Trần Kiêm Trinh Tiên
Buổi sáng, không như thường lệ, người con trai gọi điện sớm. Chiều nay chúng con sang ăn cơm với ba mẹ. Chúng con có sửa soạn thức ăn. Mẹ không phải nấu mẹ nhé.
Hoa, mẹ đã cắt vào từ sáng sớm. Hai hôm nay mẹ giấu chậu hoa hồng vàng dưới mái hiên sau nhà, có ba mặt kính che chắn được chút gió lạnh. Cây hoa đầu mùa đông trông tiều tuỵ như một bà lão. Mẹ bật cười nghĩ mình còn tiều tuỵ hơn thế. Mẹ đặt bình hoa tươi trước chân dung của con và em. Tuổi hai mươi, dáng con nhẹ như cánh hạc trong tà áo lụa màu trứng sáo. Nụ cười của con quá đỗi dịu dàng khiến mẹ phải đi nhanh xuống bếp khi nghe bước chân của ba đến gần.
Hôm nay mẹ sẽ làm cho cả nhà món ăn ngày xưa con thích. Mít non tươi gửi mua từ Sydney, mẹ đã luộc và xé nhỏ ra. Xưa mẹ chỉ cho con cách trộn mít với tôm tươi mình xào sẵn. Xưa con phụ mẹ rang mè, nướng bánh tráng và cắt nhuyễn rau răm. Con vừa giúp mẹ vừa kể chuyện. Chuyện trường học, chuyện bạn bè của con… Có lần khi nhắc về chương trình piano con đang theo, con nói sao dạo này con lại thích Rachmaninov. Có thể mùa hè sắp tới, con sẽ đàn Concerto số 2 của Ông[1] với dàn nhạc của trường mẹ ạ. Bên ngoài sắc diện vui tươi của con vẫn ẩn tàng một điều gì mẹ không nói ra được. Từ đó, mỗi khi con học đàn, mẹ thường xếp việc để ngồi đan gần đó.
Buổi chiều anh chị qua dùng cơm với ba mẹ. Không ai nói với ai hôm nay là ngày chi. Chỉ sau khi anh chị về, ba nhẹ nhàng nói hôm nay là sinh nhật của con. Thì ra không ai quên. Ba nhớ mà không dám nhắc, sợ mẹ buồn. Mẹ cũng sợ ba buồn nên chỉ im lặng nấu ăn. Anh con cũng thấu hiểu, không dám khơi lại nỗi đau.
Nhưng nỗi đau vẫn còn nguyên mới. Như con và em mới ra đi khuya hôm qua. Mẹ vẫn sống với những đoản khúc rất buồn của Rachmaninov suốt bốn mươi năm nay đó con.
Buổi tối, vào phòng, ba thắp ngọn đèn ngủ, chút ánh sáng xanh hắt lên bức tranh Nocturnes. Có hai chú chim nhỏ đang bay trong bão biển. Ba ngồi trầm ngâm bên tranh. Bức tranh bark đầu tiên của ba mẹ làm bằng vỏ lụa cây Melaleuca. Hơn bốn mươi năm nay, qua bao lần di chuyển, bức tranh vẫn ở bên ba, treo phía trên đầu giường ba nằm.
Ban đầu ba vẽ phác nền của Nocturnes là bão biển với hai cánh chim đang bay. Không biết mẹ đã mất bao lâu để dán nhiều lớp vỏ lụa ấy chồng thật dày lên nhau để tạo nền cho bão biển. Thiên nhiên thật tài tình! Làm sao những lớp vỏ lụa khác màu nhau ấy lại tạo nên sắc màu tuyệt vời mẹ chưa từng thấy. Chút ánh sáng tái xanh để lại đàng sau, hai cánh chim đang bay dần về phía biển tối. Đôi cánh và đôi chân chim cố ghìm sức để chống trả với lực xoáy của gió. Cánh chim bay cao hơn đang chơi vơi, cánh đã bắt đầu xác xơ, đuối sức. Mẹ bật khóc lúc dán đôi chân chú chim nhỏ chạm vào biển sóng. Ba đến bên, nhẹ nhàng nói để anh giúp em.
Chỉ vài phút sau ba nói bức tranh đã xong. Mẹ có thể làm thêm một chút phần rong tảo trong lòng biển. Ba ra hiên ngoài, đứng lau mắt kiếng.
