Lê Minh Hà
Bà cái Hà có một niềm hãnh diện không giấu diếm trước các bà ở làng. Không bà nào tậu được cỗ áo quan như bà ở tuổi ấy, lúc tuổi mới chạm sáu mươi. Bốn tấm dài hai tấm ngắn, bào phẳng lì, gỗ vàng tâm nổi vân nâu sáng, nhìn như soi gương được, sờ tay vào thì mát rười rượi.Nhà bà cháu cái Hà khác nhiều nhà, gian giữa không có bàn thờ xây bệ vệ, rỗng gầm, để đồ hay đựng thóc, quét vôi trắng lốp. Đi sơ tán dọc ngang làng trên xóm dưới về, bà nhờ người đan một tấm vạt đóng đinh cố định vào bức tường hậu, giữa hai cây cột xây to vật hình tròn mà nó vòng tay cũng không ôm hết. Lúc còn bé, Hà rất thích đứng trên giường bám cột nhà để với mấy cuốn sách đặt ngay đầu bàn thờ. Sách không biết của ai ở nhờ nhà lúc bà cháu dạt đi để quên lại. Có sách Bình dân học vụ. Có cả truyện. Cái Hà lần mò tập đọc khi còn chưa được đi học bằng những kiến thức võ vẽ thu lượm được lúc bám cửa lớp học ở chùa làng Khảm Lâm và bằng mấy cuốn sách này. Nó biết chuyện Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Hoàng Trìu, Quan m Thị Kính, Nhị độ mai và vô khối chuyện khác đầu tiên là do bà kể, sau đó là tự đọc rồi kể lại cho bà cũng bắt đầu từ mấy cuốn sách bà không đọc được đặt trang trọng ở góc bàn thờ.
Ngoài mấy cuốn sách, bàn thờ chả có gì ngoài bát hương và bằng Tổ Quốc Ghi Công. Tên ông nó trên cái bằng đó ghi sai, thiếu dấu huyền, nhưng bà bảo thôi, ông chịu mất tên để con cháu được là con cháu liệt sĩ, chứ bới ra lần nữa thì không biết đến bao giờ mới được trên giải quyết, mà chắc gì đã xong, chưa xong thì có khi lại bị tiếp tục coi là nhà việt gian, thì chết, thì chết. Cái Hà đã nhiều lần đứng dưới ngửa cổ lần đọc từng chữ trên tấm bằng bùa hộ mệnh cho cả nhà đó, tự thắc mắc một mình ở dưới đất thì người ta gọi ông nó là gì, theo tên cụ đặt cho ông hay theo tên trên bàn thờ? Bát hương và tấm bằng Tổ Quốc Ghi Công không thể nào với tới được lúc nào cũng bồng bềnh, cao vời trong trí nó.
Dưới bàn thờ, kê trên hai cái chân mễ là bộ quan tài chưa ghép mộng của bà, sáu tấm, bốn tấm dài, hai tấm ngắn, gỗ vàng tâm, kể có thêm cái bàn uống nước kê luôn đó thì ngồi sẽ rất tiện. Nhưng đến sờ vào đó thì chị em nó cũng phải rất rón rén, sợ bà mắng. Vài ba hôm bà lại cầm cái phất trần phẩy ngang phẩy dọc trên mặt gỗ, vừa phẩy bà vừa bảo có cỗ áo này rồi bà có chết đi thì bố mẹ cô chú chúng mày cũng không phải lo gì, còn giỗ bà thì cũng không phải bày vẽ gì, chỉ cần một bát nước chè xanh, quả dứa với lại mấy củ khoai lang. Bà nói, vừa tư lự vừa say mê, làm cái Hà lo lo. Tại có những ngày tháng hơi hơi yên hàn, như cái hồi mẹ nó cho nó bỏ học, đưa phắt nó về bà, chị nó với lũ em con bà cô ông chú chưa phải đi sơ tán lại, nhà chỉ có hai bà cháu nó. Bà là chỗ dựa duy nhất của nó ở làng, nơi lúc nào cũng làm nó hơi chờn chợn vì chẳng biết ai với ai, lại còn không có bạn. Nó lo bà chết. Còn con em họ nó thì lại sợ bà chết mà giỗ bà như bà bảo thì chán, chả được ăn giỗ to.
