Văn học miền Nam 54-75 (666): Xuân Vũ (kỳ 10)

XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG SƠN

10

Trời đất! Giữa lúc cái ruột tượng cũng như cái bao tử của mình sắp thủng ra rồi mà lại được đi lãnh gạo thì chằng khác nào chiêm bao. Tôi tưởng đâu là ai nói láo. Nhưng sự thật là cậu Tấn đang đứng trước mặt tôi đập đập đầu võng và nói: 
– Đi! Đi! Có gạo rồi.

Tôi đưa mắt nhìn quanh tôi. Lúc nhúc, lô nhô, loi nhoi trên những cái võng, những sinh vật bắt đầu ngóc dậy, nghển lên như những chú tằm đang ửng bụng trong nong mà nghe hơi dâu phất qua. Tôi nhìn sang ông Chín, thấy ông đang sửa soạn ruột tượng. 
Tôi nói: 
– Phen này là hết lo rách bao tử rồi ông Chín ơi! 
– Sao, cái gì mà rách bao tử? 
– Không rách thì thủng. 
– Các đồng chí toàn nói chuyện bi quan. 
– Có gạo rồi, thôi bây giờ lạc quan. Năm Cà Dom cười ré lên và rứt những chú vắt vứt đi. Lạc quan nè, lạc quan nè, một, hai, ba… hé hé hé! Thế đó lạc quan chưa? 
Ông Chín không đáp. Nhưng Năm Cà Dom lại muốn gợi chuyện. Năm Cà Dom nói: 
– Nhưng mà lội qua khỏi khúc đường vừa rồi chắc chắn có đứa bị ghẻ Tàu. Bởi vì vắt cắn chảy máu. Rồi vi trùng đột nhập vào. Cha chả ở trên con đường hắc xì dầu này mà bị một mụn ghẻ Tàu thì khổ sống lắm. Nó khoét tới xương. 
Tấn giục: 
– Thôi đi! đi! Người ta đi ào ào rồi kia kìa…
– Đi thì đi. Nói vậy nhưng tôi trông thấy Thu vẫn ngồi ỳ trên võng. 
Thu sịt mũi. Đôi mắt Thu đỏ hoe. Khổ quá. Lúc nào cũng có thể khóc, Thu tưởng như khóc để trút hết mọi nỗi niềm. Cho nên hễ khi đau khổ, bực tức, Thu đều khóc. Bây giờ được tin có gạo và chuẩn bị lãnh gạo, Thu cũng khóc. 
Tôi biết Thu khóc không phải vì sung sướng mà vì không đi được. Cơn đau suốt mấy ngày qua của Thu kéo lê trong mưa và dầm dưới nước bây giờ trở nên trầm trọng. Thu sốt, nhưng không phải sốt rét. Ở giữa chốn này mà sốt như vậy, biết lấy gì mà trị? 
Tôi bảo Thu: 
– Em đưa ruột tượng đây anh đi lãnh gạo cho. Em ở nhà coi ba lô cho anh và anh Năm. 
Thu nhìn tôi với cặp mắt van lơn, phó thác, và tuyệt vọng. 
Tôi và Năm Cà Dom vắt ruột tượng trên mỗi vai một cái, lòng thòng phía trước, lòng thòng phía sau. Năm vừa đi vừa hỏi tôi: 
– Cậu có nghe ống chân cậu như thế nào không? 
– Ngứa. 
– Xem tớ đây này… 
Tôi nhìn cặp chân của ông bác sĩ Cà Dom tuy đã gầy đi nhiều nhưng vẫn còn dáng dấp khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Trên làn da vàng sậm những vết đỏ bầm nổi lên và những làn trầy sướt vì móng tay quào. Năm Cà Dom nói: 
– Cái lá mục ở rừng này độc thật. 
Chúng tôi đi lẫn trong các dãy người nối đuôi nhau như kiến từ trong rừng đổ ra con đường mòn càng lúc càng đông hợp thành một chuỗi người càng lúc càng dài và càng dày. 
Người ở đâu mà đông thế. Té ra vì kẹt đường mà họ bị dồn cục lại ở đây chờ lãnh gạo. Gạo ở đâu mà phát cho đủ kia chứ? Gạo ở đây tải từng kí lô, bằng vai, bằng xe thồ xe ba gác thì lấy đâu được nhiều? 
Tôi đi, không cần hỏi đường, cứ lầm lũi đi như cái wagon xe lửa, cái trước lăn thì cái sau cũng lăn theo. Vì vậy cho nên hễ người kéo ngọn đi không kịp giao liên thì cả đoàn ở phía sau bị lạc hết. Có lần tôi suýt bị thiên hạ đánh vì tôi làm “đứt đuôi” không bám kịp người đi phía trước, cho nên đến ngã ba, thay vì rẽ vào ngả này, tôi lại rẽ vào ngả kia đi mãi, giao liên ở phía trước chờ không thấy đoàn tới bèn quay trở lại mới hay tôi đưa khúc sau vào tử địa. 
Nhưng ở đây thì không sao, đường lên kho gạo chỉ hai tiếng đồng hồ thôi. Có lần tôi đã đi mất một ngày để lãnh mười sáu kí lô gạo, sáu giờ sáng đi, năm giờ chiều mới về tới nơi. Mệt hơn lần này nhiều. Lần này chúng tôi phải qua mấy con suối, leo một cái dốc đứng mất bốn mươi lăm phút, xuống hết cái dốc đó, rồi đi ngang một chập nữa thì thấy có người vác những cái ruột tượng căng rướn đi ngược chiều chúng tôi. 
Thì tôi biết rằng mình còn cách sống được. 
Kho gạo lợp toàn ni lông xanh, nóc đứng như nóc nhà người Thượng nhô lên trong những hàng cây rừng, và tiếng người rào rào như ong vỡ tổ. Thấy đó nghe đó nhưng đi tới thì hãy còn khướt. 
Cái dốc cuối cùng là cái dốc cao nhất. Nhưng rồi cũng đến nơi. Một quang cảnh lạ bày ra trước mắt tôi. 
Người ta ngồi la hệt dưới đất, trên rễ cây. Đất nhẵn như nền nhà. Một con voi to sầm đứng bên một ngôi nhà đang vung vít cái vòi. Mấy người đứng xa chỉ chỏ ngắm nghía nó. 
Tôi có cảm tưởng là tất cả miền Bắc đã kéo hết vào đây. Vậy mà gạo đào đâu ăn cho đủ? Chỉ khổ thân con voi to tát kia, và mấy chiếc xe ba gác chõng gọng kêu trời không thấu đó. 
