Văn học miền Nam 54-75 (674): Xuân Vũ (kỳ 18)

XƯƠNG TRẮNG TRƯỜNG SƠN

18

Một hôm tôi và Năm Cà Dom buồn quá, mới bèn rủ nhau đi vào cái bệnh xá của ông bác sĩ Cường chơi. Thực ra đi chơi mà vô một cái bệnh xá thì còn lý thú gì, nhưng vô đó có thằng quen là xếp bệnh xá, may ra nó sẽ giúp đỡ mình chút đỉnh. Ở đây thì chỉ có thế, hễ đi ra là mong gặp được một sự may mắn gì, nhất là mong gặp được một cái lợi bất ngờ. 
Nhưng hôm đó chúng tôi lại gặp rủi. Không phải gặp rủi nhưng lại gặp một cái biểu trưng của sự rủi ro.

Đang đi, chúng tôi bỗng dừng lại, vì nghe trên đầu có tiếng gió như có một nhánh cây gãy đang giáng xuống đầu mình. Cả hai đứa đều nhảy qua một bên để tránh theo bản năng tự vệ chứ không kịp dòm ngó gì. 
“Pạch.” Một vật đen thui dài nhằng rơi đánh phịch xuống đất và nằm im. Chúng tôi nhìn. Và Năm Cà Dom kêu lên: 
– Kỳ đà! Kỳ đà! 
Năm nhảy tới hai tay chặn ngang cổ con vật. Con vật vùng vẫy và vươn móng vuốt ra trông kinh hãi lắm. Mồm nó há ra đỏ loét như chậu máu, đầy vẻ man rợ. Năm quát tôi: 
– Đi bứt dây trói nó, mau lên. 
Tôi loay hoay mãi, Năm Cà Dom lại quát: 
– Bứt sợi dây leo kia kìa. 
Tôi nắm lấy sợi dây không biết là dây gì, nhổ bật cả gốc lẫn rễ lên, tuốt sạch lá ngay, trao cho Năm. 
Tài thật. Năm hì hục một chốc đã trói gô con vật và bỏ nằm im đó. 
Năm Cà Dom chống nạnh lên thở dốc, rồi rút khăn lau mồ hôi. 
Tôi hỏi: 
– Con này thịt ngon không? 
Năm Cà Dom vừa quệt mồ hôi trán vừa đáp có vẻ không phấn khởi tí nào cả. 
– Ngon. Thịt nó trắng như thịt gà. 
– Thế thì nhất trần đời rồi. Trời cho mình một bữa no nê. Hay quá nhì! Thôi quảy nó trở về. Đi bệnh xá làm gì nữa. 
Năm đứng làm thinh làm thế. Tôi hơi ngạc nhiên về thái độ của Năm trước một món chiến lợi phẩm to lớn từ trên trời rơi xuống không phải tiêu phí một chút sức lực nào mà đạt được.. Năm không nhìn con vật, và quay ra lắc đầu: 
– Xui … 
– Sao? Cậu nói gì? 
– Xui lắm cậu ơi! 
– Sao mà xui. Hên chớ. Ra đường được thịt mà xui gì? 
– Cậu dốt bỏ bố đi đấy! Ai đời gặp kỳ đà mà hên? 
– Thế xui à? 
– Xui chớ còn gì nữa. 
– Xui làm sao? 
– Thì xui tức là nay mai mình sẽ gặp việc chẳng lành chứ còn làm sao nữa. 
Tôi lặng thinh. Tôi cũng có nghe nói về những chuyện “kỳ đà cản mũi” cản lái cản lái, gặp kỳ đà là mần ăn không khá. Ra đường gặp kỳ đà nếu đi mần ăn thì người ta sẽ quay về nhà ngay không đi nữa, v.v. nhưng trong lúc thèm ăn này tôi chỉ nghĩ tới ăn, đâu có nhớ những chuyện mơ hồ đó. Nhưng khi nghe Năm Cà Dom nhắc thì tôi tỉnh ngộ ngay. Tôi hỏi: 
– Vậy bây giờ làm sao? 
– Ai biết làm sao bây giờ. 
– Thôi kệ nó, cứ đem về làm thịt rồi sẽ hay. 
– Để xem! 
– Xem cái gì nữa bề nào mình cũng “gặp” nó rồi. Vứt nó đi cũng không có nghĩa là tống cái xui đi khỏi chúng mình. Cứ ăn như thường lệ. 
Năm Cà Dom cứ ngập ngừng mãi không chịu quả quyết đem con kỳ đà về. Tôi bảo: 
– Cậu cứ ăn đi, xui tôi chịu cho! 
– Cậu cứ nói tướng! 
– Chứ vứt nó đi à? Cậu không ăn thì tớ ăn. 
– Tớ đã từng trông thấy rồi mà. Cậu sao kỳ quá! 
– Trông thấy cái gì? 
– Một tổ công binh đi đánh tàu! Vừa bơi xuồng ra sông là gặp kỳ đà lội qua sông. Thằng tổ trưởng cứ đi, nhưng một thằng đề nghị bỏ kế hoạch. Thằng tổ trưởng không nghe cứ đi. Thằng đội viên này nhảy lên bờ trở về. Hai thằng kia đi chết hết trọi. 
Tôi nghe cũng ớn quá. Không biết tại sao bác sĩ là người của khoa học mà hắn lại tin dị đoan ghê thế. Nó làm cho tôi nản lòng. Tôi nói: 
– Vậy mình đem nó về bệnh xá làm thịt ăn chung. 
– Chi vậy? 
– Cho có nghĩa là… mỗi người chịu một chút cái cục xui đó! 
