiều câu triết lý có ý nghĩa, song chính anh lắm lúc đã không áp dụng được cho bản thân! Anh đừng vội tự ái. Ấn tượng của anh về ông Hành giả nọ cùng lời phỉ báng của anh, khiến anh đã hiện ra trước những người lòng lành biết suy nghĩ như một kẻ hồ đồ, hời hợt, và nhất là chứa đầy lòng Sân hận Si muội…

PHÓ GIÁM ĐỐC:

– Chính cô và những người tung hô ông ta mới là những kẻ Si muội hạng nặng…

NGUYỆT PHƯƠNG:

– Anh lầm to rồi! Mà ngay cả những người tán tụng ông ta quá lên là Thánh nhân, là Phật sống cũng không đáng gọi là Si muội, anh ạ! Chỉ có thể gọi là tình cảm thái quá, một sự sùng kính quá mức thôi! Nhưng cũng từ đó mà thiên hạ càng thấy nổi bật lên phẩm hạnh của ông Hành giả: ông ta thành thực từ chối mọi sự tán tụng, tự nhận mình là kẻ đang học Phật, đang thực hành Giáo pháp một cách vất vả, không dám nhận là Sư – dù ông ấy đã làm lễ xuất gia và hành đạo trong chùa…

PHÓ GIÁM ĐỐC:

– Thế cô chưa đọc công văn của Giáo hội Phật giáo ư?

NGUYỆT PHƯƠNG:

– Tôi đã đọc! Và cũng đọc cũng nghe nhiều vị tăng cao cấp trong Giáo hội tán thán bằng những lời trân trọng, kính nể hạnh tu của ông ấy… Tôi biết nhiều Phật tử, cũng như tôi, không thể đi theo được con đường ông Minh Thành, song nếu để trở thành Phật thì đâu chỉ có một con đường, và cớ gì lại chê bai phản bác con đường của ông ấy, trên một đất nước tự do tôn giáo?…

PHÓ GIÁM ĐỐC:

– Từ ngày tu Phật tại gia, cô trở nên lắm lý lẽ quá… Và, xin lỗi, hầu như toàn là những lý lẽ trên trời rơi xuống, xa lạ với bản tính cô, xa lạ với công việc cô đang làm là điều hành một guồng máy sản xuất mấy trăm con người…

NGUYỆT PHƯƠNG cười buồn:

– Anh Phó Giám đốc ạ! Tôi kính trọng anh về kiến thức khoa học kỹ thuật, song với nhận thức như thế về bản tính của tôi – cũng là bản tính thật sự của người Phật tử hôm nay –, thì anh quả là đáng thương quá! Và, xin lỗi, cũng thực đáng giận… Cái mà anh gọi là “Lý lẽ trên trời rơi xuống” đó thật ra là Sự giác ngộ, là Trí Huệ trong đạo Phật, là Con thuyền Bát nhã đưa người ta vượt qua mọi sóng gió tâm tư lẫn sóng gió đời thường… Anh theo dõi đi, hàng triệu người là Phật tử và không phải là Phật tử, ở trong nước và nước ngoài, bình dân và trí thức, có không ít tu sĩ nhiều đạo khác đã nói về ông Hành giả Minh Thành kính cẩn, cảm phục ra sao! Họ đâu phải là u mê, si muội? Còn bản tính của tôi ư? Sau mấy năm bóc lịch trong tù oan ức, tôi đã học được chữ Thiền, đã xóa bỏ được gần hết thói đời ô trọc Tham – Sân – Si, và cuộc hành hương tìm Phật của ông Minh Thành đã giúp tôi gột bỏ nốt những gì xa lạ với từ bi hỷ xả còn dính lại trong Tâm trí cũng như tập quán sinh hoạt… Anh nhìn xem, hàng trăm công nhân ở Cty này, có ai không phải là đồng bào của chúng ta? Đã bao giờ anh hạ cố như một kỹ sư hàng ngũ quý tộc chưa từng biết đói khát, bước tới một gia đình công nhân nghèo đông con để xem bữa cơm nhà họ có những gì, đã trăn trở điều gì chưa mong giúp họ thoát cảnh cùng khổ? Những người tu chùa, hay tu tại gia như tôi, hoặc tu khất sĩ như ông Minh Thành, xét cho cùng đều từ một cái nguồn của Phật pháp lâu nay, là tìm đường thoát khổ cho bản thân và nhân quần… Họ đều quên bản thân mình, quên mọi thú vui trần thế, chấp nhận cuộc sống Buông bỏ dục lạc, hận thù, tranh chấp – ông hành giả Minh Thành đang hiển hiện là một người như thế, lại nổi bật rỡ ràng trong hàng ngũ Tăng Ni – Phật tử. Lẽ nào anh nỡ phỉ báng, miệt thị họ?

