VĂN HỌC MIỀN NAM 54-75 (152): NHẤT LINH (5) – Giòng sông Thanh Thuỷ

(Chương 7, 8, 9, 10)

Chương bẩy

Hai ngày hôm sau, nước mỗi ngày một lên cao. Dòi bọ ở cầu tiêu các nhà bên cạnh trôi lềnh bềnh khắp nhà dưới. Chúng định leo lên cầu thang như một đạo quân cảm tử xung phong. Nam phải lấy ống phụt thuốc DDT phun chặn đường.

Tứ suốt ngày đi ra đi vào trên cái gác nhỏ, lúc nào ở mũi cũng để một cái khăn mù-xoa có tẩm nước hoa của Nam để tránh mùi hôi thối của nước bẩn. Nghệ cả ngày ngồi đem những sách “Trung Quốc chi vận mệnh” của Tưởng Giới Thạch hay sách nghiên cứu về “Duy sinh luận” của Trần Lập Phu, ra đọc có vẻ mê mải.

Ngọc cùng Nam ngồi ở cửa sổ trông ra đường để đón các thuyền bán thức ăn, quà bánh và nhất là thuyền bán nước. Ngọc nhìn về dẫy núi xa bao bọc Văn Sơn và để tâm hồn phiêu diêu về Mông Tự. Giá lần này được đi công tác với Thanh, cùng ngồi ở cửa sổ đón hàng quà bánh qua lại thì dẫu nước to đến một tháng chàng cũng không cần. Ngọc mỉm cười nghĩ thầm chắc ở Mông Tự trời không mưa nữa, giếng đã cạn, rau của Thanh không có nước tưới chết héo khô và Thanh phải ăn cơm với ruốc. Cô ả cả ngày nằm lỳ trong chăn mãi cũng buồn như chấu cắn. Nghĩ đến hai chữ chấu cắn, Ngọc lại mỉm cười tự nhủ:

“Chắc cô ả oán anh chàng ‘Ngọc châu chấu’ lắm. Những quả lựu chắc đã chín, da lựu vì nắng cũng nám hồng như má Thanh. Những lúc không được đi khỏi nhà, chắc Thanh chỉ còn một cách là ra vườn sưởi nắng, ngắm lựu nở hoa và rau héo dần. À mà cô ả cũng chẳng xót ruột gì, tha hồ ăn những hạt lựu trắng mọng nước và thơm ngọt. Cô ả chỉ nói hão: lúc mình về chắc một quả lựu cũng không còn.”

Nam thấy Ngọc mỉm cười luôn, liền nói đùa:

“Cô chở thuyền bán bún xinh đấy chứ? Tôi thấy chú mỉm cười luôn mà cô ả xem chừng cũng cảm chú, cứ chèo đi chèo lại mãi, nhìn chú không chớp mắt. Để tôi gọi thuyền cô ả lại và rút lui vào trong để chú mua bún, tha hồ hai bên nói chuyện.”

Ngọc đáp:

“Phải đấy, nhờ chị gọi thuyền cô bán bún lại đây em mua.”

Nam trở vào bảo Tứ và Nghệ:

“Gạo cần để phòng xa. Hôm nay cả nhà ăn bún nhé.”

Nam lấy bát rồi tươi cười nhìn về phía cửa sổ:

“Tôi đương dở tay chú mua hộ dăm cân bún, ăn cả buổi chiều luôn thể.”

Nàng nói với Ngọc:

“Cả nhà hôm nay có đau bụng là tại chú đấy.”

Nghệ ngồi điềm nhiên đọc sách. Tứ nói:

“Chắc họ lại lấy nước bẩn, ăn độc chết.”

Ngọc vừa mặc cả, nói đùa bỡn với cô hàng bún xinh đẹp vừa nghĩ thầm:

“Nghệ mới là lợi hại, còn Tứ chắc kiểu con ông cháu cha, cách mệnh phong lưu công tử, không có gì đáng e ngại.”

Chàng cố kéo dài không cho cô hàng đi, nói bông lơn chơi như một người vô tâm, thích trêu gái, để Nghệ khỏi nghi kỵ, chỉ cho chàng là một cán bộ tầm thường, phụ trách có một việc liên lạc vì thích đi đây đi đó.

Trong những ngày ở nhà Nam, khi bàn về vấn đề gì quan trọng, Ngọc chỉ ngồi nghe và tỏ vẻ không chú ý. Lúc rỗi chàng đem đan lại mấy đôi hài sảo hoặc giúp Nam về việc bếp nước. Chàng làm như chữ nho cũng chỉ biết một ít chữ thông thường, nhờ Nghệ dậy học và làm bộ rất tối dạ. Nói tóm lại chàng chỉ là một tay lông bông loăng quăng, một cán bộ ‘châu chấu’.

Chiếc áo len đàn bà của Thanh cho, những đêm trời lạnh chàng lấy ra mặc; buổi trưa trời nắng chàng cất vào túi vải nhưng bao giờ cũng cố ý cho Nghệ nhìn thấy, may Nghệ có nhận ra đó là áo Thanh thì việc ấy càng tỏ ra chàng vẫn thân với Thanh; nếu Nghệ thật là nhân tình của Thanh, chắc Nghệ sẽ ghen nhưng cái đó không hề chi, điều cốt yếu là chàng đã bị Thanh cám dỗ.

Rồi một hôm nước rút cạn. Nam giữ lời hứa mời mấy người đi ăn “Qua cầu mễ phẩn” ở Cổng Nam. Sau những ngày ăn lảm nhảm, mọi người đều ăn một cách ngon lành, trừ Nghệ. Tứ lấy thìa húp nước dùng và nhai các miếng thịt tái như người vẫn thích ăn ngon vì tình thế phải nhịn ít lâu. Mỗi lần nuốt thì cái yết hầu lại đưa lên hạ xuống trông một cách rõ rệt, khiến Ngọc phải quay mặt đi vì ngượng cũng có và nhất là vì thương hại một người như Tứ mà lại lạc loài vào hàng ngũ Việt Minh. Riêng Tứ ăn luôn hai bát mà vẫn có vẻ thòm thèm. Ăn xong nhà hàng bưng bốn cốc cà-phê thơm ngon. Tứ hỏi Nam:

“Tôi không ngờ là ở đây cũng có cà-phê ngon thế này.”

Ngọc uống một ngụm rồi thốt lên:

“Ngon không kém gì cà-phê hàng cô Thanh ở Mông Tự.”

Nam nói:

“Số là các anh không biết. Ở đây gần biên giới, anh em có cho tôi rất nhiều cà-phê. Lúc nãy tôi vào nhà trong để tự rang lấy. Tôi rang khéo lắm. Hôm nào các anh đi, tôi sẽ rang và pha nước cốt để các anh đem đi. Dọc đường thiếu gì suối nước trong, các anh pha uống cho đỡ khát.”

Nam mỉm cười rất tình tứ:

“Lúc uống các anh phải nhớ đến tôi đấy nhé.”

Chương tám

Nam tiễn ba người ra tận Cổng Đông để lên đường về Ma-Lì-Pố. Lúc ba người qua, cái cầu đá còn hơi ngập nước. Nam dừng lại, đợi ba người sang bên kia cầu rồi giơ tay vẫy:

“Hẹn các anh hai tháng sau và chúc mọi việc may mắn. Cà-phê nước cốt của tôi đặc lắm, đợi khi thật khát hãy uống, còn dọc đường không thiếu gì hàng quán. Có cả rượu ngon, anh Tứ đừng uống say quá sợ đi không nổi hay là mê cô hàng rượu nào đó ở lại thì hỏng việc đấy. Thôi chào các anh đi.”

Nam quay trở lại và tiếp tục đời sống nữ y tá và cô đỡ. Nàng tin Ngọc sẽ thành công và chắc chỉ độ vài ba ngày nữa Ngọc sẽ trở về Văn Sơn. Lúc đó nàng sẽ đánh điện về Mông Tự và giữ Ngọc ở lại Văn Sơn dăm ba ngày. Lòng nàng tự nhiên thấy yêu đời và vui vẻ.

Đường còn trơn nên rất khó đi. Có lắm chỗ sũng nước hay lầy lội quá, đi có khi ngập bùn tới đầu gối, nên Ngọc phải cõng Tứ và Nghệ qua.

Ngọc cố ý chọn con đường thấp vì con đường lên cao có nhiều phong cảnh đẹp chàng để dành khi nào được cùng đi với Thanh. Vì con đường thấp cứ xuống dốc mãi mà trời lại nắng to nên Tứ cứ đòi cho được cái bi-đông nước cốt cà-phê Nam đã pha. Ngọc nói:

“Anh không nhớ lời chị Nam dặn à. Lát nữa đến một cái suối trong anh tha hồ uống. Từ Văn Sơn về nước không có chỗ nào bán cà-phê nữa.”

Tứ nói:

“Cà-phê để lâu sợ hỏng.”

Ngọc đáp:

“Cái đó anh không lo. Lần nào tôi qua Văn Sơn chị Nam cũng pha nước cốt, cho thật nhiều đường, để lâu ngày uống vẫn ngon như thường.”

Mọi người đã khô cả cổ lại sắp lên một cái đèo cao, đường lên dốc độ nửa cây số và không có bóng cây nào. Lên khỏi cái dốc, Tứ lại đòi uống cà-phê. Ngọc giữ chặt lấy cái bi-đông đeo ở dây lưng, bảo Nghệ:

“Xuống hết đèo này có chỗ suối trong, anh khuyên anh Tứ chịu khó gắng đợi. Các anh có biết cái đèo này là cái đèo gì không? Đèo này gọi là đèo ông Tháo.”

