Báo Văn Nghệ của Hội nhà văn Việt Nam, tháng 7/1992 đăng truyện ngắn Linh nghiệm của tác giả Trần Huy Quang, hội viên Hội nhà văn VN, khi đó đang là phóng viên ban Văn xuôi của báo Văn Nghệ.
Điều khác lạ xảy ra là chỉ 4 ngày sau khi số báo này ra mắt, nó liền bị thu hồi và có lệnh hủy. Tất nhiên việc đó được tiến hành một cách kín đáo, không công khai, nhưng dù sao người trong ngoài giới cũng biết. Người ta cho rằng tác phẩm hư cấu này ám chỉ sự nghiệp một nhân vật lịch sử được tôn sùng thờ phụng, − một sự ám chỉ theo lối giải thiêng, cũng tức là báng bổ, xét theo quan niệm chính thống. Và bởi vậy, nó được xem như một lỗi lầm cần phải bị xử trí. Có điều là mọi sự luận bàn về mức độ lỗi lầm, về phạm vi trách nhiệm của những người liên can (người viết, những người biên tập, người duyệt và quyết định cho đăng) – đều được tiến hành trong chỗ riêng kín, không công khai. Do thế, ngoài việc tương đối rõ là tác giả Trần Huy Quang bị treo bút 3 năm (việc gọi là “treo bút” này cũng diễn ra theo kiểu thông tin nội bộ, không công khai), trong giới nhà văn cũng có những đồn đãi rằng một vài người giữ trọng trách ở báo Văn Nghệ phải chịu một mức độ trách phạt nào đó, tuy không có thông tin gì thật là rõ ràng.
Vậy là, với việc truyện ngắn Linh nghiệm được đăng tải rồi số báo Văn Nghệ đăng truyện này bị thu hồi để tiêu hủy, trên thực tế ngay sau mấy năm cao trào đổi mới đã nghiễm nhiên xảy ra một vụ án văn chương: một tác phẩm bị xem là báng bổ nhân vật được sùng bái, người sáng tác ra tác phẩm và những người can dự việc công bố tác phẩm ấy đã bị kiểm điểm, trừng phạt, tuy các việc “luận tội”, “xét xử” đó hầu như đều diễn ra trong bóng tối.
Nhắc đến “vụ án” này, chúng ta không có mấy chứng từ làm cứ liệu, tuy một vài trang hồi ức đời văn đây đó cũng đã xác nhận có “vụ án” này. Chỉ có toàn văn truyện ngắn Linh nghiệm thì vẫn còn, bởi số báo Văn Nghệ đăng tải truyện ngắn này, tuy bị thu hồi nhưng vẫn có không ít những tờ sót lại. Đây hầu như là chứng từ chủ chốt của vụ án mang tên nó.
Đọc lại truyện ngắn này sau vài chục năm kể từ lúc nó ra mắt và khiến tác giả của nó cùng một số người liên can bị lâm nạn, có lẽ rất nhiều bạn đọc hôm nay sẽ không tiếp nhận nó theo lối nó ám chỉ ai đó, một sự nghiệp nào đó. Điều họ dễ thừa nhận chỉ là một tham vọng lũng đoạn đám đông, được tác giả vạch ra, từ mưu đồ tới kết quả. Đối với nhân loại, đấy là một ý tưởng cảnh tỉnh mang tính bao quát. Tất nhiên đấy là người ta chưa tính tới những người chăm chăm hộ vệ các thần tượng của mình, lúc nào cũng lo ngại thiên hạ đụng chạm đến. Song, đã có tâm lý như thế thì không chỉ truyện ngắn này mà có thể rất nhiều tác phẩm khác cũng sẽ dễ bị xem là xúc phạm những thần tượng nhất định!