Người ta đang bu lại phía kho gạo, vây quanh những bao gạo có lẽ vừa mới được chở tới. 
Tôi đi về phía đó và cố đi rấn ra đằng sau một chút để tìm xem bằng con đường nào mà xe tải gạo tới đây như vậy. Thì có người quát: 
– Đi đâu đó, muốn chết hả. Nè, thằng cha kia! 
Tôi quay sang thì quả thật người ta đang la tôi: 
– Trở lui lại không? Vô kỷ luật! 
Trước sự sừng sộ quá đáng của một đức ông sơn lâm chúa tể nào đó, nhà văn Xuân Vũ bèn ngó dáo dác, tuy biết rằng kẻ bị la là mình mà vẫn làm ra vẻ là không phải mình cho đỡ ngượng. Nhưng cũng chưa hết. Cái giọng kia lại quát tháo tiếp: 
– Dòm dòm cái gì, muốn đi Bà Rá hả? Lộn xộn hoài. Tôi bảo ngồi đâu ngồi đó rồi tôi phát gạo cho mà ăn. Tôi quạu là tôi bỏ đói nhăn răng hết. 
Tôi quay trở lại và suy nghĩ: 
– Cái gì mà ghê gớm dữ vậy. Mẹ nó, trên đường này sao mình bị người ta nói nặng nói nhẹ luôn vậy. Thằng nào cũng chửi được mình cả. 
– Ê! ê! ông bạn! 
Tôi quay lại nhìn vào một đám đông đang ngồi trên một hòn đá to. Có tiếng cười rộ lên. Đúng là họ cười tôi đang ngơ ngác. 
– Đây này! đây này! 
Tôi nhìn thằng vào chỗ có tiếng nói đang phát ra. Một anh chàng gầy nhom với bộ mặt xương và đôi mắt to tròn nhấp nháy dưới một cái nền tóc trắng xóa! Anh này cười: 
– Không nhận ra à? 
– Ai đâu… 
– Tôi đây này. 
Tôi đi đến gần và lại ngơ ngác: 
– Xin lỗi, tôi quên rồi. 
– Nhìn kỹ lại xem. 
– Ai vậy cà? Tôi vừa nói vừa đi đến chỗ anh ta ngồi và càng chăm chú nhìn vào khuôn mặt ấy. 
– Dân Lam Sơn đây mà! 
Phải rồi! 
Lam Sơn là một kỷ niệm đối với tôi. Nhưng trong cái kỷ niệm đó có hàng trăm mảnh kết thành hợp lại, làm sao tôi nhớ cái mái đầu bạc kia là mảnh nào? 
Làm sao tôi nhớ được trong cái vùng xanh bạt ngàn của núi rừng rét buốt ở phía tây của tỉnh Thanh Hóa đó, mái tóc bạc kia tên gì? 
Anh chàng đầu bạc lại cười và vò vò mái tóc. 
– Đi đào gốc lim hoài mà quên à? Trông cái đầu này không nhớ hay sao? 
Quả tình tôi không nhớ. Hình như từ sau cơn sốt đến nay trí nhớ của tôi sút hẳn đi. 
– Hoa đầu bạc đây này? Hoa đầu bạc đội trưởng móc gốc lim C2 nông trường Lam Sơn sư đoàn 330 đây nhớ chưa? 
– À trời đất ơi? Tôi nhảy tới vồ lấy anh chàng tự xưng là Hoa đầu bạc và đấm thùm thụp vào lưng anh ta. Cũng đi đây nữa sao? 
– Cũng đi chớ sao không đi? 
– Tôi tưởng các cha chết hết lúc đào gốc lim rồi sang thời kỳ mắc gốc su hào rau muống ngoài đó chớ. 
– Mắc cũng ráng gỡ mà đi. Cơ hội này không “về nước” thì chờ cơ hội nào bây giờ. 
Tôi ngồi lại bên cạnh Hoa đầu bạc. 
Đúng là một trong những người bạn có liên quan mật thiết trong cuộc đời viết văn của tôi. Lúc đó vào khoảng năm 1958, tôi lên nông trường Lam Sơn để lao động thực tế. 
Đó là đợt lao động thực tế lớn nhất có lãnh đạo từ Trung ương.Tôi buồn quá, tuy không có dính gì tới vụ Nhân Văn Giai Phẩm nhưng không muốn ở Hà Nội. Cho nên tôi mới lựa các nông trường thật xa xôi mà đi cho yên ổn tâm thần. 
Tôi vào cuốc đất ở đơn vị của Hoa tám tháng, mỗi ngày có chấm công ghi điểm, mỗi tuần có tổng kết, mỗi tháng có báo cáo về Hà Nội. Nhờ vậy tôi quen với rất nhiều cán bộ quân sự trong đó có Hoa đầu bạc. Hoa ít tuổi hơn tôi nhưng tóc Hoa bạc sớm quá. Hồi đó tóc Hoa bạc mới phân nửa, còn bây giờ thì hoàn toàn một màu trắng xóa như bọt muối. Hồi đó anh em gọi là “ép em” đầu bạc hay Hoa đầu bạc. 
Nói chi tới bây giờ, tóc Hoa không còn sợi nào đen để mà bạc nữa. Hoa nhìn tôi và cười, cười rồi lại nhìn tôi, không nói. 
Tôi hỏl. 
– Gì mà cười hoài thế? 
– Coi anh tức cười quá. 
– Tôi kỳ cục lắm sao? 
– Không phải anh kỳ cục nhưng cái sự anh đi về Nam nó kỳ cục. 
-Như thế nào? 
– Mấy cha mà về trong đó làm chi, chạy mệt lắm! 
– Có võ có văn chớ. 
– Văng xương thì có. 
– Thì xưa nay vẫn thế mà. 
Hoa vui vẻ: 
– Cái nghề của tôi là cái nghề đánh đá, chỗ nào khua dao động thớt là người ta gởi tụi tui tới ngay. Đó, hồi đó tôi nhớ tôi nói một câu mà anh cười ngất. Bữa nhậu thịt heo rừng ở ngoài gốc khế, anh nhớ không? 
– Anh nói gì? 
– Cái gì anh cũng quên được cả. 
– Lâu quá mà! 
– Tôi nói là hòa bình thì tôi về vườn cuốc đất trồng khoai. Chừng chiến tranh nổ ra thì Hoa này xin một chưn. 
– Bây giờ thì xin một chưn rồi hả? 
– Phì! Xin luôn hai chưn!…
– Nhưng mấy cơn rồi? 