Rồi Ngọc giải thích:

“Đồng chí Tháo người đã nhiều tuổi lại yếu vẫn hay đi công tác ở biên giới. Anh Tháo phải bẻ cành cây làm gậy vừa chống vừa đi. Lên tới đỉnh đèo, anh Tháo bỏ gậy xuống rồi chắp tay vái cái dốc này mấy vái, miệng lẩm bẩm: ‘Trời phù hộ cho tôi không phải lên dốc này một lần thứ hai nữa’. Anh em đồng hành vì thấy cử chỉ của anh Tháo như vậy nên mới đặt tên đèo này là ‘đèo ông Tháo’ hay ‘dốc ông Tháo’.”

Đến ngay Nghệ cũng phải tỏ ý:

“Trong đời tôi, tôi cũng chưa từng trèo một cái dốc dựng ngược như thế này, mà lại dài đến nửa cây số.”

Lên tới đỉnh ba người lại phải xuống đèo, đường dốc hơn và ngắn nhưng vẫn không có một bóng cây nào. Tứ không xuống đèo quen sợ ngã nên lắm chỗ phải ngồi bệt xuống nắm từng ngọn cỏ hay gốc cây nhỏ lê dần xuống.

Tới chân đèo quả nhiên có một lạch suối chẩy bên mặt bãi cát rộng. Nước khá trong. Tứ vục mặt xuống dòng suối uống sùm sụp, lúc ngửng lên nước chẩy cả xuống cằm. Chàng nói:

“Nước suối này ngọt mát quá.”

Rồi chàng lấy hai tay vốc nước rửa mặt, vỗ lên trán hói, miệng cười hì hì có vẻ khoái trá lắm.

“Hay ta tắm một cái.”

Ngọc can:

“Đương đi nắng tắm ngay cảm chết. Để tôi đưa các anh vào một chỗ gần đây có bóng mát, các anh nằm nghỉ một lát đã rồi có tắm hãy tắm.”

Quả nhiên đi một quãng tới một bụi cây xoè tán, bóng râm rợp cả một vùng cỏ phẳng. Ba người tháo túi vải ở trên vai ra làm gối rồi ngả lưng nằm nghỉ. Ngọc ngẫm nghĩ:

“Chỗ này đã ra tay được chưa?”

Sau chàng thấy chỉ có một chùm cây không đủ kín đáo và ở xa xa vẫn có bóng người làm ruộng. Tâm trí chàng lại nghĩ đến Thanh, có lẽ lần sau cùng Thanh đi, chàng cũng đi theo con đường thấp này cho Thanh trèo thử ‘đèo ông Tháo’. Má nàng chắc sẽ đỏ hồng lên vì nắng như quả lựu ở vườn nàng: chàng sẽ rủ Thanh đến dưới chùm cây mát này, cùng nằm bên nhau trò chuyện. Chắc Thanh không dám tắm trước mặt mình nhưng thế nào nàng chẳng vén quần ngâm chân vào nước suối mát. Hai người sẽ ngồi cạnh nhau trên những tảng đá kia, cùng lấy chân nghịch khoắng nước chẩy trên lòng cát trắng. Chàng rút thuốc lá đưa mời Tứ và Nghệ; chàng cũng hút và ngửng nhìn làn khói nhẹ đưa lên cành lá rồi tan vào các khe trời xanh biếc, ngẫm nghĩ:

“Còn thích bằng mấy ngồi ở gác nhà Thanh nhìn ngắm hoa lựu nở. Và Thanh chắc cũng cảm thấy đúng như mình.”

Ngọc mỉm cười, quên cả Tứ và Nghệ nằm bên cạnh. Lúc đó chàng mới nhận rõ lòng mình đã yêu Thanh từ lâu mà không tự biết. Nếu Thanh quả là cán bộ Việt Minh như Ninh nói, và Thanh có bỏ thuốc độc vào cà-phê bảo chàng uống, chàng cũng sẽ uống ngay, sung sướng mà uống thuốc độc của con người tàn ác muốn giết chàng; chàng thấy trước vẻ mắt cuối cùng trong đời là vẻ mắt chàng âu yếm nhìn người đã giết chàng, và hình ảnh cuối cùng trong đời chàng là hình ảnh một thiếu phụ tàn ác mà chàng đã yêu và càng yêu vì thế. Thuý đối với chàng bây giờ là một người xa lắc xa lơ, nằm trong lòng đất lạnh, chàng vẫn yêu nhưng yêu bằng một thứ tình khác. Còn Phương? Phương đẹp thì có đẹp nhưng Phương tầm thường lạt lẽo; có lẽ nếu chàng định lập gia đình thì chàng sẽ lấy Phương làm vợ, sống một cuộc đời hiền lành yên ổn. Bây giờ trong cuộc đời cách mệnh vất vả, đầy nguy hiểm chàng thấy cần một thứ tình khác thường oái oăm; đôi mắt đen sắc sảo và tâm hồn bí ẩn của Thanh tuy chàng hơi rờn rợn sợ nhưng có một sức mạnh quyến rũ lạ lùng khiến chàng mê đắm.

Ngọc để mặc Tứ và Nghệ ra suối tắm, chàng vẫn nằm yên hút thuốc lá. Thỉnh thoảng chàng lại lắc đầu không ngờ mình đã yêu Thanh đến như vậy. Còn Thanh có yêu lại chàng không, điều đó chàng không hề nghĩ tới, vì chàng cho việc khó nhất là lòng mình yêu tha thiết; người khác yêu mình mà mình không yêu lại thì chỉ là một cái tội nợ.

Tứ và Nghệ tắm xong đã cho túi lên vai và đứng chờ Ngọc. Tứ nói:

“Ngọc ‘châu chấu’ mà cũng mệt à? Sao anh bảo phải đi gấp sợ tối chưa tới được quán ngủ trọ.”

Ngọc đứng dậy, quàng túi lên vai, nói:

“Tôi đi trước các anh cố mà theo.”

Chàng đi mau quá nên Tứ và Nghệ theo không kịp.

Độ một giờ trưa, khỏi một hàng rào tre thì tới Sin-Chang. Ngọc đưa Tứ và Nghệ vào một quán ăn có hai cô người Thổ rất xinh và đều chưa có chồng. Hai cô thấy Ngọc tới thì hỏi bằng tiếng Việt:

“Anh Ngọc, lâu lắm mới lại gặp anh.”

Ngọc nói:

“Tôi giới thiệu với cô hai ông bạn quý.”

Chàng nhìn cô lớn và đẹp hơn, tiếp theo:

“Nhà có rượu ngon không? Cô cho ít đồ nhắm. Phải tự tay cô làm mới vừa lòng hai ông bạn quý của tôi.”

Cô đon đả mời ba người ngồi vào cái bàn sang nhất. Nàng nhìn ba người đều mặc quần áo nhà binh Tàu, đội mũ Tàu nhưng không có phù hiệu rồi mỉm cười nói tiếng quan hoả:

“Chuân pu sư chuân, mỉnh pu sư mỉnh, sư an nan cơ mỉnh.” [1]

Rồi nàng nói tiếp bằng tiếng Việt:

“Cầu mong cách mệnh Việt Nam thành công, để tôi chóng được về Việt Nam. Quê tôi ở Thanh Thuỷ.”

Nàng cười tình rồi đem rượu ra:

“Đối với các anh em, phải tính giá thật rẻ hay không lấy tiền cũng được, nếu các anh bằng lòng.”

Có đồ nhắm ngon, rượu hảo hạng Tứ mềm môi uống mãi. Chàng say quá, nói đùa bỡn lả lơi với hai cô Thổ, rồi cứ đòi nằm lăn ra phản làm một giấc ngủ trưa. Ngọc phải kéo dậy:

“Anh phải đi cho sớm, kẻo chiều không kịp đến trạm ngủ hôm nay. Đêm không có trăng, tôi cũng chịu không mò được đường. Anh phải ngủ rừng, trời lạnh, cọp tha hay thổ phỉ đến, tôi không chịu trách nhiệm nữa. Anh Nghệ…”

Nghệ đến giúp sức Ngọc kéo Tứ dậy rồi hai người, mỗi người một bên, vực Tứ đi cho khỏi ngã.

Hơn năm giờ chiều, qua một cái cầu đá rồi đến làng Chong-Sin-Kiều.

“Đêm ta ngủ ở đây. Hơi phiền là phải nằm ổ rơm, nhiều bọ chó lắm.”

Trong khi đợi cơm, Ngọc rủ riêng Tứ đi thăm làng. Chàng đưa Tứ xuống một cái suối ở chân làng có rất nhiều tảng đá rất bằng phẳng. Chàng bảo Tứ, giọng thân mật:

“Tôi chưa có vợ. Mà con gái ở Vân Nam đều ‘ôi’ cả. Khi nào cách mệnh thành công, nhờ anh làm mối cho một người. Quê anh ở đâu?”

Tứ đáp:

“Tôi quê vùng xuôi nhưng thầy tôi lên buôn bán ở Tuyên Quang đến bẩy tám năm rồi.”

“Nhà anh vẫn ở Tuyên Quang chứ? Anh đã lập gia đình chưa?”

Tứ lấy cái kính cận thị ra lau rồi chậm rãi nói:

“Nhà tôi hiện giờ ở Tuyên Quang.”

Muốn cho Tứ không ngượng giãi bày tâm sự riêng với mình nên Ngọc đem chuyện đời mình kể ra trước.

“Tôi có yêu một người con gái ở làng bên cạnh, sau cô ấy chết nên tôi buồn, bỏ đi Vân Nam gia nhập cách mệnh. Đến bây giờ đã gần ba năm, cỏ trên mồ Thuý – tên cô gái tôi yêu – chắc bây giờ đã lên xanh um. Tôi cũng muốn được như anh về nước thăm lại mộ Thuý, thăm chị tôi, nhưng anh Ninh không cho. Anh thật là may. Chuyến này về chắc thế nào chẳng ghé qua nhà thăm chị ấy. Anh xa chị đã mấy năm rồi?”