*
* *
Dạo ấy, anh đi tìm tin tức các con từ mờ sáng. Đón chuyến xe buýt đầu ngày, dừng ngang nhà ga đi Sydney. Anh đến không thiếu một Trung tâm nào có lưu giữ số đăng ký của từng chuyến tàu sống sót. Chút hy vọng mong manh của anh mỏng dần theo từng trang của cuốn sổ dày. Cuối cùng, bao giờ cũng cái lắc đầu và đôi mắt đầy thương cảm của người thư ký. Anh vội cám ơn và bước đi nhanh. Đã bao nhiêu buổi chiều anh đi về tay không. Bậc thềm hắt hiu trong nắng. Tin tức chuyến tàu của hai con đi trước đây một năm vẫn bặt tăm. Cổ họng anh đắng khô. Anh lên được chuyến xe buýt cuối cùng với hy vọng bắt kịp tàu về đến nhà trước trưa mai. Anh ngồi xuống chiếc ghế trống cuối toa. Gió đêm như nhắc nhở điều gì khiến lòng anh đau nhói. Gần cuối năm, thành phố nơi ấy về đêm gió mát lạnh. Lúc hai con ra xe (để đến một điểm hẹn), em vội trao cho con hai chiếc khăn quàng em vừa đan xong. Con gái lau nước mắt nói vội vàng “Con sẽ đánh dây thép về chúc mừng sinh nhật mẹ…”. Các con anh ra đi như trốn chạy. Trốn chạy và mãi mãi không một cuộc tương phùng.
Và anh biết, ngày mai, em sẽ trùm chăn nằm khóc suốt ngày rồi ngủ thiếp… hay như có hôm đi về, anh thấy em ngồi trong nắng ôm con mèo Mun của Jane, bà hàng xóm tốt bụng. Em không nhìn thấy anh. Em đang nói chuyện với con Mun. Nó nào hiểu em. Nhưng anh hiểu em.
*
* *
Mùa thu đầu tiên nơi xứ người, anh đưa em đến rừng cây lá vàng, đẹp như tranh vẽ. Em không ngớt xuýt xoa, còn anh, dường như anh không chú ý. Anh mải miết đi sang phía cánh rừng không có lá vàng. Toàn cây cao với táng lá xanh như lá bạc hà bên quê mình. Những nơi ngày xưa em đã có đi qua trong năm tháng chiến tranh phía thượng nguồn Sông Bồ để tìm anh. Nhưng anh không hề lưu dấu.
Anh dừng lại bên em, bên cây Melaleuca. Thân cây đổ xuống đất không biết bao nhiêu là vỏ cây. Như cây cũng muốn rủ bỏ hết nỗi ưu phiền từ thiên cổ đã thấm rất sâu trong từng lớp vỏ lụa của mình. Những lớp vỏ mỏng khô còn lại bên ngoài bị gió tước bật ra khỏi thân cây, lắt lay trong gió thu. Thân cây trông tơi tả như mái tóc rối của một người đàn bà mất trí.
Anh bắt đầu nhặt những mẫu vỏ dày cho vào bao. Anh vừa làm việc vừa nhắc:
– Bà Genevieve đã dạy cho mình cách làm tranh bark bằng nguyên liệu này đây em.
Tâm trí em còn ngẩn ngơ, em nhớ con mèo Mun của Jane.
Anh vẫn lầm lũi chọn và nhặt vỏ cây. Cái bao đã đầy. Em giật mình chạy đến đưa cho anh cái bao mới. Khu rừng thu không một chiếc lá vàng đang dần đánh thức em. Những miếng bark sần sùi trong tay đang nhắc em một điều gì đó. Hốt nhiên, em tự nhủ mình không còn đủ can đảm để đánh cược thêm một lần nữa với số phận. Lòng dặn lòng, em sẽ dặn gia đình con và các cháu hãy ở yên bên ấy. Không đi đâu cả. Hãy chờ. Chờ ba mẹ.
Với người hoạ sĩ, chỉ tấm canvas, cây bút chì và màu, họ có thể lên đường. Với tranh bark thì không. Miếng masonite đã phác thảo giờ để yên một bên. Em soạn ra trên tấm bạt trải rộng nguyên gian phòng khách bao nhiêu là vỏ Melaleuca.
Mặt trong của vỏ cây dày như một xấp giấy lụa, chiều dày khoảng năm phân. Từng lớp mỏng xếp chồng lên nhau, nhiều màu sắc. Với cây nhíp nhỏ, em tách từng miếng vỏ lụa mỏng tanh, sắp ngay ngắn theo gam màu rồi chọn ra những màu hợp với bức masonite đang chờ trên giá.