– Cơn gì? 
– Sốt! 
– Cái đó thì kể không hết. Sốt của tôi không còn cơn nữa. 
– Sao vậy? 
– Nó cứ liên miên, ngay bây giờ cũng đang sốt. Đáng lẽ phải nằm, nhưng nằm thì gạo đâu chạy về với mình. Cho nên phải bò.
– Có ai quen đi nữa không? 
– Thiếu gì. 
– Đâu hết rồi? 
– Tụi nó đi trước cả rồi. Chỉ mình sốt nên lọt lại sau đây. 
– Mình cũng vậy. 
Tôi lôi Hoa đi ra một góc và tìm chỗ, hai đứa cùng ngồi tâm sự. Tôi hỏi ngay: 
– Anh biết đến đây là đâu không? 
– Mẹ tôi cũng không biết nổi. 
– Ủa quân sự sao mà nói vậy? 
– Quân cái nước mã gì. Mù tịt. Vô đẩy chỗ nào như chỗ ấy. Đố ai moi cho ra một tên núi tên suối. 
– Theo anh ức đoán thì còn bao xa nữa? 
– Độ hai phần ba đường! 
– Hả! Anh nói sao? 
– Mình đi mới một phần ba thôi cha nội. 
– Trời đất! 
– Cái gì mà trời với đất. Tôi đoán chừng đây mới là đến khu sáu thôi, có khi chưa tới nữa là khác. Có phải tụi về khu năm mới vừa tách khỏi tụi mình độ nửa tháng đường không? 
– Hơn tháng chứ! 
– Hơn tháng là vì anh kể cả ngày đau nằm ỳ lại, chứ đi thì chỉ mất nửa tháng thôi. 
– Vậy à! 
– Chớ sao! 
– Còn xa thế à? Vậy tôi tưởng là ít ra mình cũng đã đi được nửa đường rồi chớ. 
– Chưa đâu, còn lâu lắm! 
– Sức khỏe đâu nữa mà đi. 
– Bồi dưỡng bằng nước suối, bằng lá bép. 
– Lá bép là gì? 
– Là lá bép. 
– Nó ra làm sao? 
– Như lá sộp vậy. Cũng láng láng, ăn sống không được, nấu canh ăn nghe béo béo. Hoa đầu bạc tiếp. Ở vùng này có một tiểu đoàn ăn lá bép ròng sáu tháng thay bắp. 
– Chớ không phải thay cơm à? 
– Không có cơm. Đây là trạm cuối cùng mình được lãnh gạo. Rồi từ đây trở đi khi bắp khi lúa. 
– Trời đất! Nói thiệt chơi? 
– Tôi đâu nói chơi làm gì! Tôi đến đây nằm đã mấy ngày rồi tôi nghe người ta nói mà: Khà khà! Kể cũng vui. Chớ sao! Hồi ra đi thì ba ngày, lúc trở về thì ba tháng. Khà khà, bây giờ tôi mới biết là đi tàu mau tới hơn đi bộ. Khà khà… Anh coi hai cái bánh chè của tôi này, đi có ngày nó sẽ rớt ra và lăn lộc cộc trên đá như những trái bã đậu cho mà coi. 
Tôi thở dài. Hoa đầu bạc nói tiếp: 
– Nhưng thôi cũng là may, vì mình có ngày về nước, còn hơn khối đứa dính gốc rau muống su hào ngoài đó đời đời kiếp kiếp không có tài nào về nước được nữa? 
Tôi đặc biệt chú ý tới cách dùng chữ của nhà quân sự nhất là hai tiếng “về nước”. Lần trước, tôi có gặp hai cán bộ quân sự đi công tác bảo vệ hành lang ở Trung Lào, cũng dùng hai tiếng “về nước” một cách mỉa mai như vậy. 
Nhưng dù mỉa mai mà nó đúng thật, đúng thật, đúng về mặt tình cảm cả về mặt công pháp quốc tế, lẫn về mặt địa dư. Thực ra Việt Nam đã chia thành hai nước rõ rệt có ranh giới và có hai linh hồn khác hằn nhau, mỗi cái ngự trị trong một thể xác hoàn toàn khác nhau! 
Người từ phương Bắc đi vào phương Nam bây giờ đâu phải như trước 1954 nữa. Bây giờ từ Bắc vào Nam có ý nghĩa chính trị từ một nước sang một nước khác. 
Có lẽ những anh bộ đội nằm đêm cay đắng nhiều nỗi lắm cho nên mới nghĩ ra và xài cái danh từ “về nước” chua chát này. 
Tôi hỏi Hoa: 
– Bây giờ lên lon gì rồi? 
– Lon gì. Hồi cải cách mình là trung đội trưởng. 1958 phong quân hàm xong, mình lãnh thiếu úy, bây giờ về Nam thiên hạ hứa đề bạt mình lên một sao nghĩa là hai sao gạch đít nhưng phải vô tới nơi và phải tốt kìa. 
-Vậy thì có lên gì đâu. 
– Lên chớ, lên trời. 
– Mười hai năm mà không lên nổi một bậc à? 
– Còn lâu. Trong cải cách ruộng đất không tụt xuống là may chớ còn lên đâu nữa? 
Có người ngoắc: 
– Vô lãnh gạo! 
Tức thời tôi và Hoa như cái lò xo bật lên, tay quờ quạng chụp lấy ruột tượng và mạnh thằng nào thằng ấy chạy ào ào không cần nghĩ tới chuyện chia tay từ giã chi nữa. 
Thế là tôi đến kho gạo. Người ta như kiến cỏ. 
Tôi không chen vào nổi. Tôi đứng nhón chân nhìn qua vai mọi người nhưng cũng không trông thấy gì. Mồ hôi từ những tấm lưng những bộ áo, những mái tóc bốc lên chua lòm. 
Tôi đành lui ra ngoài đứng chờ, không hy vọng lãnh được gạo trước ba giờ chiều. 
Tôi quay ra nhìn con voi cho đỡ sốt ruột. 
Chú voi to ghê quá. Có lẽ nó là của một vị hoàng thân quốc thích nào từ triều Quang Trung, nó đã từng chở lương thực hay đã làm chân cho một ông tướng thời ấy. 
Một vành tai nó bị rách tua ra thành nhiều mảnh và nó chỉ còn có một cái ngà. Nhất voi một ngà, nhì người ta một mắt. 
Những dấu vết vừa kể có thể chứng minh thêm tính nết và chiến công của nó. 