Tứ nuốt nước bọt, yết hầu lại đưa lên đưa xuống. Ngọc biết là Tứ cảm động lắm. Tứ nói:

“Tôi xa nhà cũng gần ba năm như chú. Gọi chú là chú tiện hơn. Tôi có hai đứa bé chúng nó kháu lắm. Khi nào chú được anh Ninh phái về, chú lại thăm hai cháu; để hôm nào tôi viết địa chỉ và mấy lời giới thiệu.”

Trời đã sâm sẩm tối hai người mới trở về quán trọ. Nhà trọ lợp tranh và thấp có trải hai cái ổ rơm trên phủ chiếu. Nghệ ngồi ở trên cái bàn thấp có bầy sẵn đồ ăn và đọc sách dười ánh đèn dầu lù mù.

“Hai anh đi đâu mà về muộn thế?”

“Chúng tôi ra suối chơi. Có những hòn đá phẳng ngồi quên cả về.”

Chủ hàng đem rượu lên. Ngọc cũng cố uống để tiếp Tứ vì Nghệ không uống rượu. Lúc đi ngủ Ngọc nằm chung một chiếu với Tứ, để dành riêng cho Nghệ một chiếu. Ngọc bảo Nghệ:

“Anh nằm riêng tha hồ ngáy. Ở Văn Sơn em đã nhiều lúc không ngủ được vì anh ngáy to quá.”

Lần đầu tiên Ngọc xưng em với Nghệ. Chàng tiếp theo:

“Em đã say rồi đi ngủ đây mai phải dậy sớm đi Ma-Lì-Pố cho khoẻ.”

Ba giờ sáng, Ngọc thức giấc và nghe tiếng Nghệ ngáy đều đều. Thấy Tứ cựa quậy người, chàng hỏi nhỏ:

“Anh thức đấy à? Để em ra bàn lấy nước anh xơi cho đỡ khát.”

Hai người vừa uống nước vừa thỏ thẻ nói chuyện. Ngọc khơi trước:

“Mỗi lúc đang đêm sực tỉnh em lại nhớ đến Thuý. Mối tình đầu có khác. Em nhớ có ai đọc cho nghe câu thơ mà em thấy hợp cảnh em lắm: ‘Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn năm chưa dễ đã ai quên’”.

Tứ nói ngay:

“Tôi biết câu ấy từ lâu, đấy là câu thơ để ở đầu cuốn Đôi bạn của Nhất Linh. Tôi lấy nhà tôi cũng là do một mối tình đầu, mỗi ngày một đằm thắm. Xa cách mấy năm, về nước tôi chỉ ao ước được về qua nhà một bận. Lâu năm chắc chẳng có mật thám nào để ý canh chừng nhà tôi nữa. Này chú, cái bi-đông cốc cà-phê đâu, lấy ra mỗi người làm một tợp.”

Ngọc nói:

“Tôi cũng muốn uống lắm nhưng phải để dành đến chỗ nào nắng mà không có nước hãy hay.”

Tứ lại kể chuyện vợ mình cho Ngọc nghe. Ngọc tỏ ý thương hại mối tình đầu đằm thắm của vợ chồng Tứ:

“Đi đường này thế nào anh chẳng về qua Bắc Giang, rồi xuống Tuyên Quang. Chị nhà tha hồ mừng. Còn em có về được cũng chỉ thấy cái mồ cò xanh, còn người cũ thì…”

Ngọc để tay lên ngực mình, chỗ quả tim.

“Người quê cũ chỉ còn ở trong lòng em mà thôi.”

“Tình cảnh chú đáng buồn hơn tôi nhiều. Khi thành công rồi tôi sẽ làm mối chú lấy người em gái của nhà tôi năm nay cũng vào trạc tuổi chú. Người rất ngoan và đẹp có tiếng ở Tuyên Quang.”

“Cảm ơn anh.”

Ngọc ghé vào tai Tứ nói rất nhỏ:

“Hai tháng nữa anh ra, em sẽ giới thiệu anh với Thanh ở Mông Tự. Cô ta người rất xinh, mắt đẹp. Vì có tính đĩ thoã nên em không muốn lấy làm vợ. Nhưng đối với anh có vợ rồi, đâu có phải việc trăm năm mà cần. Cô ta lại ở nhà có một mình, xem chừng có vẻ thành thạo lắm. Anh chắc sẽ vừa ý những lúc xa nhà…”

“Sao chú biết cô ấy đĩ thoã và thành thạo?”

“Em thú thật với anh chưa có gì giữa em với Thanh, em chỉ nghe người ta đồn. Vả lại một cán bộ quèn như em thì ăn thua gì. Điển trai như anh lại cao cấp nữa, anh chỉ muốn là được. Hẹn anh hai tháng sau, nhớ tới Mông Tự anh đến tìm em ở nhà đồng chí Việt, em sẽ đưa anh lại hàng cà-phê. Anh tán chắc ăn câu.”

Dưới ánh đèn lù mù, Ngọc thấy Tứ nuốt nước bọt và yết hầu đưa lên đưa xuống hai ba lần. Tứ nghĩ thầm đi chuyến này về nước không bao giờ trở lại Mông Tự nữa nhưng miệng vẫn nói:

“Làm cách mệnh đâu có nghĩ gì đến chuyện đó. Dẫu sao khi ra, tôi cũng muốn làm quen với Thanh, được tên ấy giúp sức Đảng sẽ mạnh thêm.”

Ngọc đã biết chắc ý Tứ muốn lắm. Chàng thầm nhủ với Thanh:

“Xin lỗi chị đã nói xấu chị. Nhưng công việc phải thế. Tứ đã hoàn toàn tin cậy nơi mình rồi; Tứ chỉ là một tay thân Việt Minh, còn Nghệ mới đáng sợ. Nghệ mới thực là chính cống cộng sản, có lẽ là một cán bộ cao cấp già giặn và nguy hiểm. Nếu mình không khéo, có thể chết vì tay này.”

Chương chín

Thanh tính từ lúc Ngọc đi đến giờ đã quá hạn mà chưa thấy về:

“Có thể Ngọc bị hại rồi.”

Nàng thấy nhói ở tim, trách thầm Ngọc.

“Đã bảo để người ta đi với, lại không cho.” Nàng tự nhủ:

“Giá có mình đi thì chắc cứu được cu cậu rồi. Đâu đến nỗi. Ngọc égale Ngốc.”

Nàng tung chăn nhỏm dậy rồi ra mở cửa sổ, ngồi vào cái ghế mây Ngọc vẫn ngồi. Mắt nàng nhìn cây lựu lá lấp lánh dưới ánh mặt trời buổi sáng, những nụ hoa trở nắng và những quả lựu da nám hồng. Nàng chớp mắt mau mấy cái, để mặc nước mắt ứa ra chảy dàn dụa trên má. Rồi nàng gục đầu xuống bàn nức nở khóc.

Sau một lúc Thanh mỉm cười, lấy vạt áo lau nước mắt lẩm bẩm:

“Tội quái gì ăn cơm với ruốc. Bao nhiêu lựu chín đem vặt ăn dần cho mát cái ruột, ăn cho kỳ hết không để dành anh chàng một quả nào nữa.”

Trí nàng tưởng tượng Ngọc hiện giờ đương nằm ở một quãng rừng, trên đầu bị hai ba phát súng và máu chắc đã khô. Nàng nhớ lại đoạn Ngọc kể với nàng về Thuý lúc chết và cái vẻ yên lặng của vừng trán Thuý, yên lặng hơn cả những tảng đá ở ngõ đi vào. “Không khéo hổ beo nó sực rồi, còn đâu là trán mà yên lặng.”

Thanh mỉm cười đứng dậy rồi nước mắt lại ứa ra; ngực nàng phập phồng và nàng thở dài luôn mấy cái cho tim bớt đập. Nàng nói như nói với Ngọc:

“Em yêu anh, yêu anh hơn cả Thuý yêu anh nữa.”

Bỗng có tiếng gõ cửa rồi tiếng Lăng vọng lên gác:

“Thèm cà-phê của cô quá. Uống hàng khác nó làm sao ấy. Hôm nay cô đã hết sốt rét thương hàn chưa?”

Nghe tiếng Lăng và biết Lăng vẫn đến rình, Thanh tự nhiên thấy nhẹ hẳn người. Nàng nói:

“Anh Lăng, tôi đỡ nhiều rồi.”

Nàng với khăn lau kỹ nước mắt, chải qua tóc rồi xuống mở cửa. Lăng nói:

“Trông cô gầy hẳn đi.”

Thanh nghĩ thầm:

“Khéo vờ vờ vĩnh vĩnh.”

Nàng cũng pha một cốc cà-phê phin cùng ngồi uống với Lăng:

“Mấy hôm nay ở Mông Tự trời nắng đẹp quá mà tôi cứ phải nằm dài ở giường. Uống ít cà-phê cho nó tỉnh người.”

Lăng nói cho có chuyện:

“Ở đây nắng biết đâu nơi khác không mưa.”

Thanh định hỏi xem ở Văn Sơn có mưa không nhưng không kiếm được cách gì cho tự nhiên. Nàng bảo Lăng:

“Tôi nhờ anh một việc nhé. Tôi tạt qua chợ mua ít rau và xương lợn xương bò làm súp. Tôi còn yếu sợ mang thức ăn về không nổi, anh xách dùm tôi cái làn nhé.”

Lăng nói:

“Việc ấy thì tôi vui lòng. Cô đã khoẻ tôi cũng mừng, sáng mai tôi sẽ đi chợ hộ cô nữa. Nếu tôi bận thì tôi sẽ bảo chị Hoạt hay chị Việt đến đây giúp cô một tay. Cô cần nấu nướng thì hai bà chị tôi sẽ giúp, sợ cô mới ốm khỏi, còn mệt chăng.”