Ông Phó Giám đốc bất giác cúi gầm mặt.

Ngày…

Do tình cờ may mắn mà bố được tháp tùng nhà Phật học,TS. Lê Mạnh Thát và học được ở ông đôi điều quý báu về học thuật cũng như về nhân cách, đồng thời cũng vinh dự làm được một việc nhỏ theo yêu cầu của ông… Trong ngày Phật Đản, bố kể lại chút ít.

MỘT CUỘC VỀ NGUỒN – MỘT CUỘC PHẬT SỰ

Đầu xuân, ngày 4-3-2021, đoàn làm phim ĐI TÌM TAM THÁNH TĂNG (Minh Không – Không Lộ – Từ Đạo Hạnh) có vinh dự được đón nhà Phật học-tiến sĩ Lê Mạnh Thát đi khảo sát cùng tại cụm di tích đền và chùa La Vân (Quỳnh Côi, Thái Bình) – một trong hàng chục cụm đình chùa đền miếu ở đồng bằng Bắc bộ có ghi dấu tích của Tam Thánh. Đây là nơi bi ký cổ xưa nhất còn lại đã khẳng định Thánh Minh Không là “Quốc sư từ”, “Tổ Phật”…

  1. Lê Mạnh Thát là tác giả của nhiều công trình Phật học giá trị:Lịch sử Phật giáo ViệtNam, Trần Nhân Tông toàn tập, Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, Thiền uyển tập anh (dịch, khảo cứu), v.v. Ở tuổi ngót 80, từng trải qua 15 năm ăn cơm tù chế độ mới (mà ông gọi vui là “khúc đoạn trường ngang bằng Thúy Kiều”, do sự “hiểu lầm” của người cầm quyền), ông vẫn dẻo dai, minh mẫn, sắc sảo, tiếp tục đóng góp trí tuệ và học vấn cho công cuộc “tìm về nguồn” của Dân tộc ta…

Trong suốt thời gian được gần thầy, tôi cố gắng tranh thủ khai thác thầy về kiến thức Phật học và lịch sử. Nhưng rồi chính tôi cũng được thầy “khai thác” một cách tinh tế và lịch sự, khi tôi trót khoe với thầy về bộ phim tài liệu Vụ án hồ Mù Sương. Khi kể đến câu chuyện về con rồng đá cắn vào thân mình được tìm thấy ngay chân đền thờ Lê Văn Thịnh, rồi ngôi nhà tuổi thơ của Lê Văn Thịnh đã biến thành chùa – “hóa gia vi tự” – ra sao, đôi mắt thầy sáng rực lên, và đòi chúng tôi đưa thầy tới ngay đền thờ Lê Văn Thịnh ở Đông Cứu, Gia Bình – Bắc Ninh…

Trong một ngày khảo sát tại khu đền – chùa Lê Văn Thịnh, thầy như lặng đi trong bao cảm xúc và suy tưởng. Rồi thầy đề nghị chúng tôi phải quay lại nơi này chụp lại toàn bộ những gia phả, thần phả sắc phong còn lại trong đền, để thầy sẽ “viết bổ sung một chương sách quan trọng” cho bộ Lịch sử Phật giáo Việt Nam và bộ Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam của thầy đã xuất bản từ mấy chục năm trước. Không tiện hỏi thầy, song với vốn học và nghiên cứu ít ỏi, tôi cũng có thể đoán được phần nào nội dung của chương sách quý đó: đấy là mối quan hệ giữa giới nho sĩ và giới tăng lữ Phật giáo thời Lý Nhân Tông trong sự giao thoa – tiếp thu – tranh chấp của các giáo phái, học thuyết tư tưởng chính trị và tôn giáo, từ đó thấy được diện mạo đích thực của Phật giáo thời Lý.

