Tôi yêu nước Mỹ. Đó chính là lý do tôi phải nói sự thật về nó

Nguyễn Thanh Việt, Time, 15, tháng 11, 2018

Hiếu Tân dịch

The Nguyen family, in the early 1980s in San Jose, Calif., where his parents owned the New Saigon Mini Market

Gia đình Nguyễn Thanh Việt, đầu những năm 1980 ở San Jose, California, nới cha mẹ ông là chủ siêu thị mini Sài Gòn Mới. Ảnh: Nguyễn Thanh Việt.

Nguyễn Thanh Việt sinh ở Việt Nam và trưởng thành ở Mỹ. Cuốn tiểu thuyết The Sympathizer của ông đoạt giải Pulitzer năm 2016 dành cho loại văn hư cấu và năm giải thưởng khác.



Không yêu thì bỏ đi (*). Bạn đã nghe ai nói – hay bạn đã nói – câu này bao giờ chưa? Ai nghe câu này cũng biết nó có nghĩa gì, bởi vì, nó luôn luôn nói đến nước Mỹ. Ai nghe câu này cũng biết nó là một khẩu súng đã nạp đạn chĩa thằng vào họ.

Về phần những người nói câu này, họ nói nó với vẻ dịu dàng, với lòng thấu cảm, với sự mỉa mai, với tính châm biếm, với bất kì loại hài hước nào không phải là hài hước đen? Hay câu này luôn luôn được nói với vẻ đe dọa rõ ràng không che giấu?

Tôi hỏi vì thật sự tò mò, bởi vì bản thân tôi chưa bao giờ nói câu này, ám chỉ đến bất kì đất nước, xứ sở nào. Tôi chưa bao giờ nói câu này với con tôi, và tôi hi vọng sẽ không bao giờ nói, bởi vì nó không phải là thứ tình yêu mà tôi muốn cảm nhận, đối với con tôi hay đối với đất nước tôi, dù nó là nước nào.

Đất nước mà tôi đang ngồi viết những dòng này là nước Pháp, đó không phải là nước tôi, mà là nước đã chiếm nước tôi, Việt Nam, làm thuộc địa trong hai phần ba thế kỉ. Ách thống trị Pháp chỉ kết thúc 17 năm trước khi tôi ra đời. Cha mẹ và ông bà tôi không biết gì ngoài chế độ thực dân Pháp. Có lẽ bởi vì lịch sử này, tôi có phần yêu nước Pháp, một tình yêu ở mức độ nào đó nhờ ở việc đã được khai hóa về mặt tinh thần bởi nước Pháp.

Nhận ra thân phận thuộc địa của mình, tôi không yêu nước Pháp theo cái cách mà người Mỹ yêu nước Pháp, những người mơ về tháp Eiffel, về việc nhấm nháp cà phê ở Les Deux Magots, về việc ăn một bữa thịnh soạn ở Provence. Đó là một tình yêu lãng mạn, được soạn thành nhạc cho accordeon hay Édith Piaf mà tôi chỉ cám thấy thoáng qua. Tôi không thể không thấy những di sản của chủ nghĩa thực dân mà người ta có thể thấy ở khắp Paris nếu người ta muốn thấy: người gốc Phi gốc A Rập ở đây vì Pháp từng có mặt trên đất nước họ. Lãng mạn hóa đời sống của họ, thường là bên lề xã hội Pháp, là khó, vì thế người Mỹ hiếm khi nói về họ như một phần của Paris hoa mộng.

Chất hoa mộng ấy thật cám dỗ, đặc biệt vì lịch sử Việt Nam của tôi. Phần lớn những người Pháp gốc Việt mà tôi biết đều hài lòng, cho dù họ biết rõ về cái lịch sử dân thuộc địa của họ. Vì sao họ chẳng nên hài lòng? Một người bạn Morocco ở Paris chỉ vào nước da của tôi giống với những người Pháp có tổ tiên Việt Nam và nói “Ở đây anh là da trắng.” Nhưng tôi không, hay chưa, phải là da trắng ở Mỹ. Tôi thành người ở Mỹ nhưng sinh ra ở Việt Nam, và những gốc gác của tôi không thể tách rời khỏi ba cuộc chiến: một, người Việt Nam chiến đấu chống Pháp, hai, người Việt Nam đánh lẫn nhau, và ba, Mỹ đánh ở Việt Nam.