Ra đến chợ lúc nào cũng có Lăng đi kèm và không nghe ai nói đến Văn Sơn nên Thanh cũng không biết được tin tức gì. Nàng nghĩ ngày mai gặp bà Việt hay bà Hoạt có lẽ hỏi tiện hơn. Nàng bảo Lăng:

“Đàn ông xách làn đi chợ trông kỳ quá. Mai anh nói giùm với bà Việt đến giúp tôi nhé.”

Quả nhiên ngày hôm sau vợ Việt đến. Thanh ân cần cám ơn, gọi ngay Xuân là chị. Lúc đương nấu cháo bồ dục, Thanh gợi đến chuyện mưa nắng rồi nàng nói chêm vào:

“Văn Sơn mùa này hay mưa lắm.”

Xuân nói:

“Chị không biết à? Văn Sơn bị nước lụt ngập cả phố xá. Tôi có gặp một người đi bộ từ Văn Sơn về, họ nói chưa bao giờ ở Văn Sơn lại lụt to như năm nay. Trôi nhà, trôi cửa, nước lũ kéo về nhanh quá, có nhà bị trôi cả lợn gà.”

Thanh hớp một thìa cháo nóng, vui mừng nói:

“Em đau hơn mười hôm nay ăn cháo chị nấu sao mà ngon thế. Nuốt đến đâu thấy đến đấy.”

Nàng thở nhẹ một cái:

“Thế là Ngọc chưa việc gì… Ngọc chưa việc gì.”

Mấy tiếng ấy vang trong hồn nàng như những lời reo vui.

Lúc Xuân về rồi, Thanh lại lên gác ngồi vào cái ghế Ngọc vẫn ngồi. Hoa lựu nở tươi trắng dưới ánh mặt trời. Nàng nghắm nghía những quả lựu sắp chín.

“Ngọc về, mình sẽ cho Ngọc ăn quả lớn nhất và ngon nhất kia. Còn những quả đã chín rồi tội gì mình không đem ăn cho mát ruột.”

Hôm sau đi chợ, có vợ Hoạt đi kèm. Thanh trông thấy Ninh ở xa. Nàng rủa thầm:

“Cái anh đa nghi, láu tôm láu cá. Đáng ghét cái mặt.”

Nàng cũng biết Ninh đã trông thấy nàng nhưng vờ như không biết.

Hôm sau Thanh thấy không ai đến cửa hàng cà-phê mình nữa. Nàng lại bắt đầu mở cửa hàng nhưng toàn khách người Tàu. Nàng xách làn đi chợ nhưng không thấy ai đòi đi kèm để xách hộ làn. Nàng đi vòng qua các phố vắng cũng không thấy bóng dáng ai theo dõi.

“Chắc mình đã được họ trả tự do.”

Nhưng còn vì cớ gì, nàng nghĩ mãi vẫn chưa hiểu. Những lúc rỗi, Thanh đi la cà chơi các nhà, đến thăm vợ Hoạt và vợ Việt để cảm ơn công lao giúp đỡ nàng lúc đau yếu.

Nàng đến thăm Xuân trước, thâm ý muốn xem chỗ ở trọ của Ngọc. Đến nơi nàng mới rõ là nhà Xuân nghèo quá. Trong một gian phòng nhỏ có kê hai chiếc giường gỗ trải chiếu rách, một cái lớn chắc để cho vợ chồng Xuân, còn một cái nhỏ, Thanh đoán là giường của Ngọc và tuy Xuân mời nàng ngồi ở giường lớn nhưng nàng cũng cứ ngồi xuống cái giường nhỏ.

“Ngồi chỗ này tốt hơn; em vừa đi nắng nên hoa cả mắt ngồi đây tối cho đỡ chói.”

Trong lúc Xuân xuống bếp đun nước, Thanh nhìn kỹ manh chiếu đã rách nhiều chỗ, nhìn chung quanh giường nhưng nàng không thấy một triệu chứng gì tỏ ra đấy là giường Ngọc nằm.

Bỗng nàng chú ý đến một bức tranh bút chì dán ở vách ngay cạnh giường, vẽ một cái cổng gỗ với một bụi tre lá tạt về một phía và dưới một vầng trăng khuất sau bụi tre, lờ mờ có bóng hai người ngồi trên bực cửa. Thanh đoán Ngọc vẽ một cảnh trong nước, chắc nơi quê Ngọc và bóng hai người rất có thể là bóng Ngọc cạnh bóng Thuý. Dưới bức tranh có đề bốn câu thơ. Thanh nhẩm đọc:

Đêm trăng thoảng tiếng ai trong gió

Lòng hỏi lòng biết có hay không?

Hay chăng tiếng vọng mơ mòng

Của lòng mình nói cho lòng mình nghe.

Dưới ký tên thoắng nhưng nàng cũng đoán được chữ ‘Ngọc’. Thanh không ngờ đâu Ngọc lại làm được bài thơ hay như vậy; bức tranh và bài thơ chắc để diễn tả cảnh đêm trăng có gió và hai người tỏ tình yêu với nhau lần đầu tiên. Trong bài thơ chắc Ngọc tả lúc Thuý nói yêu mình và Ngọc không ngờ đâu Thuý lại ngỏ lời trước chàng.

“Hay là cu cậu cóp một bài thơ của một thi sĩ nào trong nước.”

Dầu sao Thanh cũng đọc lại và cố nhẩm cho thuộc hết bài thơ. Khi Ngọc về – nếu có ngày chàng về – một hôm nào tiện, cùng Ngọc ngồi ở cửa sổ trên gác, nàng sẽ đột nhiên ngâm bài thơ ấy lên cho Ngọc nghe. Nàng vẫn nổi tiếng là ngâm thơ hay. Nếu bài thơ ấy Ngọc cóp của ai thì Ngọc sẽ hỏi nàng về tên tác giả. Nếu quả thực bài thơ ấy do Ngọc nghĩ ra thì chàng sẽ ngạc nhiên hết sức. Nghĩ đến đấy Thanh mỉm cười.

Xuân bưng lên một cái đĩa để hai chén chè Tàu nhưng đĩa và chén đều sứt mẻ. Thanh nẩy ra ý kiến giúp đỡ gia đình Xuân, nhưng nàng loay hoay chưa nghĩ được cách nào để khỏi mích lòng Xuân. Thanh cầm lấy chén nước sứt và uống một cách ngon lành:

“Em đến cám ơn chị đã khó nhọc vì em trong lúc em đau ốm. Chị được mấy cháu?”

Xuân đáp:

“Tôi có một cháu trai nhưng gửi ở nhà một người bà con trên Côn Minh.”

Thanh ngửng nhìn bức tranh dán ở ván:

“Bức tranh này đẹp quá, chắc là cháu vẽ, lại có cả thơ nữa.”

Nàng lẩm nhẩm đọc rồi nói tiếp theo:

“Cháu mà làm được bài thơ hay như thế này cơ à?”

Xuân nói:

“Không đấy là thơ và tranh của chú Ngọc.”

“A anh Ngọc, em có biết; thường đến hàng em uống cà-phê.”

Nàng cười nói giọng đùa:

“Ấy hãy còn chịu em năm cốc cà-phê chưa trả.”

“Thế là cô mất toi. Đừng có hòng chú ấy trả. Một xu dính túi cũng không có.”

“Có làm gì việc ấy. Anh Ngọc chắc là em của chị?”

“Tôi có họ hàng gì với chú ấy đâu. Gọi thế cho thân, vì tôi cũng coi chú ấy như người em. Chú ấy ngoan lắm, chỉ phải cái loăng quăng.”

Thanh cứ muốn hỏi mãi về Ngọc nên tiếp theo:

“Bây giờ anh ấy đâu, chị có biết không?”

Xuân đáp:

“Lúc nào chú ấy về thì biết là về, đi thì biết là đi, chẳng bao giờ nói với tôi là đi đâu. Vả lại chú ấy đi đi về về luôn nên tôi cũng chẳng để ý đến nữa. Anh em thường gọi đùa chú ấy là ‘Ngọc châu chấu’.”

Thanh mỉm cười:

“Chắc là vì hay nhẩy như châu chấu. A, thế còn anh nhà đâu?”

Xuân đáp:

“Nhà tôi đương chạy ngược chạy xuôi vay mượn tiền mở một hàng cơm Tây cho bộ đội Mỹ ở sân bay.”

“Thế à, em chắc là nếu mở được thì phát tài lắm. Chị lại nấu ăn khéo; mấy hôm chị lại đằng nhà nấu ăn cho em, em biết. À, này chị, hay là chị em mình công ty. Em có ít vốn sẽ chung phần với anh chị. Cà-phê thì chị không phải lo đã có em phụ trách. Chị có lợi mà nhất là em cũng có lợi. Chị nghĩ sao?”

Xuân nói:

“Cám ơn cô, để nhà tôi về tôi sẽ bàn. Hàng cơm Tây sống được cũng là nhờ có cà-phê ngon. Tôi dám chắc nhà tôi nhận lời.”

“Chị nhớ cho em biết tin ngay nhé. Vốn liếng lúc nào em cũng sẵn. Chị không biết, ở Côn Minh em cũng đã mở hàng cơm Tây một độ. Lấy tên là Nam Mỹ Tây San Nhất. Tên ấy hay lắm, giá chị dùng đặt cho hiệu mới, em cũng nhường cả tên nữa. Soong chảo, bát đĩa, cùi dìa, phóng sét em có sẵn, không phải sắm cho tốn. Em cũng sẽ vào bộ chỉ huy Mỹ giao thiệp để họ cấp giấy ‘In bound’. [2] Đấy chị xem, tiếng Anh em nói cũng tàm tạm đủ dùng.”