Trông nó hiền lành cục mịch, chậm chạp, khờ khạo nữa là đằng khác. Nó đứng sầm sầm như một quả núi con con, chỉ có cái vòi nhúc nhích đong đưa, còn toàn thân mốc cời đứng im như một màu đá rêu mốc, thỉnh thoảng tấm da của nó mới run run lên để xua đuổi ruồi muỗi. 
Hoa đầu bạc ngoắc ngoắc tôi: 
– Vô đi, vô kẻo hết. 
Tôi cứ ngơ ngác không chịu vô. Hoa quát: 
– Đã bảo vô mà cứ lừng khừng ở đó hoài vậy? Muốn chết đói hả? Trời đất! Ở Hà Nội ăn phở xếp hàng, người ta không lấn, chớ ở đây không lấn thì không có lãnh gạo được đâu mà. 
Sự thực ra, không phải là tôi không biết chen lấn. Nhưng nếu chen lấn tương đối khỏe như xếp hàng mua thịt hay mua hàng ở mậu dịch, chen lấn mà còn giữ được cái thể thống cái mặt mũi mình kìa, thì tôi cũng không ngại, còn đằng này thì chen như nêm, như cưỡi lên nhau thì tôi không có đủ sức khỏe. Nói thì mang tội, chứ nó chẳng khác nào một bầy vịt quá đông mà cái tô lúa quá bé. 
Người phát gạo đứng trên sàn nhà, vừa quát tháo vừa vung tay đá chân. Tôi chỉ nghe la chớ không rõ anh ta nói cái gì. Chân anh ta dang ra thỉnh thoảng một chân đá hất một cái ruột tượng chìa vào. Có lẽ anh ta không biết phải phát cho ai khi mà trước mặt anh ta có vô số ruột tượng và giấy giới thiệu chìa tới quơ quơ, ai cũng quơ thật mạnh để lôi kéo sự chú ý của anh ta. 
Nên nhớ rằng trong sổ giấy giới thiệu có cả những tấm giấy giả. Trên đường Trường Sơn này đâu có giấy tờ gì cho ra hồn? Ai muốn viết cũng được Tên đoàn đâu có gọi đúng sự thực, toàn những tên giả mạo A3, Kqt, BCS, A6, v.v.! Cho nên ai muốn viết cho mình cái giấy giới thiệu gì cũng khó có ai kiểm soát cho ra nhẽ. Nhất là lại không có mộc mẹo chi cả. Cho nên anh quản kho không muốn nhận cái giấy nào mà anh ta cứ xem xem mặt một chút rồi độp một cái anh ta bảo: 
– Anh kia kìa, đưa ruột tượng đây! 
Thế là cái anh nào được trỏ vào mặt một cách hết sức vô lễ đó, ngày thường thì có thể đánh nhau vì cái sự trỏ mặt người ta đó, nhưng ở đây thì người bị trỏ mặt lại rất lấy làm hân hạnh sung sướng, nghênh cái mặt lên và chìa ruột tượng ra để nhận… gạo! 
Tôi đứng lùi ra xa và mặc cho người ta lướt qua trước mặt. Ở phía sau tôi còn mấy cô phụ nữ. 
Tôi giật mình đánh thót một cái như bị ong chích. Sao lại có một cô ngộ nghĩnh giống như đầm lai thế kia? Cô ta mặc áo bà ba đen, tóc hai bên thái dương hơi xoăn và chót mũi nhọn hơi hếch lên như mũi hia giống như mũi các cô đầm Tây. 
Cô ta đứng bên cạnh một cô nữa. Trời xui chi có sự tương phản chua xót làm vậy? Cô kia đứng bên cạnh cô tóc xoăn chi để làm cho cô tóc xoăn nổi bật thêm lên. 
Đáng lý ra tôi lê chân tới một chút để cho gần cái lý tưởng lúc bấy giờ là gạo của tôi hơn, nhưng dường như có cái gì đang níu kéo ở phía sau tôi nên tôi cứ đứng lỳ ra đó với tất cả bình tĩnh của một gã giang hồ cao thượng không thèm đếm xỉa tới cái sự vật chất tầm thường kia, chẳng ngờ trong lòng trái tim đã rung rinh rồi. 
Năm Cà Dom đã lãnh gạo, hai vai anh ta vác hai cái ruột tượng căng ườn như hai con trăn vĩ đại của gánh hát xiếc Tạ Duy Hiển. Mồ hôi từ trên trán trên cổ chạy xuống có dọc ướt cả ngực, cả vai anh ta. Anh ta vừa đi vừa thở hổn hển. 
Trông thấy tôi đứng im, anh ta quát: 
– Đi vô mau đi! Không hết đấy. 
Tôi lắc đầu: 
– Vô gì được mà vô. 
– Gạo tốt lắm, không có mục như kỳ rồi. Vô mau đi. 
Tôi vẫn đứng im Năm Cà Dom sốt ruột: 
– Vô đi kẻo hết. 
– Đông quá chen ngả nào? 
– Thì phải chen mới vô được chứ đứng đó mà chờ người ta dâng cho hai tay à? 
– Thong thả đã! 
Năm Cà Dom ngó dáo dác, rồi bảo: 
– Thôi, giữ đây này! Đưa ruột tượng đây. Chán cha nội quá. Lúc nào cũng mơ mộng như trên cung trăng rớt xuống vậy. 
Tôi không ngờ được lòng tốt của anh Năm Cà Dom tới như thế. Ai trong lúc này lại hảo tâm với một thằng mới quen (mà quen trên đường Trường Sơn) đến thế. Lãnh được gạo là người ta ba chân bốn cẳng chạy về ngay để nấu ăn chớ. Gánh làm gì công việc của người khác? 
Năm Cà Dom quàng cặp ruột tượng vĩ đại lên vai tôi và bảo: 
– Coi chừng cho kỹ nhé. Mười bảy ngày sắp tới đây không có phát nữa đấy. 
– Nghĩa là sao? – Tôi nghe lùng bùng hai lỗ tai và hỏi – Nghĩa là không có phát gạo trong vòng… 
– Mười bảy ngày tới đây, hiểu chưa? Qua ngày thứ mười tám mới có phát. Mà cái đó thiên lôi nó tin chớ ai mà tin cho được? 
Tôi nghe mà hết vía. Mang mười bảy lít gạo trên người tức là năm mươi mốt lon sữa bò gạo thì ít ra cũng mười kí lô. Chết còn sướng hơn, làm thế nào mà mang. Năm Cà Dom chạy phốc đi rồi quay lại bảo: 
– Có một cái ruột tượng thì làm sao lãnh cho hết gạo? 