Ăn giỗ to là to thế nào? Mấy chị em đều nhất trí là to như giỗ ông. Bà chẳng mời ai, chỉ có mẹ con bà cháu. Mãi sau này cái Hà mới biết ngày đó nhà nào cũng ăn cỗ, không có giỗ vẫn có cỗ. Vì đó là ngày rằm tháng bảy, ngày xá tội vong nhân, ngày chiêu hồn những người không được chết ở nhà, không được người nhà chôn cất. Nó hỏi bà nó sao không giỗ ông theo ngày ông hi sinh ghi trên bằng Tổ Quốc Ghi Công. Bà cái Hà chả bảo gì, chỉ thở dài. Hàng xóm bảo bác giỗ bác trai thế này thì coi như mất giỗ, bà vẫn lẳng lặng làm thế. Tận khi bác Mạch gái sang nhà khóc với bà vì nhận tin bác Mạch trai đã hi sinh, hi sinh nhưng chưa báo tử, chẳng biết phải cúng giỗ thế nào, bà mới nhỏ nhẹ bảo thương nhớ để trong lòng, cúng giỗ thì hương hoa cũng là cúng giỗ, anh ấy thật sống khôn chết thiêng thì sẽ về với mấy mẹ con từng ngày chứ chờ gì mâm cao cỗ đầy cháu biện. Đến khi đó cái Hà mới biết ngày ông nó hi sinh ghi trên bằng Tổ Quốc Ghi Công không thể là ngày giỗ ông được. Bà chỉ biết ang áng ông hi sinh đận chiến dịch Thu Đông năm một chín bốn bảy, trên Việt Bắc. Vậy là bà làm giỗ ông vào rằm tháng bảy. Bà rì rầm với bác Mạch hi sinh cũng là chết, chết vì gì thì cũng là chết, báu gì cái chuyện được công nhận nọ kia, chẳng qua chú nhà thím chết đi mang cái danh Việt gian thì con cháu không ngẩng đầu lên mà sống được nên là cứ phải đòi, cứ phải kiện đòi minh oan đến cùng để chú được công nhận là liệt sĩ. Hy sinh đời bố thì phải củng cố được đời con. May mà nhà thím bố mẹ bọn trẻ con là người nhà nước, còn biết đường kêu. Thím giỗ chú ngày này là để chú với anh em đồng chí tiếp tục bầu bạn dưới kia được ấm áp cùng nhau. Cùng cảnh ra đi, mất xương mất cốt, sông núi thì mênh mông mà mả riêng chưa chắc có, khấn vái riêng một người thì tội với nhiều người. Bác Mạch gái nghẹn ngào: “Hay là cháu về bảo với ông nhà cháu cứ làm như thím?!” Cái Hà nghe hóng, tự gật gù à biết rồi, biết vì sao trên bàn thờ chỉ có nải chuối bát hương mà mâm cỗ giỗ đầy phè kia bà lại đặt trên cái giường không ai nằm, không trải chiếu, kê sát khung cửa sổ mở ra vườn. Đấy là hai lần giỗ, giỗ ông mình với lại giỗ nhiều người làm ma ở ngoài đường ở chiến chường – Cái Hà ti toe giảng giải cho bà chị bé và mấy đứa em nhưng lớn hơn mình, thích chí vì mắt đứa nào cũng trố ra khi nghe.
Bà sợ cảnh người chết chỉ có tấm chiếu hay mùng màn đậy điệm khi chôn làm người sống áy náy hay gì mà tự tậu cỗ quan tài sớm thế chị em cái Hà không biết. Cỗ quan tài chưa ghép mộng oai vệ dưới bàn thờ ông một hôm bị hạ xuống. Máy bay Mỹ đánh phá ác liệt hơn. Có đêm bà phải đánh thức bầy cháu nằm đầy hai cái giường ở hai gian, giục chạy ra vườn, xuống hầm. Tối om, bọn trẻ lồm cồm lần mấy bậc đất tụt xuống, có hôm ngã chồng đống cá khê lên nhau, có hôm ướt như chuột lột vì ngập nước mưa chưa nhờ bên nhà ông Lúa tát đi được. Thế là bà gọi mấy chú hàng xóm tới nhờ đào hầm dưới gầm giường. Bốn tấm dài của cỗ quan tài chia đôi, kê lên làm nắp hầm, thò một đầu ra khỏi cái gầm giường thước sáu và thành nơi bà đặt âu trầu. Cái Hà rất thích ngồi ở đó lục lọi âu trầu của bà, gạ xin têm giầu cho bà. Nó cũng biết tiện miếng vỏ quạch bằng con dao bài nhỏ, bổ quả cau tươi hay chẻ hạt cau khô, xé lá giầu không quệt vôi, nhúm tí thuốc lào rồi cuộn lại đưa lên miệng bà. Nó không dám thử món đó bao giờ vì tận mắt thấy bà chị bé say trầu, lử lả ngã vật ra thềm vào phiên chợ trước đó lúc bà đi vắng, chỉ vì dám thử ăn trầu, lại còn nuốt cả nước cốt. Đánh đu chơi nhởn với lũ trẻ con trong xóm cả buổi mồ hôi mồ kê, về nhà, cái Hà thích khoanh chân chân ngồi ở đầu mấy tấm gỗ của cỗ áo quan chưa dùng nhìn ra vườn chuối. Cứ ngửi mùi trầu bà vừa nhai dập là không hiểu sao con bé rất yên tâm.