– Chịp! Khổ quá? – Năm Cà Dom ngước nhìn cái nhánh cây cao trên đầu và nói – kỳ cục thế nó đeo sẵn trên đó mà chờ mình đi ngang rồi buông tay rơi xuống đầu mình. Thế mới khổ! 
– Thôi, cứ thế. Đi! 
Tôi hăng hái bước lại xách chú kỳ đà lên. Trông gớm quá. Da nó đen nâu có đốm rằn vàng, đuôi nó có gai, như đuôi sấu, da nó sùi lên cũng giống da sấu, hay nói quách ra là nó giống như một chú sấu con. 
Coi vậy mà nặng ra phết. Tôi ước chừng trên năm kí lô! Trời ơi! Năm kí lô thịt gà (như Năm Cà Dom nói) trong lúc này vì tin dị đoan mà phải đi mời mỗi người ăn một chút thì uổng quá chừng. 
Năm Cà Dom đốn một nhánh cây xỏ vào hai đứa khiêng đi. Năm Cà Dom dặn tôi: 
– Đi vô tới bệnh xá, thăng Cường nó có hỏi kỳ đà ở đâu thì cậu nói là chúng mình đuổi bắt trong một cái thân cây mục nghe. 
Tôi hỏi: 
– Tại sao vậy? 
– Tại vì nếu nói thật, tụi nó không ăn thì mình gánh hết sự xui xẻo đó. 
– Được rồi. Để tớ bịa chuyện cho tin nó ăn mà phải mang ơn mình. 
Cái bệnh xá hôm nay trông càng thê thảm với những dãy thương binh nằm làng khang trong rừng. Màu bông băng trắng thấp thoáng qua những kẽ cây rừng như những mảng tuyết trong đồi cây ở Âu Châu mùa đông. 
Chúng tôi đến gặp ông bạn Cường chẳng khó khăn gì. Cường rất mừng. Có lẽ Cường bị cái bệnh cô đơn vây riết, mà bác sĩ tài ba mấy cũng không phương trị. 
Cường hỏi ngay lý do chúng tôi có con kỳ đà. Tôi cố dựng lên một câu chuyện đầy chi tiết, nhưng đâu cần phải nhiều đến thế. Cường tin ngay. 
Cường nói: 
– Ở đây cái thứ này tụi tôi bắt được hoài. 
– Thiệt hả? 
– Ở rừng mà! Con gì cũng to. Có nhiều con to như những con quái vật thời tiền sử. Có những bộ xương voi như xương ”ma mút”. Xương đầu to bằng mặt ghế sa lông! 
Tôi hỏi tiếp: 
– Nhưng kỳ đà là anh săn được hay… 
– Săn cũng có, gặp bất ngờ cũng có! 
-Thế anh gặp mà không sợ xui à? 
– Ban đầu thì cũng có hơi ngán nhưng sau rồi không kể nữa. Đói bỏ bố gặp thịt thì cứ mần cái đã, xui đâu không biết. 
Thế là tôi nhẹ nhõm trong người, nhưng chưa nói ra vội. 
Năm Cà Dom bảo: 
– Thế thì làm thịt đi! Làm gì ăn? 
– Kho chớ làm gì? Ở đây mà làm gì được? 
Cường gọi một cậu cần vụ bảo hắn làm. Còn bọn tôi thì đi nấu nước châm trà uống rồi ngồi nói dóc. 
Năm Cà Dom hỏi ngay: 
– Này, có mấy cha ba Tàu qua đây nữa à? 
– Có chứ. Nó đi nghiên cứu sốt rét đó ta! Nó xin mấy đứa con gái y tá của tớ theo nó để dành bắt muỗi đòn xóc đấy. 
– Bắt thế nào? 
– Đại khái bắt như mình bắt gà, nhưng nhẹ nhàng hơn. Bắt sống nguyên rồi rộng vào một cái chai, đem về cho các lão.
– Hay ha! 
Năm Cà Dom cười: 
– Thế một ngày một cô bắt được mấy con? 
– Ai biết! 
– Nói với các lão ấy, nếu các lão lập trường vững thì cứ cởi quần ra cho muỗi cắn rồi bắt lấy nó. Đó là cách nghiên cứu thiết thực nhất! Mẹ kiếp! Cậu cho tớ xin một cô đi theo bắt muỗi đòn xóc coi. 
Cường nói: 
– Được rồi! 
– Thiệt không? Năm Cà Dom hỏi gặn. 
– Cậu hãy tự hỏi cậu có muốn thật không đã. 
– Há há há… Năm Cà Dom phá cười vang lên cả rừng. Thiệt chớ! Hì hì, thế ra cậu luôn luôn bắt mấy cô em đi bắt muỗi đòn xóc cho cậu phải không? 
– Cái đó mà hỏi làm gì. Tớ chỉ sợ cậu không dám thôi. 
– Sao không? 
– Được rồi. Cậu cứ chuẩn bị “đòn xóc” kẻo cô ta đến bắt rồi nó thun mất đấy. 
– Úy! Mình hô khẩu hiệu chớ! 
Năm Cà Dom nói tiếp: 
– Nhưng cậu phải cho chút “tét-tốt-tê-rôn” để cho chú muỗi giương cái đòn xóc lên khi cô ta chạm tới nó chớ? 
– Thì có cả con kỳ đà đó bổ ra phết còn đòi gì nữa. 
Bác sĩ Cường lại nói: 
– Nói đùa chứ hại thân lắm ông Cà Dom ạ! Ông nên nhớ rằng tuổi thọ của con a-nô-phen không có dài lắm. Nhất là sau khi nó chích người ta xong là nó chết. 