Nhiều người Mỹ coi cuộc chiến tranh ấy là một tấm gương cao quý, tuy có thể có sai lầm, về những thiện ý của người Mỹ. Cho dù trong đó có thể có ít nhiều sự thật, nó cũng đơn giản chỉ là sự tiếp nối chủ nghĩa thực dân Pháp, một cuộc chiến tranh phân biệt chủng tộc và đế quốc trong những gốc rễ của nó, và trong những thực tế của nó. Như thế, cuộc chiến tranh này chỉ là một biểu hiện của cuộc bành trướng kéo dài nhiều thế kỉ của đế quốc Mỹ, vốn bắt đầu từ sự ra đời trong thuộc địa, chạy xuyên qua biên giới, Tây Mỹ, Mexico, Hawaii, Guam, Puerto Rico, Philippines, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam và giờ là Trung Đông.

Một cuộc chiến tranh có thể là một sai lầm. Một chuỗi dài những cuộc chiến tranh là một sơ đồ đánh phá. Những người Anh-điêng (**) đã là những kẻ khủng bố trong tưởng tượng của người Mỹ. Cuộc diệt chủng chống họ của những người định cư da trắng là mặt trái xấu xa của sự Tạ Ơn, không được luôn ghi nhớ nhưng không hoàn toàn bị lãng quên, ngay cả ở Pháp, nơi người ta vẫn có thể tìm thấy những những hình ảnh về người Mỹ bản địa mình trần đầu gắn lông chim. Nhiều thế kỉ sau, kí ức tiềm ẩn về cuộc diệt chủng – hoặc sự tán dương kẻ chinh phục – đã nổi lên khi lính Mỹ gọi lãnh thổ Việt Nam thù địch là “một nước Anh-điêng.” Bây giờ những người Hồi gíáo là những “gook” (***) mới trong khi bọn khủng bố là những cộng sản mới, vì những người cộng sản không còn là mối đe dọa lớn, và mọi xã hội cần Người Khác để xác định những đường biên giới của nó và trút những nỗi sợ hãi của nó.

The Nguyen family, in the early 1980s in San Jose, Calif., where his parents owned the New Saigon Mini Market

Gia đình Nguyễn Thanh Việt, đầu những năm 1980 ở San Jose, California, nới cha mẹ ông là chủ siêu thị mini Sài Gòn Mới. Ảnh: Nguyễn Thanh Việt.

Nhiều người Mỹ không thích nghe nói những điều này. Một cựu chiến binh Mỹ, một binh nhì, giận dữ viết cho tôi sau khi đọc một tiểu luận của tôi về những vết sẹo mà những người tị nạn Việt Nam mang trên người. Những người Mỹ đã hi sinh thân mình cho tổ quốc tôi, gia đình tôi, tôi, ông ta nói. Tôi nên biết ơn. Khi tôi viết trả lời ông ta rằng ông ta là người duy nhất bị hại vì cơn điên giận của ông ta, ông ta đáp lại bằng một bức thư còn giận dữ hơn. Một cựu chiến binh khác, một cựu sĩ quan, nay là nha sĩ và bác sĩ, đọc cuốn The Sympathizer của tôi, gửi cho tôi một bức thư giọng điệu chừng mực hơn, nhưng với một thông điệp cũng cùn như thế. Hình như anh quá yêu tụi cộng sản, ông ta viết. Tại sao anh không về Việt Nam mà ở? Và mang con anh đi theo anh.