Rồi cũng hết chiến tranh. Bà theo chân mấy đứa cháu trở ra Hà Nội. Ở lại làng chỉ còn bà cô ruột cái Hà cùng mấy đứa con. Ngày ông đi kháng chiến, cô nó theo mẹ đưa em về làng tản cư, rồi thì làng bị Pháp chiếm, thành làng tề. Con gái thị thành da trắng tóc xanh mới mười sáu tuổi bị Tây bắt đi phu xây lô cốt ở đầu cầu, bà hoảng, đánh tiếng gả cô để cô được yên thân. Thế là kháng chiến thành công cô nó không thể trở ra Hà Nội được nữa, thành người nhà quê từ ấy. Cô chở bộ quan tài của bà về trên nhà, ngả ra thành bộ phản cho bầy con lăn lóc. Mấy tấm ván gỗ vàng tâm đã được bào bóng loáng, giờ càng bóng nhờ mồ hôi và đít trẻ con. Khi nào bà nằm xuống thì cả nhà sẽ đem mấy tấm ván ghép mộng lại, thế là thành cỗ áo để bà nằm. Rất oách. Cái Hà biết vậy từ lúc bé tí, biết, bà nó rất hãnh diện vì tậu được bộ quan tài để có chết đi thì bố mẹ cô chú nó sẽ không phải lo toan gì.
Hơn hai mươi năm sau bà cái Hà đi theo ông nó. Không biết tại sao mà rồi cỗ áo quan của bà không thấy chở ra Hà Nội. Bà về lại làng trong bộ ván mua theo tiêu chuẩn dành cho người chết tại cửa hàng làm quan tài ở phố 305, gần phố Lò Đúc nhà nó. Áo quan mậu dịch làm bằng gỗ tạp, sơn đỏ loét, không ghép mộng mà đóng đinh, chỗ hở chỗ vênh, phải nhờ vả chọn mãi mới được một cỗ tàm tạm cho bà.
Cỗ áo bà cái Hà dành dụm tự tậu cho mình lúc còn chưa tới tuổi sáu mươi vẫn là cái phản lên nước bóng ngời ở trên nhà bà cô nó.
Đám chắt của bà không đứa nào biết thực ra đó là bốn tấm ván của một cỗ quan tài được tậu từ sáu mươi năm về trước, được cụ của chúng tự chuẩn bị, để con cháu không phải khổ, lúc cụ sắp bước qua tuổi sáu mươi.
Cái Hà cứ thắc mắc một mình mãi suốt bao năm, còn hai tấm ván ngắn của cỗ áo mà bà tậu sớm thế nhưng vẫn không được nằm, cũng bằng gỗ vàng tâm, hai tấm gỗ ấy phiêu dạt nơi đâu không biết nữa.
Berlin, 24. 07.2022 – 07. 03. 2024
Rút từ SÔNG CÒN CHƯA CẠN
-
Người phụ trách Văn Việt:
Trịnh Y Thư
Emails:
Văn:
Thơ:
Nghiên cứu – Phê bình:
Vấn đề hôm nay:
-
DANH NGÔN
-
Viết là một hình thức trị liệu; đôi khi tôi tự hỏi làm thế nào tất cả những người không viết, sáng tác hoặc vẽ có thể thoát khỏi sự điên rồ, u sầu, hoảng loạn và sợ hãi vốn có trong thân phận con người.