Ở đây con người cũng vậy. Chích xong là sức khỏe sụp xuống ngay không có gượng dậy nổi đó. Rồi nếu mà sốt rét thương hàn ập xuống là câu quỵ luôn hiểu chưa. Chứ ở đây không thiếu cái món ấy đâu. Ở rừng bọn “fê-mi-ne” nó khỏe hơn giống “mát-cu-le” chúng mình mà. Cho nên mặc dù chúng nó vẫn sốt, nhưng chúng vẫn cứ khỏe như thường! Còn bọn mình càng sốt càng gục xuống.
Năm Cà Dom ngồi nghe, không cãi lại. Riêng tôi thì tôi thấy bác sĩ Cường nói rất đúng, đúng từng tí một. Tôi cười: 
– Đó là ông bác sĩ nói kinh nghiệm bản thân đấy nhỉ? 
– Chứ sao! Đó là thói quen nghề nghiệp. Chúng tôi chỉ nói kinh nghiệm cho người khác khi những kinh nghiệm đó được đúc kết, có khi rằng chính bản thân mình. 
Tôi nói. 
– Thế ra ông bác sĩ Cà Dom chưa được vỡ lòng trên đường Trường Sơn này à? 
– Đúng! – Cường tiếp – Ông Cà Dom làm hùm làm hổ vậy thôi, nhưng để rồi xem, ổng sẽ hắt hơi ba, bốn ngày liền và sẽ chửi rằng tôi hại ông bỏ xác trên đường Trường Sơn này. 
Cà Dom gạt ngang: 
– Đường đường một đấng như ông Cà Dom mà lại chịu thua đám phờ-nờ đó à? 
Cường gật gù: 
– Trông ông Cà Dom hăng lắm! Nhưng lửa sẽ thử vàng ông bạn ạ! 
Rồi Cường sang chuyện khác: 
– Hôm nay tôi sẽ mời thêm ông bạn vàng của tôi tới ăn thịt kỳ đà cản mũi chơi nhé! 
– Ai đó? Cà Dom hỏi. 
– Một ông đại úy và một ông thiếu tá. Ông thiếu tá tên là Kim còn ông đại úy thì tên gì không rõ nhưng thấy gọi anh Bảy. Hai người là bạn nhau. Cả hai đều là bệnh nhân của tôi. 
Tôi hơi hồ nghi. Tôi bèn hỏi: 
– Hình dáng của ông đại úy kia ra sao? 
– Da trắng hơn dân Miên một tí. Răng thì cái nọ xéo cái kia. Mồm nói không để kéo da non. 
Tôi biết ngay là anh Bảy nhà tôi rồi. Vì đứng về hình dáng còn có thể lẫn lộn chứ đứng về hai nét độc đáo vừa kể thì không ai có thể có như anh Bảy. 
Nhưng tôi hãy làm thinh cái đã, xem ông bác sĩ Cường nói tiếp làm sao. Cường tiếp: 
– Mới hôm đầu anh ta vào trình giấy thì tôi không xem nhưng anh em kể lại thì anh ta có cái giấy ba bốn gạch loại A chi đó. Rồi sau đó, thì anh ta nhìn ông Kim là bạn rồi thì anh ta mắc võng nằm bên cạnh ông Kim là bệnh nhân cũ của tôi. 
Một hôm tôi xuống láng thăm bệnh thì bắt gặp anh ta khoe với ông Kim mấy tấm ảnh phụ nữ rất đẹp toàn diễn viên xi nê Hà Nội cả. Anh ta bảo rằng đó là những người yêu của anh ta, nhưng hiện nay đã cắt đứt. Chỉ còn lại một cô đẹp nhất. Và cô này đang đi ở phía sau. Anh ta đi trước chuẩn bị chỗ cho cô này tới nghỉ ngơi và dưỡng sức cặp chân, vì cô này là diễn viên “ba lê” số dách la mã của Hà Nội! 
Cường tiếp: 
– Anh ta nói vậy thì tôi tin vậy. Nào tôi có biết anh ta là ai? Nhưng thấy anh ta thân thiện với ông Kim thì tôi cũng vui lòng nghĩ rằng anh ta là hạng người chơi được. Nhưng chỉ được vài hôm thì anh ta lại tìm cách làm quen với mấy cô y tá, rồi bắt mối thân thiện với một cô đẹp nhất ở đây. Tôi cũng không rõ hai bên đã hẹn hò với nhau những gì chỉ thấy một hôm anh ta lên xin phép tôi ở lại đây công tác luôn. 
– Thế bỏ bố chưa! Năm Cà Dom kêu lên thích thú. Rồi người yêu của anh ta sắp đi tới thì làm sao? 
– Tôi cũng không rảnh trí đâu mà nghĩ tới chuyện đó. 
Tôi hỏi: 
– Hiện giờ thì câu chuyện đến đâu rồi ông bác sĩ? 
-Tôi vẫn còn treo ở đó. Nếu anh ta bệnh không đi nổi thì ở lại đây công tác, tôi vẫn sẵn lòng. Chuyện đó đâu có hại gì. 
– Nhưng nhỡ cô “ba-lê” vô tới phá nhà ông thì sao? 
– Tôi biết là ông ta nói láo, nói để khoe khoang tài chim gái của mình thôi chớ chẳng cô nào yêu anh ta. Vì theo tôi thấy, cái anh chàng này trông khó thương quá. Để chốc nữa tôi rủ lên chơi cho các bạn biết thêm một ông đại úy trên đường Trường Sơn này. 