Lúc đó tôi chán ngán không viết trả lời ông ta. Lẽ ra tôi nên viết. Lẽ ra tôi nên chỉ ra rằng chắc ông ta chưa đọc hết cuốn tiểu thuyết của tôi, vì một phần tư cuối cùng của nó lên án những thất bại của chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Có lẽ ông chưa đọc hết vì bị tổn thương bởi một phần tư đầu tiên của cuốn tiểu thuyết, nó lên án cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Có lẽ ông ta cũng chưa đọc đến giữa cuốn tiểu thuyết, tại đó tôi cũng châm biếm những thất bại của chính phủ Việt Nam Cộng hoà, nơi tôi sinh ra, miền Nam.

Tôi phê bình như thế này không phải vì tôi ghét tất cả những nước mà tôi đã biết, mà vì tôi yêu chúng. Tình yêu của tôi đối với các đất nước tôi là khó khăn do bởi lịch sử của chúng, giống như lịch sử của tất cả các nước, là phức tạp. Mọi nước tin vào bản ngã tuyệt nhất của nó, và từ những cách nhìn ấy đã xây dựng nên những nền văn hóa đẹp, nước Pháp có trong đó. Thế nhưng mọi nước cũng bị vấy bẩn bởi máu chinh phục và bạo lực, Việt Nam có trong đó. Nếu chúng ta yêu những đất nước của chúng ta có bổn phận không chỉ tâng bốc tôn vinh chúng, mà nói sự thật về chúng trong mọi vẻ đẹp và mọi sự man rợ của chúng, nước Mỹ có trong đó

Nếu tôi đã viết bức thư đó, chắc tôi đã hỏi nha sĩ và bác sĩ tại sao ông ta phải đe dọa con tôi, nó sinh ra ở nước Mỹ. Tư cách công dân của nó là tự nhiên, cũng như tư cách công dân của ông nha sĩ bác sĩ và cựu chiến binh. Và thậm chí con tôi còn được bảo không yêu thì bỏ đi. Một sự mắng mỏ như thế có thể là Mỹ không? Có. Và không. “Không yêu thì bỏ đi” là hoàn toàn Mỹ và đồng thời hoàn toàn không-Mỹ, đúng như tôi vậy.

Không giống như con tôi, tôi đã phải nhập tịch. Tôi có yêu nước Mỹ vào thời điểm tôi nhập tịch không? Thật khó trả lời, vì tôi chưa bao giờ nói “Tôi yêu bạn” với bất cứ ai, kể cả cha mẹ tôi, nữa là một đất nước. Nhưng tôi vẫn muốn thề lời thề công dân với nước Mỹ như một người trẻ tuổi. Đồng thời, tôi muốn giữ cái tên Việt Nam của tôi. Tôi đã cố thử nhiều cái tên Mỹ khác nhau tìm kiếm sự thích hợp. Tất cả đều không tự nhiên. Chỉ duy nhất có một cái tên mà cha mẹ tôi đặt cho tôi tôi thấy nó tự nhiên, có lẽ vì cha tôi không ngớt bảo tôi “Con là Việt Nam 100%.”

Bằng việc giữ lấy cái tên, tôi có thể trở thành người Mỹ nhưng không quên rằng tôi sinh ra ở Việt Nam. Một cách nghịch lý, tôi cũng lại tin rằng bằng việc giữ lấy cái tên, tôi đang cam kết với nước Mỹ. Không phải nước Mỹ của những người nói “Không yêu thì bỏ đi” mà nước Mỹ của tôi, một nước Mỹ mà tôi nhất thiết phải nói tên tôi, hơn là một nước Mỹ áp lên tôi một cái tên.
Sau đó thì việc đặt tên cho con tôi là một thử thách. Tôi muốn một cái tên Mỹ cho nó thể hiện tất cả tính phức tạp của nước Mỹ chúng tôi. Tôi chọn Ellison, theo tên nhà văn vĩ đại Ralph Waldo Ellison, bản thân ông lại đặt tên theo Ralph Waldo Emerson, nhà triết học vĩ đại. Phả hệ của con tôi như vậy có thể là đen và trắng, văn chương và triết học, Mỹ gốc Phi và Mỹ. Phả hệ này thể hiện sự vĩ đại của nước Mỹ và cả sự khủng khiếp của nó, nền dân chủ và cả chế độ nô lệ. Một số người thích tin rằng sự vĩ đại đã thắng sự khủng khiếp, nhưng với tôi, sự vĩ đại và sự khủng khiếp song song tồn tại, như chúng đã thế ngay từ đầu lịch sử nước Mỹ của chúng ta, và có lẽ đến kết thúc của nó. Một cái tên như Ellison nén vẻ đẹp và sự man rợ vào trong bảy chữ cái, một sự tóm lược thất vọng và hi vọng.