-
Writing is a form of therapy; sometimes I wonder how all those who do not write, compose, or paint can manage to escape the madness, melancholia, the panic and fear which is inherent in a human situation.
-
(Graham Greene, Ways of Escape, 1980)
-
Viết, tôi nghĩ, không tách biệt với sống. Viết là một dạng sống kép. Nhà văn trải nghiệm mọi thứ hai lần. Một lần trong thực tại và một lần trong tấm gương luôn chờ đợi trước hoặc sau.
-
Writing, I think, is not apart from living. Writing is a kind of double living. The writer experiences everything twice. Once in reality and once in that mirror which waits always before or behind.
-
(Catherine Drinker Bowen, The Atlantic, số tháng 12, 1957)
-
Tôi có thể viết những thứ rác rưởi, nhưng văn chương rác rưởi thì người ta bao giờ cũng có thể sửa. Chứ một trang trống thì đành thua.
-
I may write garbage, but you can always edit garbage. You can't edit a blank page.
-
(Jodi Picoult, npr ngày 22.11.2006)
-
Tôi chưa bao giờ bắt đầu một bài thơ mà tôi biết trước kết thúc. Viết… là khám phá.
-
I have never started a poem yet whose end I knew. Writing... is discovering.
-
(Robert Frost, Selected poems, ed. 1963)
-
Nếu có một cuốn sách bạn muốn đọc nhưng nó chưa được viết thì bạn phải viết đi.
-
If there's a book that you want to read, but it hasn't been written yet, then you must write it.
-
(Toni Morrison, bài nói tại Hội đồng Nghệ thuật Ohio 1981)
-
Cứ viết đi, bất kể điều gì. Vòi mở thì nước mới chảy.
-
Start writing, no matter what. The water does not flow until the faucet is turned on.
-
(Louis L’Amour, Education of a Wandering Man, 2008)
-
Bài viết mới
- Nông dân không thể chỉ là một “nghề” 6 Tháng Mười, 2025
- Quảng Trị 1972 và Mưa Đỏ, lịch sử và sự vô minh 6 Tháng Mười, 2025
- Lưu trú sáng tác có cần sự xuất hiện của giám tuyển không? 6 Tháng Mười, 2025
- Nhạc sĩ Trần Tiến sao cứ yêu mãi phố mùa thu ấy 6 Tháng Mười, 2025
- Ngày giỗ của “Người rong chơi Sài Gòn” 6 Tháng Mười, 2025
- Các mỏ đất hiếm ở Myanmar đang đầu độc các dòng sông Thái Lan 5 Tháng Mười, 2025
- Tiếng Việt từ TK 17: một số cách dùng như đạo bụt, giáo bụt… kiếp, nghiệp, kệ, pháp môn, mục liên, tì lô… (phần 50B) 5 Tháng Mười, 2025
- Những ngọn gió (trích chương 1) 5 Tháng Mười, 2025
- Cuốn sách mới của nhà văn Nga mô tả nhân vật Tổng thống Nga trẻ lại nhờ những con đỉa và máu trinh nữ 5 Tháng Mười, 2025
- 86 quốc gia gửi phim tranh giải Best International Feature Film tại giải thưởng Oscar lần thứ 98 (2026) 5 Tháng Mười, 2025
- Chủ nghĩa dân tộc tai họa – sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 3) 5 Tháng Mười, 2025
- Thơ Nguyễn Viện 5 Tháng Mười, 2025
- Tây Nam 4 Tháng Mười, 2025
- Hoàng Chính và truyện Thư tình viết muộn 4 Tháng Mười, 2025
- Chuối và ngôn ngữ văn chương bung phá 4 Tháng Mười, 2025
- Kiều bào gởi bao nhiêu tiền về Việt Nam trong 50 năm qua? 3 Tháng Mười, 2025
- Dịch thuật là một nghệ thuật tái tạo văn bản 3 Tháng Mười, 2025