Tôi hơi lùng bùng lỗ tai, trước nhất vì hắn chạm đến danh dự của Thu cố nhiên là danh dự của tôi. Kế đó là vi tư cách của hắn. Đi đâu cũng nghe tiếng của hắn. Trường Sơn rộng thế mà ở đâu cũng có những giai thoại về Bảy Việt. Khi thì tôi nghe câu chuyện Bảy Việt, nhà viết kịch bản phim nổi tiếng của Xưởng Phim Hà Nội, do một anh giao liên kể, khi thì tôi nghe chuyện Bảy Việt nhà văn kiêm nhà thơ có rất nhiều tác phẩm. 
Lúc tôi và Thu chuẩn bị qua con sông ”Bến Hải thứ hai” dưới ánh pháo sáng của máy bay thì Việt đã lẩn trốn vì Việt sợ phải dìu dắt một người con gái dù là đồng đội của hắn, bị hắn tán nhưng không yêu hắn. Hắn tìm đường đi sấn tới trước để tự do nói láo bịp người và vừa bắt giao liên phục dịch vừa xin xỏ của họ được chút nào hay chút ấy. Việt biến mất tăm luôn cho đến bây giờ. Tôi không thấy thiếu hẳn, nhưng chẳng ngờ bây giờ tôi lại gặp hắn. Tôi thấy hắn là thừa. Đó là điều khổ tâm cho tôi hết sức, nhất là tôi vừa nghe những chuyện lếu láo của hắn ở đây. 
Cường gọi cậu cần vụ lên hỏi chuyện làm thịt con kỳ đà. Nhưng cậu cần vụ đã trả lời rằng cậu ta không dám làm thịt nó vì sợ xui xẻo dính vào người. 
Té ra nãy giờ con kỳ đà vẫn còn sống nhăn. 
Nhưng Cường vẫn vui vẻ bảo cậu cần vụ: 
– Mày tệ quá. Không dám làm thì nói ngay. Nhưng tao làm thì mày có ăn không? 
– Dạ ăn ạ! 
Cả đám chúng tôi cùng cười vui vẻ. 
Cường bảo: 
– Thế mày mời thằng “Úm Ba La” vô đây cho tao. 
Tôi vừa định hỏi Cường thằng nào mà lại có cái tên kỳ cục vậy thì Cường đã nói ngay: 
– Anh em đặt cho nó cái tên khôi hài đó là vì lúc nào nó cũng nhảy chân sáo và hát “úm ba la”. Nó bị sốt ác tính dọc đường, nhưng cái tổ tam tam của nó đã bỏ nó mà đi. May nó không chết cho nên nó cứ nhớ cái kỷ niệm tốt đẹp đó mà hát luôn mồm, vừa hát vừa nhăn mặt nhăn mũi và lắc đầu ”úm ba la.“ 
Cường vừa định quay vào gọi thằng Úm Ba La thì nó đã xuất hiện ngay kia rồi, trước mặt chúng tôi. 
Một con người hay con ngợm vậy nhỉ? 
Giữa cái khí độc Trường Sơn này mà Úm Ba La lại ở trần mặc quần đùi, tóc nó xõa xuống quá vai, mặt mũi tối sầm với hai con mắt như hai cái giếng sâu mà ở dưới tận đáy giếng có thắp hai ngọn đèn cầy hắt hiu vì không đủ dương khí. Cổ nó đeo lủng lẳng một cái nanh heo rừng. 
Hắn quắc mắt nhìn chúng tôi với vẻ giận dữ 
– Nhìn gì? Đào ngũ đây, nói gì? Hả? 
Làm như chúng tôi sắp sửa quát mắng hay nói những lời khinh miệt hắn! Nhưng Cường đã bảo: 
– Đừng vô lễ, Úm Ba La, bạn của anh đấy em. Bây giờ anh có việc này cần em giúp tí. 
Úm Ba La rụt chân lại thành thế đứng nghiêm và giơ tay chào Cường với vẻ cung kính thực sự. 
Cường bảo: 
– Anh có con kỳ đà, em đi làm thịt giùm và nấu nướng mang đến đây cho anh đãi khách. Nhanh lên em! 
– Rõ! Úm Ba La lại chào và quay lui, biến dạng nhanh như sóc để lại cả một sự ngạc nhiên cho tôi và Năm Cà Dom. 
Lại một nhân vật đặc biệt trên đường Trường Sơn. Hắn làm cho tôi nghĩ đến những con xà-niên mà ngày xưa tôi đọc thấy trong các truyện giải trí không biết có hay không, nhưng đã để lại trong đầu tôi một ấn tượng không phai nhạt. Thằng này chỉ khác xà-niên là vì hắn không có lông lá đầy mình. 
Cường giải thích thêm cho chúng tôi về nguồn gốc của Úm Ba La như sau: 
– Sau khi thoát cơn ác tính, Úm Ba La từ từ phục sức lại. Quả thật trời đẻ trời nuôi. Thằng bé bò đi xuống suối uống nước rồi nằm luôn bên bờ suối chịu một cơn mưa không bò về lều nổi. Thế mà vẫn không chết. 
Rồi hắn lê đi, hắn không nhớ là hắn đã ăn những thứ gì mà khỏe lại. Hắn nhìn chung quanh, không thấy ai cả. Thì ra người ta đã đi hết cả từ lâu rồi. Bởi vì khi trí khôn trở lại với hắn nên hắn nhớ tất cả. Hắn thấy không còn một vết chân mới nào chung quanh hắn. Bản năng tự vệ của hắn đã dựng hắn dậy. Hắn gióng hướng và cắt rừng đi đi mãi. Sau cùng hắn gặp một đơn vị, nhưng hắn đã bắt đầu thù hận, cho nên hắn không nhập vào đơn vị mà hắn bò vào ăn cắp gạo muối, ăn cắp ba lô. Không phải tự nhiên mà hắn làm như vậy, mà chính cái cuộc sống thực tế Trường Sơn đã dạy cho hắn những việc đó. Nói rõ ra là trên con đường này vô số vụ mất cắp xảy ra hằng ngày ngay cả trong những đơn vị ”anh hùng” chống Mỹ. 