– Làm sao bây giờ? Tôi đâu có dè. 
– Cha nội thiệt, cái gì cũng không dè, không biết cả! 
– Kệ nó, lãnh vài chục lon thôi. 
– Bậy nữa. Thôi được rồi! 
– Sao? 
– …Cởi quần ra, gút ống lại cho tôi. 
… 
– Mau lên! Sao chết trân đó vậy? 
Tôi vẫn không chịu thi hành lệnh của Năm. 
– …Ai hốt hồn… Năm vừa nói đến đó thì chợt thấy cô gái tóc xoăn bên gốc cây. 
– À ạ…! Khổ quá! 
Năm lôi tôi đi chỗ khác, khuất mắt cô ta rồi rỉ tai tôi: 
– Lại gặp nữa he! Mắc cỡ hả? Cởi mau lên! 
Tôi cực chẳng đã phải làm theo ý muốn của Năm Cà Dom. 
Năm Cà Dom chạy bay vô kho gạo. Tôi buông hai cái ruột tượng gạo xuống đất và tìm chỗ ngồi. 
Thật là thảm hại. Hôm trước tôi nhìn cái bộ mặt của tôi trong gương mà hoảng kinh hồn vía, bây giờ tôi lại kinh hồn hoảng vía vì nhìn lại cặp giò của mình. 
Còn tí thịt nào đâu. Cái bắp chuối nhão nhẹt, cái mớ thịt mềm èo như bọt bèo ở phía trong. 
Vậy mà có lần Thu đùa, bảo “chân bộ đội chẳng khác cây cọc màn” thì ông Chín làm cho một vố quá sá! Ông bảo là cô “mất lập trường”.
Làm sao mà đi hai phần ba đường nữa với cặp chân này? 
Tôi không ngờ một cặp chân như thế lại là cặp chân của tôi, hay tôi không ngờ cặp chân của tôi lại hóa ra như thế được. 
Người đi lãnh gạo vẫn rải rác từ các nẻo đường đổ tới như hàng trăm, hàng ngàn cái bao tử đang run rẩy, xoắn lại, gồng lên, co giãn ra trước cái kho gạo kia. Họ vừa đi, vừa giơ cái bao tử thủng tung lên như để làm ngọn cờ đấu tranh. 
Người nào người nấy trông thật thảm hại. Tất cả đều thảm hại, nhưng mỗi người mỗi vẻ, chứ không giống nhau. Người thì đi khặc khừ, người thì lê gậy lọc cọc, người thì buộc ruột tượng ngang lưng bỏ hai mối thòng dài xuống như cái thắt lưng hoa lý của các cô nàng trong một ngày hội chèo ở một làng quan họ. Có người thì vừa đi vừa thở phào phào, còn người lại gục xuống làm cho mái tóc rũ xuống như một chú gà chọi bị chém gục cần. 
Tôi vẫn tiếc cô gái tóc xoăn. Không biết cô thuộc khối nào, đoàn nào, ai chỉ huy cô ta. Và nhất là cô ta đi về Nam theo cái tiếng gọi nào? 
Cô ta đã nhích lên được vài bước để có thể cái hy vọng gạo gần hơn cô ta hơn một chút, nhưng vì người ta không nhường nhịn phái yếu, mà cô ta thì không dám chen lấn như phái mạnh, cho nên đáng lý ra nếu có sự công bình trong cái xã hội trật tự thì cô đã tới cửa kho, nhưng những người đi sau cô mà đã lãnh được gạo rồi. 
Thế đó, tình đồng chí đồng hành như thế đó. 
Năm Cà Dom đã trở ra, với cái ruột tượng gạo no nức và một ống quần căng phình. 
Tôi muốn nhảy lên bá cổ Năm mà hôn, mà cắn rồi quỳ sụp dưới chân mà lạy vài ba chục lạy. 
Năm nói: 
– Hết rồi! 
– Cái gì hết? 
– Gạo chớ còn cái gì! 
Mấy người xếp hàng phía sau đố xô vào hỏi Năm: 
– Gạo hết rồi à đồng chí? 
– Còn mẹ gì. Về đi mai mới có. 
– Sao đồng chí biết? Một người hỏi vặn. 
– Thì tôi vừa ở trong ra đây mà. Năm Cà Dom nói. Đáng lẽ tôi lãnh đầy cả hai ống quần mà tôi chỉ lãnh được có một ống thôi không thấy sao hả? Được rồi, ai không tin thì cứ chen vào tôi cam đoan mấy anh chen cho mệt rồi khi tới nơi cũng chẳng có cái mẹ gì hết! 
Năm Cà Dom không để ý xem câu nói của anh ta có tác dụng gì hay không, anh ta cứ ngồi phệt xuống đất và mở cái ống quần ra mà bảo tôi: 
– Cậu mở cái ruột tượng mà trút vào đây luôn đi. 
– Chi vậy? 
– Ấy, mau mau đi mà. Rồi sẽ hay! 
Tôi nghe lời Năm Cà Dom trút cái ruột tượng gạo vào ống quần. Năm Cà Dom cởi cái mũ tai bèo ném lại cho tôi và chạy bay trở về kho gạo với cái ruột tượng không trên tay. 
Tôi ngơ ngác không hiểu Năm Cà Dom làm cái trò gì vậy. 
Nhưng chỉ chập sau là Năm trở ra với cái ruột tượng đầy. Năm Cà Dom hí hửng. 
– Thôi về, về! 
Năm Cà Dom vừa nói vừa lôi tay tôi đứng dậy. Tôi quăng hai cái ruột tượng của Năm Cà Dom lên vai tôi và đứng dậy. 
Nhưng trời ơi! 
Trời đất ơi! Cha mẹ ơi! Tôi không đứng dậy nổi. 
Chỉ có độ mười ký lô nằm trên vai mà một anh chàng ra đi từ Hà Nội khỏe như vâm, chỉ vượt Trường Sơn hơn một tháng với vài cơn sốt mà giờ đây chỉ với cái sức nặng đó trên vai mà không đứng dậy nổi. 
Tôi không muốn để cho mọi người trông thấy điều đó, sự suy nhược của một “anh hùng giải phóng” cho nên tôi bám gốc cây trước mặt và cố gắng đứng dậy. 
Tôi đứng dậy được rồi. Trong thâm tâm tôi, tôi nghĩ chắc Năm Cà Dom không biết sự suy yếu của cơ thề tôi, nhưng Năm Cà Dom nói ngay: 
– Cậu trông to xác thế mà rệu lắm rồi. 
– Ư… Tôi lắc đầu và đi theo Năm. 