- Chủ nghĩa dân tộc tai họa – sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 2) 3 Tháng Mười, 2025
- Thơ Lê Thanh Trường 3 Tháng Mười, 2025
- Báo Thơ tháng 9-2025, số đặc biệt Thời Hiện Đại 3 Tháng Mười, 2025
- Tưởng niệm 50 năm ngày Saint-John-Perse ra đi (20/9/1975): Lời giới thiệu cho một tập thơ dịch sắp ra mắt “Những ngọn gió” (Vents) của Saint-John Perse 2 Tháng Mười, 2025
- Lũ ống và lũ quét đâu chờ bão trong những cơn lũ cuối mùa… 2 Tháng Mười, 2025
- Trần gian thưa thớt – Khi nhân cách suy đồi và kẻ trí dửng dưng 2 Tháng Mười, 2025
- Khai trương M² Gallery 2 Tháng Mười, 2025
- Bùi Chát, chúng ta đang trôi đi đâu? 1 Tháng Mười, 2025
- MƯA NGANG, mưa mà ngang, hay là mưa mà cũng ngang? 1 Tháng Mười, 2025
- Cái đẹp mỹ thuật Việt Nam từ Đông Dương tới Lê Quang Đỉnh (4) 1 Tháng Mười, 2025
- Thơ Trung Dũng Kqđ 1 Tháng Mười, 2025
- Cái đẹp mỹ thuật Việt Nam từ Đông Dương tới Lê Quang Đỉnh (3) 30 Tháng Chín, 2025
- Triển lãm “Bên bờ khoảnh khắc” của Trần Trọng Vũ 30 Tháng Chín, 2025
- Nguyễn Duy: Nhà thơ du / ru ca 29 Tháng Chín, 2025
- Đọc tập truyện Hạt U Minh của Trần Kiêm Trinh Tiên 29 Tháng Chín, 2025
- Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 314): Trần Hồng Châu, nhà thơ 29 Tháng Chín, 2025
- Schumann – Clara – Brahms, còn mãi một tình yêu 29 Tháng Chín, 2025
- Loạn “người của công chúng” 28 Tháng Chín, 2025
- Cổ vũ cho hư cấu vu khống – cái được riêng và cái mất chung 28 Tháng Chín, 2025
- Thơ Bùi Chát 28 Tháng Chín, 2025
- Thơ Lê Vĩnh Tài 28 Tháng Chín, 2025
- Chủ nghĩa dân tộc tai họa – sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 1) 28 Tháng Chín, 2025
- Cái đẹp mỹ thuật Việt Nam từ Đông Dương tới Lê Quang Đỉnh (2) 27 Tháng Chín, 2025
- Ý nghĩa của thơ từ góc nhìn hiện tượng luận 27 Tháng Chín, 2025
- Buổi giới thiệu sách Einstein “Từ những năm sau của đời tôi” 27 Tháng Chín, 2025
- Bộ phim One Battle After Another của đạo diễn Paul Thomas Anderson 27 Tháng Chín, 2025
- MỘT NÉN HƯƠNG CHO NHẠC SĨ NGUYỄN VŨ 26 Tháng Chín, 2025
- Nguyễn Khắc Dương – Đức tin Công giáo và lãng tử trần gian 26 Tháng Chín, 2025
- Tú Xương là một dịch giả rất độc đáo 26 Tháng Chín, 2025
- Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 313): Hồ Trường An, nhà văn quê Nam 26 Tháng Chín, 2025
- Hội nghị Liễu Châu định hình kết quả đàm phán Hội nghị Geneva 1954 (2) 26 Tháng Chín, 2025
- Bố và tôi và nhạc của Tchaïkovski 26 Tháng Chín, 2025
- Hội nghị Liễu Châu định hình kết quả đàm phán Hội nghị Geneva 1954 (1) 26 Tháng Chín, 2025
- Thơ Phạm Công Trứ 26 Tháng Chín, 2025
- “Giáo dục lòng căm thù” – Một bi kịch của nền giáo dục hậu chiến 25 Tháng Chín, 2025
- Cái đẹp mỹ thuật Việt Nam từ Đông Dương tới Lê Quang Đỉnh (1) 25 Tháng Chín, 2025
- Thông cáo báo chí: Triển lãm tranh Miền Thiêng Xanh của Huỳnh Lê Nhật Tấn 25 Tháng Chín, 2025
- Về triển lãm Miền Thiêng Xanh của Huỳnh Lê Nhật Tấn 25 Tháng Chín, 2025
- Nói thêm về Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục 25 Tháng Chín, 2025