Chợt nghĩ tới những hằn thù đã trút lên “Charlie Hebdo” mới vừa đây, ta lại thấy mừng cho Trần Huy Quang: Cái án anh đã bị mang dù sao cũng… nhẹ! Và đã qua rồi! Tuy thế, với không ít người, những tâm lý hằn thù tương tự hẳn vẫn còn chưa qua khỏi được, vẫn còn cần được chữa trị.
Đọc lại truyện ngắn này như nhắc lại một trải nghiệm của giới văn chương, nhưng chớ quên nó có thể còn lặp lại, trên đường đời và đường văn.
Tháng 4/2015
LẠI NGUYÊN ÂN
Truyện ngắn của Trần Huy Quang
Hinh là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân không nghèo nhưng cũng không giàu có gì lắm. Cha anh ta có đỗ đạt, đã từng làm quan, nhưng tính khí thất thường, lòng đầy ham hố nên quan trên không mặn mà gì nên đã bỏ quan, khi đi dạy ở chốn kinh kỳ, khi ngồi bốc thuốc ở vùng sơn cước. Hinh thừa hưởng ở dòng họ và khí chất của vùng chôn rau cắt rốn cái nết cơ bản cần cho kẻ có hoài bão tham chính là tính đa mưu túc kế, lòng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt, bạn bè cùng lứa không ai dám kết thân làm bằng hữu. Hinh sáng dạ, lại có chí, học đâu biết đó, hai mươi tuổi làm thơ chữ Hán, đọc Rút-xô, Mông-tét-ski-ơ… bằng nguyên bản nhưng Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm một dạ xuất ngoại. Đạo học không có đường tắt, mà lập thân bằng con đường học vấn thì mù mịt, xa vời quá. Bằng văn chương thì chỉ khi thế cùng lực tận, bất đắc dĩ mà thôi.
Hàng ngày Hinh sống như người nuốt phải quả chuỳ gai vào bụng, buốt nhói, nhăn nhó, bồn chồn, vừa ngồi đã đứng lên, mới ngủ đã vùng dậy, trán nhăn tối, mắt xa xăm. Như đang phải lòng một tiểu thư khuê các…
Nhưng Hinh đâu phải là người dại dột, không bao giờ để phí chí khí, sức lực vào chuyện đàn bà. Vớ vẩn. Chiếm mười trái tim đàn bà đâu có khó nhưng một trái tim nhân loại thì phải vượt trùng dương. Hinh ngước cái nhìn mong đợi lên bầu trời, hoài vọng bóng dáng một con tàu, tìm kiếm một phép thần thông, mong đợi một dấu vết của cõi Thiện hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để đưa về cho chúng sinh.
Tháng ngày như sợi chỉ căng mà lòng khao khát làm trai hải hồ, khắc khoải mong một phút được quỳ dưới chân bậc Chí Thánh và nói: “Ơn Người, Người là nguồn ánh sáng dẫn dắt chúng con… Lũ chúng sinh con khao khát được gặp Người…”
Thế rồi như sự linh nghiệm của lời nguyện cầu, một đêm giông tố bão bùng, đất trời như trong cơn đau sinh nở, Hinh đã lên chín tầng Thánh địa để được gặp đấng Chí Linh.
Bắt đầu là một ngọn nến, ánh lửa dịu ấm toả một quầng sáng hình nón. Vầng sáng ấy toả hào quang, tia hào quang không thẳng mà có hình gấp khúc. Cuối cùng ở trung tâm vầng sáng ấy hiện ra khuôn mặt kiều diễm của một cô gái tóc vàng.
− Kính thưa… − Hinh bàng hoàng thốt lên.
− Không phải! − Cô gái mỉm cười độ lượng − Tôi chỉ là sứ giả của đấng Lập Đạo. Anh có lời thỉnh cầu gì gấp lắm không? Người đang bận, việc hành đạo mới chỉ ở bước khởi đầu…
− Kính thưa, tôi là người của xứ sở Nhọc nhằn tăm tối…
− Thôi anh không cần phải nói, chàng trai ạ, người xứ Nhọc nhằn có khát khao ánh sáng thì việc hành đạo mới càng được dễ dàng. Đây anh cầm lấy, theo Đạo thư này, anh sẽ tìm được chân lý.