Thanh đứng dậy, chào Xuân rồi rẽ qua nhà Hoạt, cố ý gặp Phương. Cũng may lúc đến, hai vợ chồng Hoạt đều đi vắng, chỉ có mình Phương ở nhà đương đứng ở cửa sổ, hai tay giơ một chiếc áo len kiểu đàn ông ra ngoài sáng ngắm nghía. Thanh biết ngay là chiếc áo len Phương đan cho Ngọc theo lời Ngọc đã nói với nàng. Thấy có khách vào, Phương vội vàng cuộn tròn chiếc áo lại rồi hỏi:

“Ai đấy?”

Thanh đáp:

“Thưa cô, ông bà Hoạt có nhà không?”

Phương nhìn Thanh đi vào nhưng không nhận ra được Thanh vì nàng ít khi ra phố ngoài và nhất là đi về phía cà-phê Thanh Hương. Tuy đã để ý đến Phương nhưng nhìn gần, Thanh mới nhận thấy Phương đẹp. Nước da nàng trắng, hai gò má hồng tự nhiên và đôi mắt trong; Thanh thấy na ná như hai mắt một con thỏ con, ngây thơ, hiền lành. Phương mỉm cười, một nụ cười rất có duyên, rồi đáp lại lời Thanh hỏi, giọng dịu dàng và rất lễ phép.

“Thưa cô, anh chị tôi đi vắng. Thưa cô, có việc gì gấp không và cô là ai để anh chị tôi về tôi sẽ nói lại. Mời cô ngồi chơi xơi nước.”

Rồi nàng khẽ gọi người nhà, để lộ hai hàm răng trắng nhỏ đều đặn:

“Lương ơi, pha nước.”

Đợi cho Thanh ngồi rồi, nàng mới ngồi ghé xuống một chiếc ghế đệm, tay vẫn cầm mân mê như âu yếm chiếc áo len cuộn tròn. Trên bàn có để một cái kéo, Thanh đoán chắc Phương đến bây giờ mới đan xong áo vì cái kéo kia chắc để cắt những mẩu len nham nhở. Thanh đáp:

“Tôi là Thanh chủ tiệm cà-phê ở Cổng Bắc. Hôm nọ vì tôi yếu, bà Hoạt có lại thăm nom săn sóc; nay tôi đã đỡ nên ghé qua để cám ơn. Chẳng may lại không được gặp. Cô chắc là em ông Hoạt?”

“Vâng ạ.”

Thanh nghĩ thầm: một thiếu nữ xinh đẹp hiền hậu như thế này, Ngọc mê là phải. Trước mặt mình, Ngọc chỉ vờ làm bộ không để ý đến Phương. Nàng đoán Ngọc sống một đời vất vả nay đây mai đó, khi về chắc hẳn chỉ mong có một ngưòi vợ xinh đẹp, dịu hiền để săn sóc chiều chuộng mình. Ngọc trước sau rồi cũng lấy Phương. Thanh nhìn Phương nửa thương hại nửa ghen tức. Bỗng tự nhiên mắt Thanh mờ hẳn đi và quả tim nàng như quay lộn một vòng; nàng chợt nghĩ đến cái đêm Ngọc kể tâm sự chàng yêu Thuý cho mình nghe. Nếu Ngọc hơi có chút tình ý gì với nàng thì không bao giờ lại kể chuyện tâm sự riêng một cách tự nhiên như vậy; Ngọc chỉ coi nàng như một người bạn. Đấy là Thanh quá lạc quan, chứ có lẽ Ngọc chỉ coi nàng như một nữ cán bộ Việt Minh, là một kẻ thù; Ngọc kể chuyện Thuý chỉ cốt để mua chuộc lòng nàng.

Thanh không thể chối cãi được rằng Ngọc đối với nàng có một thứ gì khác biệt; nhưng những tay cách mệnh nhiều mánh khoé giả dối, tin sao được. Lừa lọc, dối trá, mưu mẹo, tàn ác, ai cũng vậy, một khi đã bị cái “guồng máy” nó lôi cuốn. Chính nàng đã nói đến cái “guồng máy” với Ngọc và chính nàng cũng bị nó lôi kéo, muốn thoát cũng không sao thoát ra được.

Những ý nghĩ phân vân ấy quay cuồng trong tâm trí nàng, khiến nàng ngồi yên. Phương tưởng Thanh có việc gì quan trọng, không gặp anh chị mình nên ngồi thừ ra vì thất vọng. Phương nói:

“Hay là cô ngồi chơi, đợi một lát anh chị tôi về.”

Thanh và Phương ngồi đối diện thong thả uống nước, nói những câu xã giao thông thường. Dần dà nàng khen áo của Phương đẹp, màu áo len Phương nhã, rất hợp với màu da trắng của nàng.

“Màu áo len cô cầm ở tay cũng nhã lắm. Cô mua ở đâu thế? Mông Tự làm gì có bán thứ len này.”

Phương đáp:

“Tôi phải nhờ một người bạn ở Côn Minh mua. Trong lúc chiến tranh khó kiếm len lắm.”

Thanh giơ tay định cầm chiếc áo len:

“Len đẹp thật. Cô đan lấy đấy à? Khéo quá. Cô cho tôi xem thử, nếu tiện tôi nhờ cô gửi mua hộ len.”

Phương đặt cuộn áo len ra xa, khỏi tầm với của Thanh rồi nói:

“Đây là áo tôi đan cho anh Hoạt tôi.”

Câu chuyện trở dần thành thân mật. Thanh hỏi:

“Trông cô trẻ quá. Hình như đã có lần tôi gặp cô ở phố. Nhưng trông gần mới thấy cô còn trẻ quá, chắc cô độ mười sáu mười bảy.”

“Không, năm nay tôi vừa chẵn hai mươi.”

“Thế là cô kém tôi mấy tuổi. Nhưng trông cô trẻ hơn nhiều.”

Thanh rút bao thuốc thơm mời Phương:

“Cô xơi một điếu.”

“Tôi không biết hút, cám ơn cô.”

Thanh nói:

“Thỉnh thoảng hút một điếu cho thơm miệng. Tôi cũng mới tập hút được vài tháng nay. Tuy chiến tranh nhưng có tụi lính Mỹ nên thuốc lá rẻ lắm. Bao thuốc Lucky Strike này tôi mua lại của một người quen. Ông ta chuyên môn đổi các thứ hàng cho những anh lính Mỹ không biết hút hay hút ít, không hết số chính phủ Mỹ phát cho.”

Nàng giở giọng đùa bỡn:

“Bao giờ thì cô định lập gia đình để tôi đến ăn mừng. Cô thì thiếu gì đám.”

Phương trở nên bạo dạn, nói:

“Cô ăn mừng tôi cái gì nào? Tôi cũng đã có đám nhưng anh chị tôi bảo phải đợi hết năm nay. Hình như có một cái tang bên họ xa, ai tôi cũng không biết nữa.”

Phương vừa nói vừa cười, bàn tay vô tình đặt lên chiếc áo len cạnh ghế.

Thanh đứng lên:

“Để lần khác vậy. Đợi mãi không thấy hai ông bà về. Cô nói giùm tôi có đến chơi nhưng không gặp. Hôm nào thong thả mời cô lại chơi đằng nhà. Vườn nhà tôi có mấy cây lựu quả ngọt lắm. Thôi chào cô.”

Thanh bước vội ra đường:

“Thế là hết hy vọng! Sao đời mình lúc nào cũng khổ thế này.”

Tới chỗ vắng người, nàng lấy khăn mùi-xoa cầm sẵn ở trong tay, để mặc nước mắt dàn dụa trên má. Nàng nấc lên mấy tiếng rồi nhìn những ngọn núi xa xa mà nàng đoán về phía Văn Sơn, thầm gọi:

“Anh Ngọc, Ngọc của em.”

Thanh trở về nhà, ra ngay vườn sau, hái luôn quả lựu lớn, trước định bụng để dành Ngọc rồi mím môi bẻ tách ra ăn luôn; các hột lựu thật lớn, nước mọng lên cắn vào ngọt thơm và mát ruột nhưng nàng vừa nhai ngấu nghiến vừa ứa nước mắt khóc nức nở.

Chương mười

Sáng hôm ấy, Ngọc đánh thức Nghệ dậy rồi bảo chủ quán làm trứng vịt tráng cho ba người ăn lót dạ. Chàng bảo Nghệ quãng đường từ đây về Ma-Lì-Pố khá dài, cần phải đi từ lúc tờ mờ sáng. Ba người lại qua cái suối mà chiều hôm trước Ngọc đã ngồi với Tứ nói chuyện. Ngọc bảo Nghệ:

“Anh coi những tảng đá này có đẹp không? Nhưng anh thì để ý gì đến cảnh đẹp; lúc nào cũng chúi mũi vào sách nghiên cứu; xem sách làm quái gì chỉ thêm nát óc. Đường từ đây về Ma-Lì-Pố có nhiều phong cảnh đẹp lắm; đường lên cao nên rất mát, không như hôm qua; có lắm chỗ có những rừng thông đẹp vô kể. Lại có một chỗ, em không hiểu là mỏ gì họ đào lên chất thành đống cao. Nghe người ta nói đấy là chỗ ngày trước khai quặng chất… chất gì em cũng chẳng nhớ, chỉ biết là chất ấy cho vào sắt thì sắt cứng hơn nhiều.”

Nghệ nói:

“Tôi đoán có lẽ đó là mỏ wolfram. Để đến nơi, tôi sẽ biết.”

Ngọc khen:

“Anh chuyên môn đủ thứ. Còn em thì mù tịt. Nhưng anh không bằng em ở một chỗ. Anh có thấy người Đức và người Nhật không?”

Nghệ nhìn Ngọc:

“Đức với Nhật làm sao?”