- Chân mây 25 Tháng Chín, 2025
- Vài cảm nhận về truyện ngắn “Trăm ngàn” 25 Tháng Chín, 2025
- Lật lại một cuốn sách “có vấn đề” về Trung Quốc 24 Tháng Chín, 2025
- Về sự độc hại của thi đua 24 Tháng Chín, 2025
- Vĩnh biệt Tiểu Tử 24 Tháng Chín, 2025
- Provenance: Vùng trống nguy hiểm trong nghệ thuật Việt Nam 24 Tháng Chín, 2025
- Albert Einstein, Từ những năm sau của đời tôi 24 Tháng Chín, 2025
- Thơ Bùi Chát 24 Tháng Chín, 2025
- Giới thiệu Nghệ sĩ và Tác phẩm – Triển lãm Nghệ thuật Thường niên “Dòng sông nội tại” 24 Tháng Chín, 2025
- Tâm sự tháng Chín 23 Tháng Chín, 2025
- Cha tôi 23 Tháng Chín, 2025
- Về thơ Đoàn Huy Giao 23 Tháng Chín, 2025
- Tháo chạy khỏi thơ mình 23 Tháng Chín, 2025
- Nơi chắp cánh cho tình yêu âm nhạc Beethoven của tôi 23 Tháng Chín, 2025
- Đưa AI vào giảng dạy từ lớp 1: Tầm nhìn xa hay bước đi quá vội? 22 Tháng Chín, 2025
- Một hôm… 22 Tháng Chín, 2025
- Công trình Giáo dục của Đạo Công giáo trong những biến động của xã hội Việt (1930-1990) 22 Tháng Chín, 2025
- Nguyễn Hữu Liêm bước gập ghềnh trên đường về quê mẹ 21 Tháng Chín, 2025
- Mendelssohn, nước Ý và tôi 21 Tháng Chín, 2025
- Emmanuel Mounier và chủ nghĩa nhân vị 21 Tháng Chín, 2025
- Hội hoạ Phùng Thanh Hà – Cứ nằm xuống và nhắm mắt, sẽ thấy 21 Tháng Chín, 2025
- Thơ Ái Điểu 21 Tháng Chín, 2025
- Dòng nhạc kỷ niệm với nhạc cũ miền Nam (kỳ 354): Tuyển tập “Những Tình Khúc Tiền Chiến Tiêu Biểu” – Con Thuyền Xa Bến (Lưu Bách Thụ) 21 Tháng Chín, 2025
- Tự sướng với lòng yêu nước? 20 Tháng Chín, 2025
- Chút day dứt với ông Lê Huy Ngọ 20 Tháng Chín, 2025
- Giọng nói của Hind Rajab: Tiếng kêu cả thế giới không hồi đáp 20 Tháng Chín, 2025
- Vài suy nghĩ về Thảo Trường và truyện ngắn “Cái hố” 20 Tháng Chín, 2025
- Cuộc chiến Quảng Trị và phim Cỏ lau 19 Tháng Chín, 2025
- Tên Dinh Ái Tử và thị trấn Ái Tử trở thành tên của một cửa biển! 19 Tháng Chín, 2025
- Khi một người đàn ông yêu một người đàn bà 19 Tháng Chín, 2025
- Thối não 19 Tháng Chín, 2025
- Bùi Chát: Tự thân như một công cụ – tường thuật về một tình huống nghệ thuật 19 Tháng Chín, 2025
- Cúi đầu trước nỗi nặng không tên 19 Tháng Chín, 2025
- Thơ Quảng Tánh Trần Cầm 19 Tháng Chín, 2025
- “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ” 19 Tháng Chín, 2025
- Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 312): Hoàng Chính Nghĩa 18 Tháng Chín, 2025
- Phòng sau ra giúp giống dòng Rồng Tiên 18 Tháng Chín, 2025
- Con người một chiều – Lý thuyết phê phán xã hội 18 Tháng Chín, 2025
- Xa mãi Phi châu & vĩnh biệt Robert Redford 18 Tháng Chín, 2025
- Một khoảng lặng trong trăm năm Đoàn Giỏi 17 Tháng Chín, 2025
- Từ 17 Tháng Chín, 2025
- Phạm Ngọc Lân: Một tác giả, một cuốn sách viết bằng ba ngôn ngữ “De père inconnu” – “Cha Vô Danh” – “Unknown Father” 17 Tháng Chín, 2025
- Thơ Đoàn Huy Giao 17 Tháng Chín, 2025
- Nghịch lý bằng cấp và thực lực khoa học ở Việt Nam 16 Tháng Chín, 2025
Danh sách liên kết