Hắn thấy ăn cắp là cách sống khoẻ nhất và không phải đi đâu cả. Muốn làm gì thì làm. Hắn trở thành tên ăn cắp chuyên nghiệp. Với một khẩu AK đầy đủ đạn và trang bị của một cán binh đi Nam, hắn không thấy sợ ai. 
Cường tiếp: 
– Đại khái như thế. Cho đến một hôm hắn lột hết lương thực của một đồng đội của hắn bị sốt nặng mê man nằm bên đường. Hắn không suy nghĩ gì cả. Hắn lấy ngay và ăn ngon lành không chút ân hận. Hắn chỉ nghĩ: “Nếu tao sốt nằm ở đây như mày mà mày bắt gặp thi mày cũng sẽ làm như tao làm đối với mày bây giờ!”. Đó là lương tâm của hắn. 
Cường tiếp: 
– Rồi đến một hôm hắn mò vào bệnh xá của tớ. Lúc trước ở một địa điểm khác. Chao ôi! Hắn mò vào tận kho. Hắn tha hồ quơ. Nào đậu xanh, đường sữa những thứ mà trên Trường Sơn này không ai có nổi. Hắn ăn quen lại mò vào. Và lại tha đi cạn cả cái kho của bệnh xá. Ban đầu thì tớ hồ nghi anh em nhân viên, nhưng sau khi dò xét thì thấy có vài món đồ rơi vãi xa xa ngoài bệnh xá. 
Tớ kết luận là có một kẻ từ ngoài vào. Nhưng xem kỹ lại thì gần đây đâu có cơ quan nào. Cũng không có đơn vị nào đóng gần. Tớ bèn cho bố trí canh phòng và cuối cùng là tóm được hắn. Anh em giã cho hắn một trận nên thân. Tớ cũng giận, nhưng tớ không cho đánh nữa. Tớ bảo cởi trói, cho ăn uống và gọi hắn lên nói chuyện. Hắn đã kể cho tớ tất cả quá trình của hắn mà tớ đã kể lại cho các cậu nghe. 
Tôi hỏi: 
– Nhưng sao bây giờ hắn ở dưới trướng của cậu? 
Cường vui vẻ đáp: 
– Đó là một cái lối xài người của mình. Sau khi nói chuyện với hắn tớ thấy hắn rất thông minh, suy nghĩ rất sâu sắc và hoạt bát nữa. Cậu nghĩ, hắn ta đã học hết lớp mười. Rồi bị động viên. Hắn không chịu đi, nhưng người ta nói chỉ đưa hắn đi vài tháng rồi cho về. Thế là hắn đi. Vô tới Trường Sơn chỉ hai tháng là bị sốt ác tính như tôi vừa kể. – Cường tiếp – Tôi bắt hắn ăn cắp quả tang nhưng làm gì hắn bây giờ l Giết hắn ư? Mình không có quyền. Đuổi hắn đi ư? Chắc chắn hắn sẽ quay trở lại, ngựa quen đường cũ chi bằng đối xử nhân đạo thì mình sẽ được một đứa đỡ tay chân cho mình, hai là hắn sẽ không phá mình nữa. 
Năm Cà Dom gật gù: 
– Thằng khôn thật. 
– Đấy! Bây giờ tôi bảo gì nó cũng nghe. Và nó không bao giờ phá phách tôi. Có hôm tôi hỏi thật hắn, nếu sau trận đòn đó mà tôi xử tệ với hắn thì hắn sẽ trốn, và nhất định hắn sẽ trở lại để đốt bệnh xá và “để” cho tôi một băng AK làm kỷ niệm… Ghê gớm chưa? 
Tôi lắc đầu: 
– Không bao giờ tôi tưởng tượng nổi rằng trên Trường Sơn này lại có một nhân vật giống như King Kong như vậy. 
Chặp sau Kim và Bảy Việt đến. 
Cường giới thiệu Kim với chúng tôi: 
– Ông này có sáu cây K54 trong ba-lô. Ổng mới cho tớ một cây đây. K54 ở đây rẻ lắm, một hộp ruốc chà bông, vài hộp sữa, nửa ki-lô đường là có thể đổi được với ổng ngay một khẩu. 
Kim cười: 
– Tôi mang vô Nam cho mấy chả. Nhưng dọc đường ốm đói quá phải tùy cơ ứng biến. Thế thôi. 
Cường nói thêm: 
– Ổng đi xe hơi đấy các bạn. Ông nào muốn đeo vè thì đeo. 
Kim xua tay: 
– Thôi thôi, xin van! 
– Sao vậy? Làm hiểm quá! 
– Không phải đâu nếu các cậu muốn đi xe hơi thì phải làm ba việc mà ở đây thì không thể làm được. Thứ nhất là cặp thêm một cái thanh sắt sau xương sống mình. Thứ hai là phải đội thêm một cái gối bông dày hai tấc trên đầu và ngồi trên một cái gối bông khác cũng dày từng ấy. Vì sao? Vì xe chạy giằn, nó xốc, đầu các cậu sẽ đội vào mui xe vỡ ra, đít các cậu hổng lên rơi xuống, xương sống các cậu sẽ quẹo và đít các cậu sẽ tà. Vì thế tôi đã bỏ xe hơi mà lội bộ đây. Lội bộ tuy vất vả nhưng chắc sống hơn. Còn đi xe hơi các bạn lo ngay ngáy, xe lật lúc nào không biết. Lại còn máy bay đuổi các bạn không thể nhảy trốn được. Đấy, các bạn có đi thì xin mời? 