“Anh Nghệ này, anh xem như người Đức, họ thượng võ như thế nhưng những tay âm nhạc giỏi phần nhiều là người Đức. Lúc còn ở trong nước em có một người làm kiến trúc sư quen. Ông bạn đó, một hôm em đến chơi, có chỉ cho em mấy kiểu nhà của người Đức. Em chẳng hiểu gì nhưng người bạn em bảo họ thượng võ thế mà họ rất nhiều cảm tình, nhà ở của họ, họ săn sóc chăm chú hơn mình nhiều, không những đẹp mà lại có vẻ đầm ấm, không lộ trơ trơ ra như nhà tụi Pháp; muốn vào nhà họ phải đi vòng qua vườn rồi mới tới nơi, cũng như các chùa làng ta, có bao giờ đi thẳng vào chùa đâu, qua cổng phải đi theo những con đường gạch bát tràng quanh co, bên cạnh có trồng hồng rồi mới tới cửa ngách vào sân chùa. Người Nhật cũng vậy; ở trong nước có một người đi liên lạc sang Nhật, ngồi trên chiếc tàu bay quân sự chở toàn võ quan Nhật, người ấy thấy có dán mấy bài thơ Đường, mà như thế giữa lúc đánh nhau dữ dội với quân Mỹ. Em thì em cũng bắt chước họ, mọi việc nghiên cứu, các vấn đề chính trị em chẳng hiểu gì nhưng em thích cuộc đời đưa đón các anh em, rồi qua bao nhiêu nơi phong cảnh đẹp, tội gì không hưởng. Cách mệnh thành công em sẽ về làng, lấy một cô vợ nhà quê xinh xinh, sống một đời yên ổn. Em chỉ mong mỏi thế thôi, còn công việc lớn lao đã có anh Ninh với hai anh.”

Trong mắt Nghệ, Ngọc thấy thoáng qua rất nhẹ một tia nghi ngờ. Ngọc xoay câu chuyện về việc khác. Chàng reo lên:

“Sắp đến một cái suối rất trong có nhiều rau cải soong lắm.”

Tứ hỏi luôn:

“Đâu? Đâu?”

“Thong thả anh, đi một thôi đường nữa.”

Mười giờ sáng, trời nắng gắt, mọi người đều khát khô cổ thì vừa đến suối.

Ngọc nói:

“Đi xuống đây độ một quãng là tới suối.”

Một dòng nước rất trong, rộng độ hai thước, chẩy trên cát trắng. Nghệ và Tứ lấy bi-đông cho nước vào đầy rồi tu một hơi cạn. Ngọc vì bi-đông mắc đựng nước cốt cà-phê nên nằm trên bờ cỏ xanh vục mặt xuống suối húp nước… Tuy nắng to nhưng vì nước chẩy nên mát lắm; chàng vừa uống vừa nhìn ánh mặt trời loang loáng sáng lăn tăn trên gợn nước, khi tan đi khi lại hiện ra. Chàng nhớ đến câu thơ vịnh con hổ uống nước:

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan

Ngọc lại nghĩ đến Thanh và sẽ làm cho Thanh thật khát nước trước khi đến suối này rồi hai người cùng vục xuống và cùng uống trên một dòng nước. Chàng lại nhớ đến câu cuối cùng của bài thơ dịch bài “Chàng tại tương giang đầu” trong Kinh Thi:

Sông Tương chàng ở đầu sông

Xa chàng thiếp ở cuối dòng, chàng ơi!

Dẫu rằng khuất mặt, nhớ người

Đôi lòng cùng uống nước xuôi một dòng.

Ngọc mỉm cười tự bảo:

“Phải đổi đi mới được.”

Chàng loay hoay nghĩ rồi nhẩm đọc:

Suối rừng một dải nước trong,

Thanh đầu suối, Ngọc cuối dòng, Thanh ơi!

Hai ta người sát cạnh người

Đôi lòng cùng uống nước xuôi một dòng.

Ngâm xong Ngọc tự phục mình là đổi ngay được ra những câu hay và hợp cảnh đến thế. Thấy Tứ và Nghệ tu hết bi-đông lại lấy đầy nước, chàng cười bảo:

“Các anh lấy nước làm gì đeo cho nặng người. Độ một giờ nữa thì đã đến quán ăn cơm trưa rồi. Bây giờ ta đi ngược dòng suối kiếm thật nhiều cải soong cho vào đầy bi-đông hai anh, lát nữa ăn cơm sẽ có một đĩa sà lách ngon cho đỡ ngán vì cơm Tàu béo quá. Chắc các anh đã biết người Tàu không bao giờ ăn rau sống; chỉ nơi nào có người Mỹ, người Pháp họ mới biết ăn.”

Đến một chỗ lòng suối phẳng, nước chảy nhẹ, mặt nước đầy rau cải soong, Ngọc và Tứ rối rít vớt rau lên. Rửa sạch lá rồi nhét vào bi-đông. Thấy Nghệ chỉ đưa bi-đông cho hai người chứ không tha thiết với ra, Ngọc nói:

“Anh Nghệ cần ăn rau cải soong nhất. Anh da vàng thế kia tất là đau gan và cải soong là thứ chữa gan hiệu nghiệm nhất. Anh chỉ nghĩ những chuyện đâu đâu, không chịu cùng anh em chia sẻ công việc.”

Nghệ lạnh lùng nói:

“Tôi có việc khác. Cần nói chuyện với anh.”

Ngọc nói:

“Đến Ma-Lì-Pố thiếu gì lúc.”

Tuy nói vậy nhưng Ngọc hơi lo không biết Nghệ định nói chuyện gì? Trông vẻ mặt lạnh lùng của Nghệ, chàng vừa sợ vừa tức Nghệ. Chàng bảo Tứ:

“Thôi để tôi với anh rửa rau cũng được rồi. Anh Nghệ chắc đương có việc khó nghĩ thì để anh ấy nghĩ, bây giờ chúng mình tôn anh Nghệ làm quân sư. Về nước anh ấy bảo phải làm gì tôi với anh chỉ việc nghe theo. Như thế lại nhẹ người. Chắc lúc sắp đi anh Ninh đã giao phó cho anh Nghệ một nhiệm vụ nặng nề khó khăn. Công tác của anh ra sao, anh nói cho tôi nghe, may ra giúp đỡ anh được phần nào chăng.”

Nghệ nói giọng nghiêm trang, hơi có ý gắt:

“Tôi không phải nói anh nghe. Anh hẳn đã biết lối làm việc của Ninh. Anh cứ đòi nghe, nếu việc hỏng vì tính láu táu của anh thì kỷ luật của Đảng thế nào chắc anh biết. Anh giữ việc đưa chúng tôi về nước thì anh chỉ biết có công việc anh Ninh đã giao phó cho anh. Còn cái việc đau gan hay các anh thích nghịch nước, thích ăn cải soong là việc phụ. Anh không lo bổn phận mình chỉ nghĩ đến đùa nghịch cho sướng thân, tôi nói thẳng với đồng chí là đồng chí không hết lòng. Khi trở lại Mông Tự tôi sẽ báo cáo với đồng chí Ninh để tuỳ đồng chí Ninh định liệu. Nhưng dù sao cả hai anh đều không theo đúng tinh thần cách mệnh. Các anh cứ giận tôi thì cứ giận, việc tôi phải nói tôi cứ phải nói.”

Hai bi-đông đã đầy rau, Ngọc và Tứ yên lặng không ai dám cãi lại Nghệ. Ngọc quàng túi vải lên vai:

“Xin mời hai anh đi cho khỏi chậm trễ.”

Gần mười hai giờ trưa thì ba người đến một quán cơm ở Niu-Dương gần ngay chợ. Lại có một cô trông khá xinh người Quảng Đông đon đả ra chào mời Ngọc. Ngọc thấy Nghệ hơi bĩu môi còn Tứ thì vui vẻ bảo Ngọc:

“Chú này khá đấy. Số đào hoa. Chẳng trách thích đi liên lạc. Ta lại chén một bữa, chú nhé?”

Ngọc nhìn Nghệ bảo Tứ:

“Thôi trưa hôm nay không cho anh uống nữa. Sợ lại như trưa hôm qua thì phiền cho cả anh Nghệ cả tôi.”

“Không sợ mà, uống xong ta làm một đĩa lớn cải soong trộn dầu lạc với dấm thì dã rượu ngay. Lo gì! Anh Nghệ chính vì trước kia uống nhiều rượu quá nên mới đau gan, da mới vàng như nghệ.”

Tứ cười để lộ cả hai hàm răng vổ, sắn tay áo nâng chén rượu nhấp thử rồi khà một tiếng khoan khoái:

“Rượu cũng khá đấy.”

Thấy cô hàng bưng lên một đĩa xào bốc hơi nghi ngút, cái yết hầu của Tứ lại đưa lên đưa xuống.

Nghệ ăn cũng ngon lành xong vẫn nói, đá giọng mỉa mai:

“Làm cách mệnh kiểu anh Ngọc thì ai cũng muốn làm. Vào hàng quán nào cũng có các cô con gái xinh đẹp mà đồ ăn lại làm khéo tay. Những lúc đi một mình không vội vã, anh Ngọc từ Văn Sơn tới Ma-Lì-Pố chắc phải mất bốn ngày. Ngủ lại hai trạm cơm hôm qua và hôm nay để ‘công tác đặc biệt’ lúc ban đêm.”

Nghệ nói mà không cười. Bây giờ Ngọc mới nhận ra từ lúc gặp Nghệ đến giờ chưa bao giờ thấy Nghệ cười cả, hoạ chăng chỉ hơi nhích mép mỉm cười một cách đáng ghét. Ngọc vui vẻ nghĩ thầm:

“Một anh chàng như thế này mà mình lại có lần nghi là tình nhân của Thanh. Thực vô lý.”