Nay em gắn bó với chai keo dán gỗ, cây kéo không thể thiếu, mấy cây cọ đủ kích cỡ, những cây bút nhiều màu, vài cây nhíp lớn, nhỏ, chiếc dao nhỏ với vết cắt sắc và chính xác.
Những bức tranh bark đầu tiên của em được anh khen, tranh em mang vẻ đẹp của khói sương. Em nhắc lại có lẽ vì
“Lòng xa còn in trời Huế…”[2]
Chúng mình cùng cười, cùng nhớ một chút kỷ niệm xưa.
Bất giác anh quay sang nhìn em. Anh nhận ra hôm nay em mặc chiếc áo màu xanh. Em, một chút ngạc nhiên, xao xuyến. Đã bao năm rồi, mình quên nhận ra nhau?
– Hôm nay Lễ Saint Patrick đó!
– A… anh quên mất! Hèn chi hôm nay Greensleeves!
Một chút cười vui.
Greensleeves, Vai áo màu xanh, bản tình ca cả hàng trăm năm của người Irish. Greensleeves, một hôm cùng xuống thuyền, theo chân những người di dân đầu tiên xuống khu vực Nam bán cầu. Sydney, thế kỷ 18. Họ là những người tù đang thọ án, những người vợ còn rất trẻ, cùng con cái của họ, cũng tình nguyện đi theo, ôm ấp giấc mơ tương phùng nơi đất lạ.
Từ đó, giữa bạt ngàn rừng Melaleuca, theo chân người bản xứ, họ bắt đầu học làm tranh bark cho vơi bớt nỗi nhớ quê xa.
“…Greensleeves was all my joy
Greensleeves was my delight
Greensleeves was my heart of gold…”
Họ không quên Greensleeves bên bếp lửa chiều. Họ hát say sưa như một dàn đồng ca trong nhà nguyện, những nốt nhạc thiết tha theo gió bay về lại đất nước sương mù quá đổi xa xôi không còn mơ được ngày về.
*
* *
Những ngón tay của anh chai dần theo công việc làm khung cho tranh bark. Anh đo đạc chính xác từng góc cạnh. Đêm khuya, anh vẫn thức đóng khung, cần mẫn như ông Thánh Giu-Se. Ngày xưa, anh thường thức khuya để duyệt lại hồ sơ cho những phiên toà sắp tới… Những ngón tay cầm bút viết lý đoán để sáng mai còn lái xe về tỉnh sớm, biện hộ trước một phiên toà Đại hình.
Em cũng không còn đứng lớp, không còn giảng những bài thơ cổ đầy nỗi u hoài, không bảng đen, không phấn trắng.
Chúng mình làm việc như hai chú ong thợ. Bạn bè người bản xứ vừa tán thán, vừa pha chút kinh ngạc. Gallery sản xuất và bán tranh bark mở được năm năm. Cũng chưa đủ điều kiện để bảo lãnh con. Phải thêm năm năm nữa.
Sau đúng mười năm, anh và em vui mừng ngồi tính sổ. Như thế nay điều kiện đã đủ. Đón được con cháu sang.
*
* *
Thường em dễ mềm lòng trước bầu trời chiều nhìn ra từ khung cửa sổ rộng. Chiều tà. Lòng em cũng nghiêng xuống. Quá khứ. Kỷ niệm. Em ngồi như thế đến khuya. Rồi từ khuya đến sáng. Ấm trà đã thay mới mấy bận. Quá khứ ẩn tàng trong lòng, nay bước ra, đi, đứng, lững thững như người mộng du.
Hạnh phúc, khổ đau của chúng mình không khác miếng vỏ bark Melaleuca, dày như một xấp giấy lụa, thẩm thấu biết bao ưu phiền. Từ ngày tóc chúng mình còn xanh.
Em mang bức Nocturnes ra ngoài phòng khách. Bên nhành hoa lan trắng, hai chị em chim mải miết bay, đôi cánh xác xơ trong gió. Cánh chim nhỏ đuối sức, đôi chân từ từ chạm sóng biển. Bên em, trong khung ảnh, nụ cười anh thật hiền. Tưởng như chưa bao giờ có ngọn gió rát buốt của định mệnh đã quất ngang qua! Sẽ có một ngày, các con mang chúng mình về biển. Khi ấy xấp vỏ lụa ưu phiền cũng tan nhanh theo tàn tro.
(2024)
[1] Sergei Rachmaninov, Piano Concerto #2 in C Minor
[2] Lê Hữu Mục, Hẹn một ngày về.