Nguyen with his mother in Vietnam, before they left for the U.S

Nguyễn Thanh Việt với mẹ ở Việt Nam, trước khi đến Mỹ. Ảnh: Nguyễn Thanh Việt.

Đây là một gánh nặng đặt lên con tôi, mặc dù nó không nặng hơn cái gánh mà cha mẹ tôi đặt lên tôi. Tên tục của tôi là tên của người Việt Nam, huyền thoại về lỏng yêu nước của nó nói rằng chúng tôi đã chịu đau khổ trong nhiều thế kỉ để được độc lập và tự do. Thế nhưng Việt Nam hôm nay trong khi đã được độc lập, khó mà nói đến tự do. Tôi có thể vĩnh viễn không bao giờ được trở lại Việt Nam bởi vì ở đó tôi không bao giờ có thể là một nhà văn và nói những gì tôi muốn nói mà không bị tống vảo tù.

Bởi vậy tôi chọn tự do của nước Mỹ ngay ở cái thời mà “Không yêu thì bỏ đi” không còn là lời nói suông. Chính quyền hiện tại đang đe dọa ngay cả những quyền công dân tự nhiên, bằng việc xóa quốc tịch và trục xuất. Có lẽ không quá khiên cưỡng khi tưởng tượng rằng vào một ngày nào đó một người giống như tôi, sinh ra ở Việt Nam có thể bị tống trả về Việt Nam, mặc dù đã tự làm ra từ bàn tay mình nhiều hơn nhiều người Mỹ sinh ở Mỹ. Nếu vậy, tôi sẽ đưa con tôi cùng đi với tôi. Việt Nam không phải là đất nước của nó. Đất nước của nó là Mỹ và có lẽ nó sẽ biết đến một tình yêu đối với đất nước này ít phức tạp hơn và nhiều tính bản năng hơn tình yêu của tôi.

Tôi hi vọng nó cũng sẽ biết một tình yêu của người cha ít phức tạp hơn tình yêu của tôi. Tôi không bao giờ nói “Con yêu ba mẹ” khi tôi lớn lên vì cha mẹ tôi không bao giờ nói với tôi “Ba mẹ yêu con.” Điều đó không có nghĩa là cha mẹ không yêu tôi. Ông bà yêu tôi đến mức đã làm lụng đến kiệt sức trong nước Mỹ ông bà mới đến. Tôi rất hiếm khi được đến thăm cha mẹ. Khi tôi đến, ông bà đã quá mệt mỏi không còn biết đến vui mừng. Tuy nhiên dù mệt mỏi đến thế nào, ông bà luôn luôn làm cơm, cho dù bữa cơm thường chỉ có lòng luộc. Tôi lớn lên nhờ lòng, lưỡi, dạ dày, gan, cá mòi, và tim. Nhưng tôi không bao giờ đói.