Cả tôi và Năm Cà Dom le lưỡii lắc đầu: 
– Thôi thôi xin kiếu. 
Cường hỏi tôi: 
– Cậu có quen với ông bạn này không? 
Tôi ấp úng chưa biết trả lời thế nào cho hợp tình thì Việt đã vọt miệng đáp ngay: 
– Chúng tôi quen từ Hà Nội, trong nghề với nhau. 
Rồi Việt hỏi tôi: 
– Thu đã khỏe chưa anh? 
– Thu nào cơ? 
– Thu… Thu ấy mà! 
Cường hỏi tiếp: 
– Có phải người yêu của ông đại úy không? 
Tôi vọt miệng đáp: 
– Người yêu của ông đang đi ở đằng sau, nhưng nghe tin ông sắp xây dựng với một cô y tá trong bệnh xá này nên… 
Tôi ngập ngừng một chốc. Tôi định nói: “nên cô ta quay trở lại,” nhưng nói thế càng giúp sự thuận lợi cho thằng đểu cho nên tôi sửa lại ngay. 
– Cho nên cô ta quyết đi vượt trạm, vô tới đây chắc có một trận ác chiến rền trời. 
Cường nhìn Việt. Việt lấm lét nhìn tôi. Có lẽ hắn không hiểu tại sao tôi lại biết tỏng hết cả bí mật của hắn. Nhưng hắn vẫn cứ bình tĩnh để xoay nước cờ: 
– Tôi có người yêu nào đâu mà anh nói vậy! 
– Sao không có. Tôi gầm lên. Chẳng tin ông bạn đưa cái bóp ra đây. Trong đó có năm, sáu tấm ảnh phụ nữ Hà Nội. Cô nào đẹp nhất là vị hôn thê của ông bạn đấy mà! 
Viên đại úy cười giả lả chữa ngượng: 
– Anh theo phá em hoài… 
– Tôi đâu có phá cậu. Đó là cậu tự phá cậu thôi chớ. 
Cũng rất may là con kỳ đà lại tái xuất hiện, nhưng lần này với một hình dáng khác hẳn. Hắn nằm gọn trong những cái dĩa nhôm dưới hình thức những cục vuông cục tròn, xương nạc và da lẫn lộn, khói bốc lên nghi ngút. 
Bác sĩ Cường mời: 
– Thôi chúng ta cầm đũa. Ai ăn kỳ đà có gặp xui xẻo xin đừng đổ thừa cho tôi. 
Tôi nói: 
– Không sao đâu bác sĩ! Cái xui do chú kỳ đà này mang lại tôi đã gặp rồi. Chắc chắn sau bữa ăn này, cái xui đã lùi lại sau lưng tôi. 
Kim nói bằng giọng độc địa: 
– Theo như ông bạn này (tức tôi) vừa nói thì ông đại úy không nên nên ăn thịt con kỳ đà này. 
– Tại sao? Việt đang gắp một cục thịt khá to ngừng tay hỏi. 
– Tại sao chắc cậu biết rồi. Sự xui xẻo đã đến bên lưng cậu rồi đó. Cậu hãy chặn cái xui kia lại, nếu để cho nó đến thì đổ nợ ra cái trạm xá này ngay. 
Việt nuốt dở cục thịt, Kim cười và nói tiếp: 
– Đấy thấy không, cậu bị nghẹn mà. Khéo chứ nuốt không trôi đấy! Thôi nên xơi một cục thôi. Cục thứ hai nó sẽ nằm tại cổ họng cậu! 
Việt lúng túng cố nuốt cho trôi cục thịt và nói: 
– Xui thì chịu xui chớ tôi biết làm sao bây giờ? 
Kim nói: 
– Xui thì phải xả xui chớ! 
Năm Cà Dom gạt ngang và hỏi: 
– Ăn thế này không có “nước ngược” à Cường! 
– Không có! Ở đây tìm ở đâu ra? 
– Cậu có mà không biết dùng. 
– Ở đâu? 
– Lấy alcool đốt đèn ra pha một ít nước vào. Thế là thành rượu thượng hảo hạng ngay. Ở Hà Nội tớ đã từng pha cồn chín mươi độ uống rồi mà! 
Cường mang ra một chai. Năm Cà Dom rót cả vào bi đông rồi lấy nước lã pha vào liệu cho vừa liều lượng mà dạ dày chấp nhận được. Thế là Cà Dom rót ra mời khách. 
Bữa tiệc kỳ đà đâm ra vui vẻ, rộn rịp, rùm beng hằn lên vì cái mớ cồn pha nước lã của Năm Cà Dom. 
Tiệc xong tôi bảo Cường gọi cậu Úm Ba La lên cho tôi nói chuyện. Ai cũng tìm chỗ nghỉ. Chỉ còn tôi và Úm Ba La. Tôi mắc võng nằm. Úm Ba La ngồi bên đầu võng của tôi. Tôi hỏi ngay: 
– Bây giờ cậu muốn gì, King Kong? Ấy chết. Cậu muốn gì Úm Ba La? 
Úm Ba La cười khẩy: 
– Anh cứ gọi em là King Kong cũng được mà! 
– Em biết King Kong à? 
– Biết chứ. 
– Anh gọi em thế em không buồn à? 
– Không. Em cũng thấy em đúng là một thứ King Kong Việt Nam sinh sống ở Trường Sơn này… Em không thể trở thành loại người khỉ kỳ quái đó, nhưng em bây giờ rất giống King Kong. Em đã trở thành một loại người rừng. Nếu không nhờ anh Cường thì em sẽ trở thành một tên thổ phỉ giết người và làm mọi sự bất nhân không gớm tay. 