Nhưng, điều này quan trọng hơn cả, mà qua vài ý của thầy lúc trò chuyện vội, chúng tôi hiểu: thầy quan tâm tới nhân vật lịch sử Lê Văn Thịnh, trước hết bởi đó là một người đã giành lại lãnh thổ đã bị xâm chiếm cho đất nước. Vào năm Giáp Tý (1084), ông được triều đình cử sang Quảng Tây để thực hiện sứ mệnh này. Và ông đã khiến vua Tống phải nể phục, khen ông là người “biết cung kính, biết lẽ phải”. Nhưng vị Chánh sứ của Đại Việt cũng rất kiên quyết và dứt khoát trong khi tranh luận đòi đất. Chính thư tịch triều Tống đã chép lời cứng rắn của ông: “Đất thì có chủ, các viên coi giữ mang nộp, thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Sự chủ giao cho mà tự lấy trộm đã không tha thứ được, mà trộm của hay tàng trữ thì pháp luật cũng không cho phép. Huống chi nay, chúng lại mang đất trộm dâng, để làm nhơ bẩn sổ sách của nhà vua (triều Tống)”. Cho nên, Tống Thần Tông đành phải “bèn hạ chiếu trả lại cho ta 6 huyện Bảo Lạc và 6 động Túc Tang” (theo sách Cương mục).

 Trước khi đi sứ, Thái sư Lê Văn Thịnh chắc chắn đã hiểu thấu tấm lòng thiết tha với từng tấc đất của tổ tiên của cả triều thần mà vua Lý bộc lộ trong thư gửi cho vua Tống Triết Tông:

“Tuy những đất này chỉ nhỏ như viên đạn, nhưng rất đau đớn trong lòng, thường không rời trong giấc mộng; thực do tổ tiên thần trước đây giết bắt kẻ tiếm nghịch, xông pha nơi gian nan nguy hiểm, liều chết mới có được. Nay kẻ hậu sinh không thừa kế được tổ tiên, chưa tròn phận sự nơi cương vực, chỉ sống tạm trong khoảnh khắc mà thôi” (Cương mục).

Ngoài sách chính sử Việt Nam và các thư tịch Trung Hoa nói về vị Thái sư đầu triều tài ba nhưng có số phận bất hạnh, thầy Lê Mạnh Thát còn mong muốn có được các văn tự gốc nằm trong dân gian… Vì vậy, một đoàn “Phật sự” gồm sư thầy Thích Tâm Hiệp, nhà báo-luật gia Bùi Phúc Hải, kiến trúc sư-nhà nhiếp ảnh Trần Hiếu và tôi đã quay trở lại Khu đền thờ Lê Văn Thịnh. Với nhiều loại giấy giới thiệu, cả thẻ nhà báo của tôi, cùng với sự thiết tha nài nỉ, cuối cùng cụ từ giữ đền đã đồng ý cho mở các hòm quý đựng thần phả, gia phả, sắc phong, và cho cả vào Hậu cung có tượng thờ Thái sư Lê Văn Thịnh để quay phim, chụp ảnh một cách kỹ lưỡng.

Và trong nỗi xúc động thiêng liêng khi được tiếp xúc trực tiếp với những con chữ phủ bụi thời gian gắn với cuộc đời của một vĩ nhân, chúng tôi còn có cả niềm tự hào là mình đang tìm lại những tư liệu văn bản gốc cho một công trình lớn về Lịch sử Phật giáo và Lịch sử Dân tộc…

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.