Vị sứ giả trao cho Hinh đạo thư quý giá ấy rồi nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi chỉ còn như một cái chấm chính giữa vầng hào quang rồi biến mất giữa bao la. Hai tay đỡ cuốn sách trước trán, Hinh vẫn quỳ và thành kính đặt lên đó một cái hôn, rồi anh run run giở ra đọc.
“Hãy đi về phía Nam theo con đường một bên là cây và một bên là nước, cuối con đường có quán bia hơi và thịt chó, đừng vào chốn đam mê ấy và đi thật chậm. Dọc đường sẽ có người hỏi: “Có đi không?” thì đừng đi. Đó cũng là người cần lao chứ không phải ma quỷ cám dỗ, nhưng phải đành từ chối. Đi tiếp sẽ gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt đã là vườn hoa nhỏ. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất để “tìm cái này”. Cứ thế… chỉ cần một lúc sau, anh sẽ có được thiên hạ…”
Hinh ấp cuốn đạo thư vào ngực tức tưởi. “Trời ơi, bảo bối, bảo bối…” − Hinh sung sướng hét toáng lên. Tiếng anh vang rất to trong đêm và lúc ấy Hinh mới biết mình vừa qua một giấc mơ. Nhưng trời ơi, tại sao những điều anh nung nấu trong tâm can bấy lâu nay lại được giải đáp trong mơ. Anh sung sướng và cảm động đến mức nước mắt giàn giụa. “Ôi chúng sinh nhọc nhằn và tăm tối của ta, bảo bối này sẽ soi sáng đường chúng ta đi…”
Sáng hôm sau, Hinh thành kính chuẩn bị lên đường. Quần áo tươm tất, mũ miện đàng hoàng. Trước nhà anh có một đại lộ chính Nam, có lẽ đúng là con đường này nên anh dấn bước ra đi. Một bên cây và một bên nước, hay một bên rừng và một bên biển? Anh cứ đi, qua vài đoạn phố nữa thì anh thấy mình đi đúng, con đường men theo cái hồ. Và giữa phố có hàng bia hơi thịt chó mà vài lần anh cũng đã bị cuốn vào đó. Ôi, sự linh nghiệm không sai một dấu phẩy. Đường phố trong veo, lui cui dăm chiếc xe đạp chở kẹo bánh, than tổ ong đi bỏ mối cho các hàng nước vỉa hè, lọc cọc đôi chiếc xích-lô cà tàng đi tìm khách. Vài cô điếm vật vờ.
− Có đi không?
Một cô gái điếm rủ rê. Hinh nhớ đến giấc mơ mà thấy lạnh xương sống, trong mơ cũng ba chữ ấy. Đến cuối phố, Hinh thấy một ki-ốt sách báo thật, chủ quán vừa mở cửa. Tại sao có sự kỳ diệu thế này, khi tỉnh anh nào có biết chỗ này có một quán sách? Đi tiếp, gặp một ki-ốt sách báo nên rẽ trái, trước mặt đã là vườn hoa nhỏ. Hinh liền rẽ trái, đi một đoạn qua các cửa hàng bách hoá đã thấy vườn hoa Mùa Xuân.