Kí ức về tình yêu gan ruột ấy, biểu hiện trong sự hi sinh, nằm trong tận tủy xương tôi. Một từ hay một giọng nói cất lên có thể làm cho tôi cảm thấy toàn bộ cái sâu thẳm trong tình yêu ấy, như đã xảy ra với tôi khi tôi nghe lỏm được một cuộc nói chuyện trong một hiệu thuốc gần khu tôi ở Los Angeles. Người đàn ông đứng cạnh tôi là người châu Á, không đẹp trai, ăn mặc xuyền xoàng. Ông nói tiếng Nam Việt Nam vào điện thoại di động. “Con ơi, Ba đây. Con ăn cơm chưa” Trông ông ta hơi thô tháp, có lẽ dân lao động. Nhưng khi ông ta nói với con bằng tiếng Việt, giọng ông vô cùng dịu dàng. Những điều ông nói không thể dịch. Chỉ có thể cảm.

Nguyên văn ông ta nói thế này. “Chào con. Ba đây. Con đã ăn cơm chưa?” Điều đó chẳng có nghĩa gì trong tiếng Anh, nhưng trong tiếng Việt nó nói lên rất nhiều. Đây là cách mà chủ nhà chào khách đến thăm nhà, bằng cách hỏi họ đã ăn chưa. Đây là cách những cha mẹ không nói “Ba/mẹ yêu con” nói với con của họ rằng họ yêu chúng. Tôi đã lớn lên với những phong tục này, những cảm xúc này, những tình thân mật này, và khi tôi nghe người đàn ông kia nói điều này với con ông ta, tôi gần muốn khóc. Qua đó tôi biết rằng tôi vẫn là người Việt Nam, bởi vì lịch sử của tôi nằm trong máu của tôi và văn hóa của tôi là cái cuống rốn của tôi. Cho dù tiếng Việt của tôi chưa hoàn hảo, tôi vẫn kết nối với Việt Nam và với người Việt di tản trên khắp thế giới.

Thế mà, khi tôi lớn lên, một số người Mỹ gốc Việt bảo rằng tôi không thật sự là người Việt bởi vì tôi nói tiếng Việt không hoàn hảo. Một nhận xét như thế là anh em họ với “Không yêu thì bỏ đi”. Nhưng, là người Việt Nam thì có nhiều cách, cũng như có nhiều cách để là người Pháp, có nhiều cách để là người Mỹ. Đối với tôi, chừng nào tôi còn cảm thấy mình là người Việt Nam, chừng nào những chuyện Việt Nam còn làm rung động lòng tôi, thì tôi còn là người Việt Nam. Đó là lí do tôi cảm thấy tình yêu nước đối với Việt Nam, một trong những quê hương tôi, và đó là lí do tôi cảm thấy bản ngã Việt Nam của mình.

Trong cái đòi hỏi bản ngã Việt Nam đầy thách thức của mình, một đòi hỏi không đếm xỉa đến định nghĩa của bất kì ai khác, tôi cũng đòi cả bản ngã Mỹ nữa. Chống lại tất cả những ai nói “Không yêu thì bỏ đi”, những người chỉ đưa ra một cách duy nhất để là người Mỹ, tôi nài nỉ nước Mỹ cho phép tôi là người Việt Nam và được giàu có bằng tình yêu của những người khác. Bởi vậy hàng ngày tôi hỏi con tôi ăn cơm chưa và hàng ngày tôi nói với con tôi rằng tôi yêu nó. Đó là lí do yêu đất nước và yêu gia đình không khác nhau. Tôi muốn tạo ra một gia đình nơi tôi sẻ không bao giờ nói “Không yêu thì bỏ đi”, với con tôi, cũng như tôi muốn một nước sẽ không bao giờ nói câu ấy với bất kì ai.

Phần lớn người Mỹ sẽ không cảm thấy điều mà tôi cảm thấy khi tôi nghe tiếng Việt, nhưng họ cảm thấy tình yêu đất nước theo cách của họ. Có lẽ họ cảm thấy một tình yêu sâu sắc, đầy xúc động khi họ nhìn thấy quốc kỳ hay nghe quốc thiều. Tôi thú nhận rằng những biểu tượng ấy có ít ý nghĩa đối với tôi, bởi vì nó chia rẽ cũng ngang với đoàn kết. Quá nhiều người, từ những cương vị cao cấp nhất trở xuống, đã dùng những biểu tượng này để nói với những người Mỹ thực chất là bảo họ “Không yêu thì bỏ đi”.