Ngọc tính nhẩm từ lúc đi đến giờ đã được mười ngày: một ngày đi Khai Viễn, một ngày đi Văn Sơn, ở lại Văn Sơn vì cầu ngập và nước lụt mất sáu hôm, từ Văn Sơn đi Ma-Lì-Pố mất hai hôm. Nếu mai làm xong việc trở về cũng mất năm hôm nữa, ấy là về Văn Sơn có xe Mỹ đi ngay. Tất cả gần nửa tháng.

Chàng nhắc cốc rượu lên nhắp một ngụm nhỏ rồi mỉm cười nghĩ thầm:

“Hiện giờ chắc Thanh còn ốm thương hàn, lẫn sốt rét ngã nước và biết đâu không ốm tương tư. Tương tư mình chứ không phải anh chàng vàng như Nghệ. Thanh chắc từ nay cả đời sợ ruốc.”

Năm giờ chiều hôm ấy ba người tới công tác trạm Ma-Lì-Pố. Ngọc giới thiệu Nghệ và Tứ với Tính, trạm trưởng và Hân người phụ việc Tính, nhưng chỉ nói là đưa hai đồng chí này về nước hoạt động, hai tháng sau sẽ lại trở sang và dặn khi hai anh ấy trở về Ma-Lì-Pố cần tiếp đãi ân cần; Ngọc lại sẽ về Ma-Lì-Pố đưa hai anh ấy lên Côn Minh để báo cáo với anh Ninh. Hân tỏ vẻ vui mừng ra mặt và chạy ngay xuống bếp để nấu cơm.

Trong lúc đợi cơm, Ngọc ra đảng bộ Ma-Lì-Pố trình giấy má và đánh điện thoại về Văn Sơn để Nam báo về Mông Tự cho Ninh rõ là ba người đã tới Ma-Lì-Pố bình an vô sự. Chính vì nhận được tin này, Ninh mới ra lệnh cho anh em không phải canh gác nhà Thanh nữa. Ninh cũng được biết rõ là Tứ và Nghệ ở Văn Sơn cũng như ở Ma-Lì-Pố đi đâu cũng đi với người của Việt Quốc; Thanh được hoàn toàn vô can và Tứ, Nghệ không liên lạc được với cộng sản Tàu hay không có người cộng sản Tàu nào để liên lạc. Lúc đó Ninh mới nhận ra là Ngọc đã xét đúng về Thanh; chàng chỉ còn lo rằng Ngọc chưa hạ thủ được Tứ và Nghệ.

Ở đảng bộ về, Ngọc hỏi nhỏ đồng chí Tính mới biết là Nghệ và Tứ không đi đâu cả. Chàng yên tâm và muốn cho Tính khỏi nghi ngờ, chàng giải thích:

“Vì tôi đem giấy các anh ấy ra trình đảng bộ sợ hai đồng chí lớ ngớ ngoài thành phố, họ bắt, mình lại phải can thiệp.”

Thấy Ngọc về, Nghệ nói:

“Anh với tôi ra phố. Tôi có chuyện riêng muốn nói với anh.”

Ngọc đưa Nghệ lên đỉnh một quả đồi, ngay phía sau công tác trạm, hai người ngồi xuống bãi cỏ. Ngọc yên lặng chờ đợi Nghệ nói trước:

“Tôi muốn hỏi anh kỹ về đường lối qua biên giới sang Thanh Thuỷ.”

Ngọc đáp:

“Lối chính thì rộng mà dễ đi nhưng phải qua một cái cầu sắt. Ngay bên kia sông có một cái lô cốt của Pháp, đầu cầu lính canh nghiêm ngặt lắm. Cố nhiên là không thể đi đường ấy được.”

“Thế còn đường khác?”

Ngọc nghĩ thật mau:

“Nếu nói cho Nghệ biết đường thì Nghệ và Tứ có thể về nước không cần đến mình đưa. Việc Ninh giao phó mình không thể làm xong.”

Chàng cất tiếng bảo Nghệ:

“Đường khác phải đi qua rừng, lối nhỏ và ngoắt ngoéo lắm, lại phải qua một con sông nước chẩy xiết, có mảng tre chở sang. Đấy là đường đi buôn lậu. Nếu tôi không cùng các anh đi thì tụi họ không chịu chở. Thế này nhé, mai chúng mình đi, độ một giờ trưa thì tới một nhà tôi quen cách sông độ hai ba cây số. Chúng mình ngủ đêm ở đấy. Tôi sẽ đi giao thiệp với tụi buôn lậu rồi nội ngày kia thì sang. Cố nhiên là chúng mình phải ăn mặc quần áo Thổ. Nếu cần thì tôi sẽ sang trước xem xét tình hình rồi tôi lại trở sang đón hai anh. Đi thoát được biên giới là việc tạm gọi xong.”

Ngọc căn dặn Nghệ đủ điều cần phải làm một khi tới được nhà đồng chí Phổ. Thâm ý của Ngọc là để giấu kín việc làm của chàng một khi đi khỏi Ma-Lì-Pố độ mười cây số. Chàng nói mãi về những việc cần phải làm sau “khi đó”. Bỗng Ngọc nẩy ra một ý kiến: cứu riêng mình Tứ. Chàng tưởng tượng lúc Tứ yên lành về tới Tuyên Quang, nỗi vui mừng của đôi vợ chồng yêu nhau mấy năm xa cách và hai đứa bé mà chàng đoán là kháu khỉnh được thấy lại mặt cha; biết đâu lại không có bà mẹ già mong ngóng đợi con về. Ngọc không hiểu vì cớ gì Tứ lại trốn sang Tàu làm cách mệnh. Bất giác chàng nhớ lại câu trong một vở kịch Pháp mà chàng đã quên tên:

“Qu’est ce que je viens faire dans cette galère” [3] .

Chàng thốt ra:

“Hay là…”

Ý chàng định bảo Nghệ rằng, cả ba người đi sợ lộ quá, có lẽ để Nghệ đi trước, chàng quay lại đón Tứ sau. Chàng sẽ thủ tiêu Nghệ một việc chàng cho là cần, còn Tứ đi chuyến sau, chàng sẽ để Tứ yên ổn về nước gặp vợ con. Nhưng Ngọc ngừng lại. Lệnh của Hải ngoại Bộ, của Ninh là phải thủ tiêu cả hai người, chàng phải tuân theo. Một lần nữa chàng đã bị “cái guồng máy” nó lôi cuốn. Ngọc yên lặng suy nghĩ và thoáng nghĩ đến Thanh, mừng cho nàng đã từ chối không chịu gia nhập hàng ngũ.

Trong lúc đó thì Nghệ cũng suy nghĩ. Nếu chàng thủ tiêu Ngọc ở dọc đường (chàng đoán đường sẽ xuyên qua nhiều khu rừng vắng, chỉ một phát súng vào đầu hay lưng bên trái là xong đời Ngọc) nhưng nếu giết Ngọc thì không biết được con đường buôn lậu và chỗ bến sông có mảng để sang Thanh Thuỷ.

Chàng tính nhẩm có lẽ đến nhà người Thổ, chàng sẽ lấy cớ tiễn Ngọc ra bến sông rồi sẽ lấy súng đập vào đầu Ngọc; chàng sẽ đem giấu theo con dao thái thịt của người Thổ để cắt cổ Ngọc nhân lúc Ngọc thiếp đi hoặc con dao bổ củi đập mấy cái vào đầu Ngọc cho đến khi chết hẳn. Nghệ đã để ý từ lâu rằng Ninh chỉ giao súng cho chàng và Tứ còn Ngọc hoàn toàn không mang võ khí nào chỉ trừ có con dao díp nhỏ thỉnh thoảng Ngọc vẫn lấy ra để cắt móng tay.

“Chắc là Ninh đã không nghi ngờ gì ta. Nam và hai người giữ công tác trạm này hoàn toàn coi ta như đồng chí. Họ có vẻ tự nhiên lắm. Nếu có ý gì thì mình thấy ngay. Nhưng còn Ngọc?”

Nghệ liếc nhìn Ngọc một cái hỏi:

“Hay là gì cơ anh?”

Ngọc đáp:

“Hay là để anh Tứ sang Thanh Thuỷ trước. Nếu có biến thì người Thổ báo tôi biết ngay, anh sẽ ở lại bên này sông hoặc trở về Ma-Lì-Pố đợi cho tình thế yên đã. Họ tóm được anh theo ý tôi, nguy hại cho công việc của Đảng hơn là anh Tứ. Anh Tứ chỉ là một tay cách mệnh tài tử.”

Ngọc cười rồi tiếp theo:

“Cũng như tôi ấy mà. Đấy, tuỳ anh định liệu.”

“Để tôi nghĩ cẩn thận đã. Ý kiến anh có thể là một ý kiến hay.”

Rồi Nghệ đổi ra giọng nghiêm trang:

“Tôi không muốn phê bình đồng chí trước mặt người khác, nhưng đồng chí đã phê bình anh Tứ và tự phê bình mình rất đúng. Tôi mong đồng chí từ nay tập dần cho thành một cán bộ khá hơn của Đảng. Tôi thấy đồng chí coi công việc giải phóng đất nước như một trò đùa. Nếu đồng chí đổi được cái tính bông lông, thích gái đẹp, chỉ nghĩ đến ăn ngon, lại tập tành uống rượu thì lần sau tôi sẽ nói với anh Ninh phái đồng chí về nước, mà lần sau đồng chí đi với tôi, giúp đỡ tôi hoạt động ở Hà Giang. Tôi tin ở đồng chí.”

Ngọc đứng dậy:

“Xin cảm ơn anh. Em cố sửa đổi dần. Anh Ninh cũng nhiều lần khiển trách em và vì thế chỉ giao cho em công việc đưa đón, liên lạc. Thực ra em cũng muốn anh Ninh giao phó cho những việc quan trọng hơn. Em cũng sẽ bắt chước anh chịu khó tập nghiên cứu. Hai tháng nữa anh trở sang nếu quả thật em khá hơn, thì nhờ anh nói với anh Ninh hộ. Thôi bây giờ chắc cơm đã chín, mời anh về xơi kẻo đói. Em đã để ý dặn Tính tránh mỡ, trứng, những thứ gì dễ làm anh đau gan. Anh mà ốm lúc này thì thật là một việc không may.”