Người từ dưới vẫn cứ như ốc như sên bò từ từ lên dốc chậm chạp, lặng lẽ và cố gắng dằn hơi thở không cho nó gây thành tiếng làm thối chí người đi bên cạnh. 
Đến khúc vắng Năm nói: 
– Gạo còn nhiều lắm! Đi nhanh lên, về tới rồi tôi trở lên. 
– Chi vậy? 
– Lãnh thêm chớ chi. 
– Tiêu chuẩn đâu còn mà lãnh? 
– Tiêu chuẩn là do cái bao tử của mình đặt ra thôi. 
– Nhưng làm sao mà cậu lãnh được? 
– Được chớ. Mình ăn mặc khác đi. Đội mũ khác đi và rên rẩm kêu la. Đâu có cái gì làm chứng rằng mình đã lãnh gạo rồi. Kêu to, rên mạnh là nó phát nữa thôi. Nó đâu có nhớ mặt thằng nào. Cứ chìa ruột tượng vô là nó phát thôi mà. Dư thiếu gì nó đâu có cần. 
Năm Cà Dom nói về cái mánh khóe của anh ta thao thao bất tuyệt. Anh ta hỏi tôi: 
– Tại sao gạo còn mà tôi tung tin là hết, cậu biết không? 
– Không. 
– Cậu gà tồ thật đấy. Cứ cái lối ngoan ngoãn thành thực như cậu rồi chết, đi không tới nơi cho mà coi! 
– Sao? 
– Đời nó vậy đó! 
Năm Cà Dom tiếp: 
– Tôi tung tin hết gạo là để cho cái đám lúc nhúc phía sau đang lao tới kia phải thối chí rã ra trở 1ui! Thừa lúc đó có kẽ hở là mình chen vào. Mà quả thật vậy, lần vừa rồi, tôi vô rất dễ. 
Tôi hỏi: 
– Nhưng mà làm sao cậu lãnh lần thứ ba được vậy? 
– Tớ liệu bề cái bản mặt của tớ thằng phát gạo không quên, cho nên tớ nói là tớ đi lãnh giùm một đồng chí sốt nặng. Nó ngần ngại không muốn phát thế là tớ la toáng lên. Tớ càng sân si, càng nêu cao tình đồng chí, đồng đội. 
– Tớ phục cậu ghê! Cậu như con mẹ lái cá vậy. 
– Tớ bảo nó, nếu đồng chí không phát cho tôi mười bảy lít gạo thì đồng chí sẽ phạm tội sát nhân, tôi trở về không có gạo thì đồng chí lấy gì ăn. Đồng chí vô tình đã tiếp tay cho giặc… Bị tôi kết án nặng quá anh ta phát cho tôi, nhưng anh ta nói. Anh ta nói đúng thật. 
Năm Cà Dom tiếp: 
– Anh ta nói: Các đồng chí ăn gian dữ lắm. Sở dĩ thiếu gạo là vì có nhiều đồng chí lãnh gạo hai ba lần… Hắc hắc hắc… (Trong đó có đồng chí Năm Cà Dom!) 
Một tốp người từ dưới dốc bò lên. Một người hỏi: 
– Tới kho chưa đồng chí? 
– Tới rồi mau lên, kẻo hết, Năm Cà Dom đáp. 
Tôi hỏi: 
– Sao cậu bây giờ không bảo là hết gạo như lúc nãy? 
– Cậu thật là lơ tơ mơ! Mình nói hết nó sẽ trở về làm sao? 
– Trở về thì trở về chứ! 
– Nó trở về, nếu nó để mình yên ổn thì mặc kệ nó, đâu có ăn thua gì mình. Nhưng nó trở về mà không có gạo ăn nó sẽ la cà tới chỗ mình nấu cơm nó kêu đồng chí nọ, đồng chí kia nghe ngọt lịm như đường phèn, rồi nó hỏi mượn gạo của mình. Cậu làm sao từ chối? Từ chối khó coi lắm, cậu hiểu chưa? Trời đất! Cậu không có một chút kinh nghiệm đi đường gì hết vậy? Đó thuộc về tâm lý, cậu viết mà không nghiên cứu à?
– Tớ bái cậu luôn. 
– Bái, bái cái gì. Đi một tấc đường học đặng trường khôn, nhất là tấc đường Trường Sơn thì học năm bảy trường khôn. 
Đột nhiên Năm Cà Dom hỏi: 
– Ơ này, cậu có quen với cô tóc xoắn ấy à? 
Tôi đáp: 
– Không. 
– Coi bộ rung rinh rồi đa! 
– Rung rinh cái gì, run rẩy thì có! 
– Chia lại mình một “Cu li” đi. 
-Chia gì mà chia? 
– Nè trên sân cỏ “deux contre un” bị phạt đấy nhé! 
– Tớ đâu có “hai chọi một” mà phạt? 
– Sao lại không! 
– Đã bảo không quen mà. 
– Nhưng mà tớ bắt nhãn rồi. Cô ta nhìn cậu với cặp mắt “sương mờ rơi” lắm! 
Đang đi bỗng có người từ trong rừng rẽ ra, trên tay xách một xâu cá khô. Không biết cá gì, nhưng rõ ràng là cá. Trời đất, ngồi buồn lại gặp chiếu manh. Tôi chưa mở miệng thì Năm Cà Dom đã hỏi: 
– Này đồng chí! Khô mua ở đâu vậy? 
– Trong kho kia. 
– Ủa đây có kho thực phẩm à? 
– Có chớ. Nhưng bí mật nghe. Vô ít ít chớ vô ào ào nó không có bán cho đâu.. 
– Được rồi tôi vô hai đứa thôi! Nhưng đi thế nào? 
– Đi thẳng vô vài trăm thước thôi! 
Thế là Năm Cà Dom bảo tôi: 
– Đi vô kiếm chút “a dốt” đi! Chất đạm trong khô nhiều lắm. Có vài chục con khô bỏ theo thì vững bụng lắm. 
Quả thật, hai đứa đi tới một cái chòi có người ở, bên cạnh chòi có một cái chòi cao cẳng, trên sàn chòi chất đầy khô. 
Năm dừng lại và rỉ tai tôi: 
– Cậu còn đá lửa không? 
– Còn. 
– Đưa tớ vài viên. 
– Chi vậy? 
– Tớ vô công tác chính trị thằng gìữ kho này. Tớ cũng có nhưng còn ít quá, sợ không đủ xài vì tớ hút thuốc lá như cậu biết đó.