– Tại sao vậy? Tôi hỏi. 
-Em thấy cuộc đời tàn nhẫn với em quá đỗi. Em là thằng học sinh lớp mười biết gì đâu. Thế mà sau một cơn thoát chết, em cảm thấy hận đời và em nhất quyết trả thù đời. 
Nếu như anh Cường xử tệ với em thì nhất định em sẽ trốn thoát rồi sẽ trở lại bệnh xá, một đêm nào đó, em sẽ lia một băng, đúng một băng vào mùng anh ấy rồi sau đó nổi lửa đốt tất cả các láng trại. 
Tôi hỏì: 
– Bây giờ em muốn gì? 
– Em nhất định sẽ trở về với thầy mẹ. Em không đi đâu cả. Em không nghe lời ai nữa cả. Em chỉ nghe theo tiếng gọi của thầy mẹ em. Khi em đi, thầy mẹ em khóc bảo em trốn đừng đi nhưng em nghĩ làm như thế là hèn. Bây giờ đi vô tới đây em mới thấy ân hận! Giải phóng cái chó gì. Em không biết miền Nam đâu là đâu cả. Không biết người miền Nam có cần mình giải phóng hay không mà mang thây vào đó, bỏ thầy mẹ em ở ngoài Hà Nội không ai chăm sóc. Chỉ còn người chị gái, mà… 
Em biết em mất rất nhiều nhân tính. Anh đã đi đến đây trên con đường này rồi, anh xem có ai còn nhân tính hay không? Em sốt suýt chết mà đồng đội của em bỏ em như thế. May mà em còn sống. Nếu em chết ở giữa rừng thì ai biết? Bây giờ em nhất định không đi vô nữa. Em nhất định một bước cũng không đi. Em phải trở về dù trên đường về em có chết em cũng cam nhắm mắt. Em có ngựời yêu. Anh xem, bỏ cô nàng mà đi, rồi thân thể ra thế này. Vô lý! Vô lý! Vô lý! Em không nhận được của cô ta bức thư nào cả. Em biết cô ta rất sầu não, vì ngoài em em ra chẳng ai có thể nói những lời làm rung động trái tim cô ta. 
– Em ở phố nào? 
– Hàng… Hàng Bột.
– Bố mẹ còn đủ không? 
– Còn đủ. 
– Anh chị em đông không? 
– Người anh cả đã chết ở Hồng Gai. Còn người chị gái thôi. Nhưng chị ấy yếu đuối lắm, mà lại hay khóc, chằng làm gì nuôi bố mẹ em nổi. 
– Hiện giờ em muốn gì? 
– Em thấy cần một cuốn sách để đọc. 
– Sách gì? 
Úm Ba La ngồi thừ người ra. Tôi có cảm giác rằng câu chuyện của tôi đã dần dần đem lương tri trở về cho cậu bé. Tôi thấy càng nói chuyện, cậu ta trở nên hoạt bát, đôi mắt láu lỉnh và cái mồm linh động hẳn lên. 
Có lẽ ở đây không ai nói chuyện với cậu ta nhiều và có chiều sâu như tôi. Cường chỉ sử dụng cậu ta như một kẻ lao công. Cậu ta ngồi lâu lắc mới đáp: 
– Sách gì cũng được anh ạ. 
-Thế à? 
– Vâng! Sách gì cũng được miễn có chữ thì thôi. Em vô đây đã hơn một năm rưỡi, mắt nhìn toàn rừng núi, sốt rét, lá khô, xác chết, máu chảy… chứ đâu có trông thấy chữ bao giờ. Và chính em cũng không có dịp nào cầm bút viết một chữ. Mà bút đâu có mà viết? Đôi khi em định mượn bút giấy của anh Cường để viết về gia đình một bức thư, nhưng mỗi lần nghĩ tới việc đó em thấy ngại vô cùng ngại vì hai lẽ. Một là vì phải làm một việc mà hơn một năm rưỡi qua em không làm. Anh xem hai bàn tay em đây. 
Cậu bé xòe hai tay đưa ra trước mắt tôi. Những ngón tay đen thui đầy sẹo và gồ ghề như những mắt tre có tật. Nhìn những ngón tay ấy, không ai nghĩ rằng trước đây chúng đã từng cầm bút bao giờ. 
Úm Ba La nói tiếp: 
– Bây giờ nghĩ tới viết những dòng chữ, em thấy khổ tâm hơn bất cứ việc gì. Em cảm thấy nó mệt nhọc hơn bổ củi nấu cơm. Còn lý do thứ hai là: viết thư nhất định em phải nói về em cho bố mẹ em rõ. Nhưng nói cái gì? Trong em bây giờ có cái gì hay ho mà nói? Nếu nói láo thì viết thư làm gì? Em không muốn làm cho bố mẹ và chị em thất vọng. Anh nghĩ xem anh nhìn xem người em thế này… 
Cậu bé ngồi lặng thinh, mắt rưng rưng. 
Tôi cũng thấy xúc động sâu xa về những lời tự thuật của cậu bé. Bây giờ tôi mới nhìn rõ cậu ta. Cái lớp vỏ bên ngoài kỳ quái bao nhiêu thì những tình cảm của cậu bé sâu sắc bấy nhiêu. 
Mái tóc vàng hoe không phải vì bẩm sinh mà vì tắm mưa gội nắng dầm dãi gió sương quá nhiều, một năm rưỡi có thể bằng mười lăm năm trong đời cậu. 