Được miễn dịch khỏi quốc kỳ và quốc ca không có nghĩa là tôi ít yêu nước Mỹ hơn những người yêu những biểu tượng đó. Liệu có quan trọng hơn nếu tôi yêu cái thực chất đằng sau những biểu tượng ấy hơn bản thân những biểu tượng? Những nguyên lý. Dân chủ, bình đẳng, công bằng, hi vọng, hòa bình, và đặc biệt, tự do, tự do nghĩ và viết những gì tôi muốn, cho dù tự do của tôi và vẻ đẹp của những nguyên tắc ấy đã luôn luôn được nuôi bằng máu diệt chủng, nạn nô lệ, chinh phục, chiếm thuộc địa, chiến tranh đế quốc, chiến tranh liên miên. Và tất cả đó là nước Mỹ, nước Mỹ tươi đẹp và hung bạo của chúng ta,.

Nguyen as a child in Ban Me Thuot, circa 1974

Nguyễn Thanh Việt lúc còn là đứa trẻ ở Ban Mê Thuột, khoảng 1974. Ảnh: Nguyễn Thanh Việt.

Trong những năm tuổi trẻ của tôi ở San Jose, California, những năm 1970 và 1980, tôi đã không hiểu cái mâu thuẫn rằng đó là nước Mỹ của chúng ta. Vào thời gian ấy tôi chỉ muốn được là người Mỹ theo cách nào đơn giản nhất có thể, một phần muốn cưỡng lại đòi hỏi của cha tôi rằng tôi phải là người Việt Nam 100%. Cha tôi cảm thấy một tình yêu sâu nặng đối với đất nước của ông bởi vì ông đã mất nó khi chúng tôi trốn thoát Việt Nam vào năm 1975 như những người tị nạn.

Nếu cha mẹ tôi vẫn khư khư giữ lấy bản sắc và văn hóa Việt Nam một cách dữ dội, đó chỉ là vì họ muốn đất nước của họ quay trở lại, một tình cảm mà nhiều người Mỹ chắc chắn hiểu.

Sau đó quan hệ Hoa Kỳ Việt Nam được tái lập năm 1994, và cha mẹ tôi tranh thủ cơ hội đầu tiên để về nhà. Họ về hai lần, không có tôi, đi thăm một đất nước vừa mới nổi lên sau nghèo đói thất vọng hậu chiến. Những gì họ thấy ở quê hương tác động sâu sắc đến cha tôi. Sau chuyến thứ hai, cha mẹ tôi không bao giờ trở lại lần nữa. Trái lại, vào tiệc lễ Tạ Ơn, cha tôi nói “Bây giờ chúng ta là người Mỹ.”

Cuối cùng cha tôi cũng đòi làm người Mỹ. Lẽ ra tôi nên phấn khởi, và tôi phần nào đã thế khi chúng tôi ngồi trước món gà tây ngoại lai, khoai tây nghiền và nước xốt việt quất, những thứ em tôi đã mua từ siêu thị về, bởi vì không ai trong gia đình tôi biết nấu những món đặc sản này mà mỗi năm chúng tôi chỉ ăn một lần. Nhưng nếu tôi vẫn cảm thấy không thoải mái thì đó là bởi vì tôi không thể không tự hỏi: Đây là nước Mỹ nào vậy?

__________________________
(*) Love it or leave it:

– Yêu hay là rời bỏ.

– Không yêu được thì bỏ đi.

– Nếu không yêu được chốn này, xin mời đi chỗ khác.

– Một là yêu (thì ở lại), hai là biến!

(**) Việt hóa chữ ‘Indian’: người da đỏ, dân bản địa châu Mỹ.

(***) Người da nâu hay da vàng, cách gọi khinh miệt.

Comments are closed.