Kẻ hành đạo không chần chừ đắn đo, đi tới giữa vườn hoa, lòng như ngây ngất hơi men, một nửa muốn bay lên, một nửa muốn trì xuống. Mắt Hinh hoa lên, đâu Thiên Thần, đâu Địa Thánh, không biết con đang đứng giữa Địa đàng hay mặt đất. Rồi anh chợt tỉnh lại… “Tìm cái này” là tìm cái gì, anh không hiểu nhưng không dám nghi ngờ lời vàng ngọc của đấng Tiên tri. Vườn hoa nằm cạnh đại lộ, lúc này đang vắng hoe, chỉ có mấy ông già tập thể dục muộn, dăm chàng thanh niên đá bóng và một tốp học sinh cấp ba sắp đi qua. Bây giờ anh phải khom người xuống, đi chậm từng bước một, mắt nhìn xuống mặt đất… Hinh vừa cúi lom khom chăm chú tìm kiếm vừa lẩm nhẩm đọc. Anh như bị thôi miên, không biết mình đang tìm cái gì, nhưng anh cứ trung thành với lời chỉ giáo, người cúi lom khom, mắt dán xuống đất và bước từng bước một chậm rãi.
Những người qua đường lấy làm lạ.
Bắt đầu là một nhóm học sinh cấp ba, mấy đứa con trai vốn hiếu kỳ, đi đến và tự hỏi, không biết ông kia tìm cái gì nhỉ? Chúng không thể tự giải đáp được.
− Anh ơi, anh tìm cái gì đấy?
Hinh mải mê không hề nhìn lên, chỉ buột miệng trả lời:
− Tìm cái này.
Đối với chúng, câu trả lời ấy, làm ngứa ngáy chân tay. Nhất định cha này mất nhẫn, dây chuyền hay hạt xoàn gì đó thôi, chúng mình mà vớ được thì hay lắm.
Thế là cả bọn, cặp sách dồn lại một đống, nhảy vào cuộc tìm kiếm. Khi cả một đám người bò ra sục sạo tìm kiếm thì sự lạ tăng lên hàng chục lần. Người đi qua vườn hoa không bao giờ hết, dân lang thang thất nghiệp, dân nhà quê bỏ ra thành phố kiếm cơm, đang đói rách hy vọng vớ được một chút may mắn, những người này đi đến và không thể không hỏi:
− Tìm cái gì đấy?
Lần này thì tụi trẻ con đã mau miệng trả lời:
− Tìm cái này.
Câu này đối với người lớn làm ngứa ngáy đầu óc. Thế là họ bỏ cả gồng gánh, xe cộ, nhảy vào quảng trường.
Hỏi tiếp đến…
Bây giờ là dân xích lô, ba gác, dân ăn xin, trẻ mồ côi bán báo, dăm cô điếm, đám bụi đời móc túi nghe tin cũng tìm đến.
− Tìm cái gì đấy?
− Tìm cái này.
− Mả mẹ chúng nó, giấu như mèo giấu cứt. Nhất định là hạt xoàn, ru-bi, có lẽ tối qua, tụi đào đá đỏ qua đây đánh nhau đổ ra bì đá đỏ không chừng. Mẹ chúng nó, ông mà biết trước, ông rào lại, ông đuổi tất. Ê, ông kia được một viên rồi hả, bắt nộp phạt chúng mày…
Cứ thế…
Và số người hy vọng có một chút no ấm bò lê trên vườn hoa để tìm vật báu, đến lúc này đã đông như một đàn kiến.
Hinh chợt nhận ra tiếng ồn của đám đông và anh ngạc nhiên đứng lên nhìn họ, hoá ra thiên hạ đã bu lại xung quanh mình. Một lúc sau anh sẽ có được thiên hạ. Hinh sung sướng đến rơm rớm nước mắt và mãn nguyện ra về.
Cái đám đông ấy cứ như dòng nước trong lòng sông, trôi đi chứ không cạn. Người đến trước, thất vọng ra về trước, người đến sau, thất vọng ra về sau. “Tìm cái này” là cái gì thì không ai biết, nhưng cứ hy vọng có chút no ấm mờ mờ phía trước cũng đã hấp dẫn để họ trở thành một dòng nước.
Trưa.
Rồi chiều.
Và… vẫn còn đám đông xúm xít giữa vườn hoa Mùa Xuân.
TRẦN HUY QUANG
Nguồn:
Văn Nghệ, Hà Nội, s. 27 (04/07/1992)