Năm Cà Dom đi thẳng vô tìm gặp anh giữ kho. Anh này còn rất trẻ. Vậy cậu ta sẽ là con gà con dưới nanh vuốt của con diều Năm Cà Dom. 
Năm Cà Dom nói ngay với cậu ta: 
– Tớ là bác sĩ đây! Nhưng bây giờ chằng có thứ thuốc nào bằng khô với muối. Cậu bán cho tớ một ít. Tớ trả tiền đàng hoàng, và tớ tặng cậu năm viên đá lửa xài chơi. Ở rừng như cậu mà thiếu lửa là chết ngay. Tớ nói thật. Đứa nào nói gian cho hộc máu ra đi! 
Năm Cà Dom hỏi tiếp: 
– Khô bao nhiêu một ký vậy cậu? 
– Tùy! Cậu thanh niên đáp không quả quyết. 
– Tùy nghĩa là muốn mua bao nhiêu thì mua, trả bao nhiêu thì trả phải không? Đúng rồi! Cách mạng mà! Tất cả đều là của chung. Cậu cho tớ mua năm kí lô đi. 
– Nhiều dữ vậy? Mỗi người chỉ được ba con thôi. 
– Ba con bằng chân cái đó để làm gì? Đứa nào ăn no, cho ăn no, đứa nào thiếu cứ chờ có thêm sẽ lãnh. Tớ ví dụ một trăm thằng oam oam đi khặc khừ không thể khiêng nổi một nòng pháo, nhưng mười đứa khỏe mạnh sẽ chuyển cái nòng pháo đó chạy te te… Hì hì. Thôi năm kí không được thì ba kí. Tụi tôi không phải mua cho hai đứa đâu mà cả đoàn còn hai chục đứa ở nhà, bác sĩ không thôi! Hai mươi bác sĩ vô Nam cái là chiến sĩ ta khỏe lên ngay! 
Anh thanh niên nhìn Năm Cà Dom lặng thinh. Năm Cà Dom bảo tôi lấy đá lửa cho cậu ta rồi nói: 
– Cậu lại đây xem! Tôi coi qua con mắt một chút. 
– Dạ. Anh thanh niên ngoan ngoãn bước tới. 
Năm Cà Dom vạch mí mắt, rồi sờ bụng, sờ vai. Năm Cà Dom ấn mạnh vào bụng ngay phía dưới hoành cách mạc và hỏi: 
– Có đau không? 
– Dạ đau ạ. 
– Lá mía cậu thòng rồi! Sốt nhiều lắm phải không? 
– Dạ đúng rồi. Em lúc nào cũng sốt. 
– Uống thuốc gì? 
– Dạ chẳng có thuốc gì hết. Em toàn uống nước dây bồ hòn thôi. 
– Có cắt cử được không? 
– Khi được khi không. 
– Để tôi cho quinine uống nhé! 
Năm Cà Dom móc túi lấy hơn chực viên kí ninh. Cậu thanh niên đưa tay ra nhận. Có lẽ lâu nay không ai cho cậu nhiều thuốc thế. Còn Năm Cà Dom tuy trong sinh hoạt thì có phần lém nhưng đi vào nghề thì bao giờ cũng tận tâm. 
– Chậc! Sốt thế này thì cả đời không chữa được. 
– Dạ em đâu biết làm sao. 
– Ăn uống được không? 
– Dạ khi được khi không. 
– Đừng đòi vợ sớm nhé. Hại lắm. Hề hề. 
Năm Cà Dom bảo: 
– Thôi cậu bán khô cho tôi đi? Em cưng! 
– Dạ. 
Anh thanh niên leo lên sàn nhà lấy một xâu rồi một xâu nữa thòng xuống cho Năm Cà Dom. 
Năm Cà Dom bảo: 
– Hai mươi bác sĩ đi vào Nam nhé? Nhớ cho họ đắp đầu gối khá khá chút. 
– Còn anh này cũng là bác sĩ hả anh? 
Cậu thanh niên chỉ vào tôi và hỏi. Dường như cậu ta chưa quan niệm được một ông bác sĩ như thế nào. 
Năm Cà Dom cười: 
– Ông này hả? 
– Dạ. 
– Ông này còn quan trọng gấp mười bác sĩ. 
– Dạ. 
– Ổng là bác sĩ nhưng chỉ chữa bệnh tinh thần. Thí dụ như cậu đang bi quan thì ổng làm cho cậu lạc quan, cậu đang bất mãn thì ổng làm cho cậu hết bất mãn. 
Cậu thanh niên cứ dạ dạ vâng vâng chứ không hiểu gì cả, còn Năm Cà Dom thì cứ vừa pha trò vừa moi cái vựa khô của cậu ta. Năm Cà Dom tiếp: 
– Nếu như cậu không chịu bán khô cho ổng thì ổng sẽ làm cho cậu bán rất nhiều. Ví dụ như thế. Nhưng ông ít hay nói như tôi ổng chỉ nhìn cậu là cậu phải nghe theo ý muốn của ông thôi. Đây cậu sắp đưa cho ổng một xâu khô rồi đó. 
– Dạ. Cậu thanh niên như bị thôi miên, cậu ta lấy đưa cho tôi một xâu khô. Và còn hỏi thêm: Các anh có cần muối không? 
Năm không đáp mà hỏi lại: 
– Cậu có nhiều không? 
– Ít thôi. 
– Cậu có thể cho tụi tôi mỗi đứa mấy kí? 
– Mỗi người một lon sữa bò. 
– Ba lon nhé. Tôi đã bảo là hai mươi bác sĩ đi vô Nam mà! 
– Dạ. 
– Một lon thì chỉ nhỏ con mắt cũng hết rồi, nếu rủi cái mũi có đau lấy gì mà nhỏ? 
– Thôi em cho các anh ba lon. 
– Mỗi người? 
– Dạ. 
– Thế thì tạm được, ba lon nhân cho hai mươi là sáu mươi lon. Như vậy là đoàn bác sĩ hai mươi người của chúng tôi chắc chắn sẽ tới nơi với số muối đó. Nhờ ai? Nhờ cậu, cậu rõ chưa nào? 
– Dạ! 
Cậu bé thấy Năm Cà Dom nói hay quá. Cậu ta phải tự hào chớ. Cậu ta hỏi: 
– Các anh có cần khô rừng không? 
– Khô gì? 
– Khô voi? 
– Ui chà! Không ngon lắm, nhưng ăn cũng tạm được! 
Thế là cậu thanh niên rút trên giàn bếp khói ám đen ngòm và ném xuống đất những thỏi như củi dừa mà má tôi sấy trên bếp cho mau khô. Cậu ta quăng xuống đất nghe độp độp. 