Nghệ cũng đứng lên đưa tay bắt tay Ngọc:

“Tôi tin ở đồng chí. Đồng chí phải cố gắng.”

Ngọc chớp mắt thật mau tỏ vẻ cảm động.

Ở nhà, Hân đã dọn cơm chờ. Hân gần sáu mươi tuổi, nước da hồng hào và tóc bạc phơ. Hân không hiểu gì về công việc hoạt động, chỉ có mỗi một lòng yêu nước và thích săn sóc các đồng chí, coi họ như con mình; công việc nặng nhọc đến đâu cũng không từ chối, vui vẻ nhận lấy làm. Hân chỉ mong có nhiều người qua lại công tác trạm.

Bữa chiều hôm ấy chỉ có cơm gạo đỏ ăn với ít rau. Ngọc biết Tứ khó chịu nên ăn có một bát cơm nhưng không dám nói ra. Ăn xong, dưới ngọn đèn dầu lù mù, Nghệ ngồi đọc sách với Tính. Hân ra sau nhà rửa bát đũa. Ngọc bảo Tứ:

“Tôi với anh ra xem qua phố xá cho biết.”

Ngọc rủ Tứ vào một hàng ăn. Ăn hết hai bát phở Quảng Đông, Tứ vẫn còn thòm thèm.

Ngọc ghé vào tai Tứ nói thì thầm:

“Anh có thích cái số kia không?”

Chàng làm hiệu nắm tay đưa lên miệng. Tứ hỏi:

“Ở đây có cái số ấy cơ à?”

“Anh cứ tin em. Trước em đã ở công tác trạm này hơn ba tháng. Thổ công là thằng em đây. Em không biết hút nhưng em muốn anh làm vài điếu để mai đi đường cho khoẻ. Em thấy anh đi không quen, em lo lắm. Anh Ninh đã giao em tiền, em xin trả vì mai kia về nước anh cần tiền hơn em để dễ bề đi lại.”

Lúc hút say lơ mơ, Tứ cao hứng kể lể với Ngọc về chuyện gia đình mình và cả về mối tình êm đẹp của chàng với Nga vợ chàng.

Tứ là con một thương gia rất giầu. Nhà Tứ cạnh nhà ông Án ở Tuyên Quang thân sinh ra Nga. Hai nhà chỉ cách có một bức tường thấp trên có chắn song sắt, vì vậy Tứ ngồi ở buồng mình ngày ngày được thấy Nga qua lại vườn bên kia. Dần dà hai người để ý đến nhau rồi yêu nhau; đêm đêm thường hẹn nhau ở cạnh tường hoặc nói chuyện hoặc trao đổi thư từ. Vì chắn song thưa, hai người tuy không gần nhau được nhưng vẫn có thể cầm lấy tay nhau và trao hôn. Bà thân sinh ra Tứ cũng muốn con mình làm rể ông Án để mong ông này cất nhắc kiếm cho việc làm, nhưng ông bà Án khư khư từ chối vì Tứ học hành dở dang, ngồi nhà không chịu làm gì ngay cả đến việc giúp đỡ buôn bán cho cha mẹ nữa. Về sau vì đôi trai gái yêu nhau quá nên một đêm Tứ trèo qua tường chắn song sắt, Nga có thai được một tháng, sợ hại đến gia thanh nên ông bà Án phải bằng lòng cho cưới. Hai vợ chồng rất đỗi yêu mến nhau. Nga lại giỏi nấu ăn nên thường làm những món ăn đặc biệt cho Tứ, món Tàu cũng như món Tây. Nga lại mua cho chồng mai quế lộ, rượu vang, sâm banh. Tứ bắt đầu uống rượu từ dạo ấy, uống nhưng chưa nghiện hẳn.

Về sau nhà Tứ buôn bán thua lỗ không giầu như trước nhưng vẫn còn đủ chi dùng. Các con ông Án, con trai và con rể, người thì làm tham tá, người tri huyện, ngày giỗ tết lên Tuyên Quang thường hay gặp Tứ và tỏ vẻ khinh thị chê bai. Người con gái lớn chồng làm tri huyện, vốn không ưa gì Nga và rất ghét Tứ nên nói bóng gió mỉa mai. Đã có lần tức quá không chịu được, chàng chỉ sang lễ rồi cáo đau trở về nhà ngồi yên lặng đến nửa giờ. Bỗng chàng thản nhiên nói một mình:

“Ta sẽ làm cho họ biết tay ta là người thế nào.”

Nhưng Tứ chỉ nghĩ thế thôi chứ chưa tìm được cách gì. Rồi một hôm chàng gặp một cán bộ Việt Minh. Chàng được huấn luyện song chàng cũng không có tài cán gì để trở thành cán bộ giỏi. Được tin Pháp thua Đức và Nhật sắp sang Việt Nam, Tứ thấy đó là một cơ hội để trả thù anh em bên nhà vợ mình là những người đã dựa vào thế lực Pháp, nịnh hót Pháp mới lên được những địa vị ấy.

Tỉnh đảng bộ Việt Minh ở Tuyên Quang ngỏ ý muốn cho Tứ sang Tàu, Tứ nhận lời liền. Về nhà, đêm khuya chàng nói sự thực với Nga. Nga khóc lóc nhưng cũng đành phải để chồng đi. Tứ nói với vợ thu xếp cho ít tiền để sinh sống bên Vân Nam. Một nửa Tứ ủng hộ Việt Minh một nửa Tứ đem đi. Chàng vốn là con một thương gia có tiếng, vẫn giao dịch với Pháp, nên việc chàng sang đất Tàu là một việc rất tự nhiên. Chàng đi Lao Kay rồi xin giấy phép sang Vân Nam du lịch. Việt Minh đón chàng ở Côn Minh và ra chỉ thị cho chàng bảo chàng đi đâu cũng nói là bất mãn với Pháp muốn gia nhập hàng ngũ cách mệnh.

Chàng ở lại Côn Minh gia nhập Việt Quốc và liên lạc ngầm với Việt Minh. Sự thực thì Việt Minh cũng không để chàng hoạt động gì, nửa vì sợ lộ, nửa vì Tứ không có tài cán gì chỉ thích sống một đời xa hoa. Chính vì vậy nên Việt Minh chắc Ninh không bao giờ nghi Tứ và sai Tứ đi với Nghệ chỉ cốt để gây thêm lòng tin của Ninh.

Lúc Tứ say thuốc chuyện trò với Ngọc, cố nhiên là Tứ không nói rõ là mình gia nhập Việt Minh. Chàng bảo Ngọc:

“Nói thật với chú, khi về được nhà thấy mặt vợ con, nếu yên ổn thì tôi trở lại sống cuộc đời bình thường cũ. Tôi không phản cách mệnh đâu, chú cứ tin như thế, nhưng tôi chán đời cách mệnh lắm rồi. Nếu cách anh thành công, tụi anh em bên nhà vợ tôi sẽ hết bắng nhắng, đó là điều tôi mơ ước hơn hết.”

Ngọc nói với Tứ:

“Sắp được về, làm thêm một điếu nữa ăn mừng chứ anh?”

Nghe giọng thành thực và xét các cử chỉ của Tứ trong chín hôm, Ngọc tin là Tứ không nói gạt chàng. Ngọc nhìn Tứ thở khói, chiêu một ngụm nước nóng, ngẫm nghĩ:

“Lại một anh chàng bị guồng máy lôi cuốn. Định thoát ra nhưng có thoát được không?”

Ngọc lại nghĩ đến chính đời mình và nghĩ đến Thanh. Thanh không muốn vào guồng máy còn chàng tuy đã bị guống máy lôi kéo, nhưng chàng sẽ hết sức hoạt động đến cùng; cho dẫu guồng máy có kẹp nát nhừ người chàng ra, chàng cũng vui vẻ can đảm mà chịu, không hối hận, không ăn năn, không oán trách những người đã đẩy chàng vào guồng máy và cũng không oán trách mình, tự cho mình là lầm lỡ.

Hơn mười giờ đêm Ngọc và Tứ mới trở về nhà. Nghệ và Tính vẫn còn chong đèn đọc sách. Ngọc đã dặn kỹ Tứ để hai người nói giống nhau về cuộc đi chơi kéo khá dài cho Nghệ khỏi trách móc. Chàng bảo Tứ đi nằm sợ Tứ không quen nên mệt rồi nói trống không:

“Gặp anh bạn Tàu cũ, anh ta cứ khẩn khoản mời ngồi chơi, đứng dậy không được. Người Tàu họ ăn khoẻ thật, ai lại chín giờ tối cũng cố níu mình lại ăn ‘síu dề’.”

[1]Quân bất thị quân, dân bất thị dân, thị An-Nam cách mệnh. (Quân không phải quân, dân không phải dân, ắt là người cách mệnh An-Nam)

[2]Các tiệm ăn uống ở Trung Hoa muốn binh lính Mỹ vào ăn phải đủ điều kiện vệ sinh và được cấp một tờ giấy có chữ “In bound” dán ngoài cửa.

[3] Không biết mình xuống cái thuyền này làm gì?

Nguồn: Nhất Linh, Giòng sông Thanh Thuỷ, Đời Nay xuất bản, Sài Gòn 1961, Văn Mới tái bản tại Hoa Kỳ. Bản điện tử do ông Nguyễn Tường Thiết cung cấp. Bản đăng trên talawas với sự đồng ý của gia đình tác giả.

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=8913&rb=08

Comments are closed.