Nước da cậu ta trông càng gớm ghiếc. Nó chia làm nhiều vùng khác nhau. Da lưng thì mốc cáy, sùi lên như vảy rắn. Ngực và bụng thì thâm sịt và đầy nốt vừa nâu vừa đen. Có lẽ cậu ta đã dùng cái bộ ngực ra như cái mũi tàu để chống lại sóng gió của cái biển Trường Sơn mênh mông ác nghiệt này, cho nên nó mới nhận lãnh nhiều thành tích đến thế. 
Tôi chợt nghĩ nếu bất ngờ, anh thanh niên này xuất hiện tại Hà Nội và tự giới thiệu rằng đây là người của Trường Sơn trở về thì có lẽ dân thủ đô sẽ lập tức phân hóa làm hai nhóm: nhóm thứ nhất chạy trốn, nhóm thứ hai dạn dĩ hơn chạy ùa tới coi như coi một con ngựa rằn hay một con dã nhơn trong sở thú. 
Tôi hỏi: 
– Nhưng cậu làm sao mà về được Hà Nội bây giờ? 
Úm Ba La đáp: 
– Em chưa biết chừng nào và bằng cách nào em sẽ về được Hà Nội, vì chuyện ấy còn tùy hoàn cảnh, nhưng nhất định em sẽ về không có ai, không có cái gì, bất cứ cái gì, dù cái đó có thiêng liêng chăng nữa, cũng không thể bắt buộc em đi tới được. 
Em có thể nói với anh rằng em không còn tin ai nữa cả, ngoài tin em. Em tin em vô cùng. Vì thế, em tin rằng có ngày em sẽ về được Hà Nội. 
Tôi hỏi: 
– Em tên thật là gì nhỉ? 
– Tên là… nhưng mà, thôi anh ạ. Người ta ở đây, cuộc đời ở đây đã đặt cho em cái tên Úm Ba La rất hay. Tây không phải Tây, Tàu không phải Tàu, nhưng em rất thích. Em đã quên đi cái tên cúng cơm của em. Đúng ra cái tên hoa mỹ do cha mẹ mình đặt không còn thích hợp với cảnh trí mọi rợ này nữa. Ở đây cái gì đẹp nhất cũng phải tiêu tan, ngay cả lý tưởng của tuổi trẻ. 
– Em nói gớm thế. 
– Đó là ý nghĩ thực qua cuộc sống của em mà. Anh không thể bắt em nghĩ khác được. Anh biết không, khi em tỉnh dậy sau cơn sốt dài mê man không biết bao nhiêu ngày, em nghĩ gì không? 
– Em nghĩ gì? 
– Em nhìn khắp chung quanh em, không có một cái gì có thể cầu cứu được cái gì đối với em cũng có vẻ lạnh lùng. 
– Nhưng em tên là gì chứ. 
– Tên là Hồng. Chị em tên là… 
– Tên gì? 
Tôi chờ đợi với cả sự ngạc nhiên sắp xảy đến với tôi. Không hiểu sao tôi cứ nghĩ rằng cậu bé này là em của Thu. Tôi thấy cái mũi nó hao hao giống mũi Thu. Có lẽ trên bộ mặt con người, ngoài cái bộ răng ra thì cái mũi là bộ phận ít thay đổi nhất sau những cuộc tang thương. 
– Chị em tên là gì? 
– Bích. 
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Té ra thằng bé không phải là em của Thu vì Thu theo tôi biết thì chỉ là Thu, và tôi cũng chưa bao giờ nghe Thu nói về một đứa em trai nào đi công tác trên con đường ác nghiệt này cả. 
Tôi hỏi: 
– Em có bao giờ nghĩ rằng chị của em sẽ đi vào nam và sẽ gặp em trên đường này không? 
– Không. 
-Tại sao không? 
– Vì chị em rất yếu đuối và hay khóc lắm! Hơn nữa bố mẹ em có cho đi đâu mà đi! 
-Nhưng nếu em gặp chị em đi vào nam ở đây thì em làm gì? Thí dụ như anh đây là chị Bích của em thì em sẽ nói gì? 
– Không, chị Bích của em là người Bắc không thể có những ý nghĩ giống anh được, cho nên em không thể nói với anh những gì em sẽ nói với chị Bích của em trên con đường này. 
– Tại sao? 
– Tại vì anh càng đi vào thì càng gần nhà anh, còn chị em càng vào thì càng xa nhà. Hai người hai tình cảm, hai mục đích khác hẳn nhau. 
Tôi nhắc lại vấn đề quyển sách: 
– Anh có mang trong ba-lô một quyển sách, của chính anh viết. Anh định sẽ mang về tặng gia đình anh, nhưng bây giờ gặp em, ý định anh thay đổi. Anh sẽ tặng quyển sách ấy cho em. 
– Ôi chao! Ôi chao! – Úm Ba La đưa tay lên cào cào mớ tóc dài cộp quến vào nhau thành mảng, như những lời nói của tôi làm động tới bộ não của cậu ta. Cậu ta lắp bắp hỏi – Sách gì vậy anh? 
– Truyện ngắn. 
– Chao ôi! Em may mắn quá. Cha cha! 
Cậu bé xoa xoa tay. Bây giờ mà em giở trang sách ra nhìn lại những dòng chữ thì chẳng khác nào nhìn lại mặt người yêu! Em hồi hộp quá! Em mong đợi ghê quá! Nhưng sách ở đâu hiện giờ anh? 
– Trong ba-lô anh. 
– Đi đi lấy đi anh. 
Úm Ba La đứng phắt dậy lôi tay tôi. Tôi bảo: 
– Nhưng từ nay về sau, bỏ cái tên Úm Ba La đi nhé em! Hồng? 
– Chuyện đó hậu xét!

Nguồn: https://vietmessenger.com/books/?title=vuot%20truong%20son%202%20%20%20xuong%20trang%20truong%20son&page=18

Comments are closed.