Tôi và Năm Cà Dom nhặt và nâng lên mắt xem không có vẻ gì là khô cả. 
Cậu thanh niên bảo: 
– Các anh về lùi nó dưới tro nóng một lát lấy ra đập nó tơi ra ăn ngon lắm… giống như bố tời vậy! 
Thế là chuyến đi của chúng tôi thành công mỹ mãn. 
Nhiều người đến nài nỉ mãi chỉ được có ba con khô thôi. Thấy hai đứa tôi được chiếu cố một cách quá đáng có nhiều người phàn nàn, nhưng cậu thanh niên nói theo cái giọng của bác sĩ Năm Cà Dom lúc nãy: 
– Một đoàn bác sĩ hai mươi người! Họ mà vô tới trong Nam là tình hình sáng sủa lên ngay. Họ là người đặc biệt. Chúng tôi được chỉ thị cấp trên cung cấp cho họ với tiêu chuẩn đặc biệt. 
Thấy đứng lâu chỉ để làm đề tài cho khách chống lại cậu thanh niên giữ kho, cho nên tôi và Năm chuồn thẳng. Đi một quãng, Năm cởi áo ra bọc ba xâu khô lại kỹ lưỡng. Năm bảo: 
– Để người khác trông thấy không nên! 
Chúng tôi đi lên thì vất vả theo sự đi lên, còn đi xuống vất vả theo đi xuống. Đi tay không thì bụng đói meo chân rã rời, còn lãnh được gạo vác thì mệt quá, đi không nổi. Tôi bị ngã một cái nên thân. Cả người tôi rơi vào một bụi gai lởm chởm, hai cẳng giơ lên trời còn hai cái ruột tượng thì đè xuống, tôi không sao ngóc dậy nổi. Năm phải đến lôi tôi, tôi mới đứng dậy nối. Vậy tôi mới biết sức khỏe của tôi tồi đến đâu. 
Chúng tôi về đến địa điểm thì thấy trống trơn. Người ta đã cuốn tăng cuốn võng đi đâu hết. Chỉ còn lại một mình Thu ngồi khóc. Tôi vừa cáu vừa thương hại nàng, tôi hỏi: 
– Cái gì em lại làm mưa thay trời nữa đó! 
– Người ta đi hết hai đợt rồi. 
– Đường “xoi” thủng rồi sao? 
– Không phải. 
– Chớ sao người ta đi? 
– Đi lánh nạn. 
– Nạn gì mà lánh? 
– Ở đây gần địch lắm rồi. Anh không nhớ cách đây ba trạm mình cũng bị kẹt đường à? Ở cái chỗ em xung phong múa hoa Champa, bị ông già Chín phá đám đó. 
– Nhưng ở đó khác đây khác chớ! 
– Không! Theo như đồng chí đại diện Bộ Tư lệnh phổ biến thì bọn địch đang nằm trước mặt chúng ta. Có thể là… 
– Ổng đâu rồi? 
– Ổng đang đả thông anh em đằng kia! 
– Đâu lại hỏi xem tình hình chút coi anh Năm. 
– Thôi cậu đi đi! Tớ lo giấu gạo cái đã. Bộ tư lệnh nào cũng không bằng bộ tư lệnh gạo cả. 
– Nhưng anh giấu đi đâu? 
-Trong ba lô! 
– Để làm gì? 
– Để không cho người khác thấy. Cậu cứ phơi bày ra đó, bị ăn trộm đấy. 
– Gi ghê thế! 
– Để rồi xem. 
Mặc cho Năm Cà Dom lo chia sớt phân phối gạo, tôi đi về phía có tiếng còi văng vẳng. Tôi không phải lo âu gì về gạo. Bởi vì tôi không bao giờ ăn hết ba lon sữa bò một ngày. Cho nên nhiều lúc tôi cho bớt đi. Ngược lại có những người như Năm Cà Dom ăn một bữa hai lon gạo mà còn đòi thêm. 
Tôi đến chỗ anh em tập họp. Anh đại diện Bộ Tư lệnh đứng trên một mô đất đúng ra là một cái nắp hầm cũ không ai dùng nữa. 
Anh ta mặc đồ bà ba, quần xăn lên quá nửa ống quyển. Lưng đeo súng ngắn, vai mang sắc cốt da. Anh ta nói cà gật cà gật cái đầu và hét to từng chập: 
– Ăn ở gì thế này hả? Giống như một đám tàn quân thế này hả? Tổ chức nát bét thế này đụng địch làm sao chiến đấu hả? 
Cứ mỗi câu ông đại diện Bộ Tư lệnh lại “hả hả” một cái rõ to để chấm câu. Đám người lớp đứng lớp ngồi nghe ông ta nói thì cứ râm ran phản ứng từng lúc, từng câu ở từng khóm một. Cán bộ dân chánh thì phản ứng theo dân chánh, binh lính thì phản ứng theo binh lính, nhưng ông đại diện đang cáu nên cứ nói bừa lên đầu cái luồng dư luận vừa dấy lên kia. 
Ông ta nói tiếp: 
– Ỉa đái đầy suối thế kia. Than củi tùm lum thế kia. Quần áo phơi nhan nhản thế kia. Máy bay nó có mù nó cũng phát hiện được. 
Một anh lính nói ngay, khá to: 
– Máy bay nó ngửi được mùi cứt chúng mày ạ! 
– Câm cái mồm tên vô kỷ luật! Ông đại diện Bộ Tư lệnh quát và trỏ vào cái nhóm lính đang cười rộ lên vì câu trêu tức vừa rồi. 
– Chúng mày muốn tù hở! Đơn vị nào thế! Mất dạy? Này tao bảo cho biết? Nó đánh không phải chỉ bằng máy bay thôi nhé. Trong rừng này không thiếu biệt kích nhé? Người ta chết chỉ vì một cái tàn thuốc lá nhé? Đừng có khinh người. Các anh ăn ở thế này nó thối ra nghe chưa? Biệt kích nó đến ngay đấy, đừng có mà giỡn mặt. Chừng chết nhăn răng ra rồi không ân hận kịp! 
Ông đại diện Bộ Tư lệnh tuôn ra một thôi dài không tả xiết. Xong ông đại diện Bộ Tư lệnh quát anh giao liên lập tức dời địa điểm đoàn khách, không được trì hoãn một phút.

Nguồn: https://vietmessenger.com/books/?title=vuot%20truong%20son%202%20%20%20xuong%20trang%20truong%20son&page=10

Comments are closed.