Mấy mẩu chuyện về Phùng Quán (kỳ 2)

 Thái
Kế Toại

Con mèo nhà anh Quán

Quãng
năm 1984 tôi chuyển sang căn phòng 12 mét vuông trong khu 12 phố Ngõ Trạm. Người
bạn vong niên Bùi Bình Thi ở bên khu Nhà thờ Tin Lành số 2 Ngõ Trạm thường hay
sang chơi. Một hôm anh gợi ý đang có đàn mèo con gọi là tam thể đồi mồi giống
Thái Lan và cho tôi một con. Không hiểu sao một hôm nó bỏ đi rồi thỉnh thoảng về
đứng trên mái nà chính trước cửa nhà nhìn xuống. Có hôm nó xuống về nhà một lát
rồi lại ra đi và không về nữa. Chắc là nó có một mối tình nào đó quyến rũ hơn
gia cảnh nhà tôi. Thế rồi một hôm Phùng Quán bảo tôi: Nhà mình lại có một đàn
mèo đang lớn, khi nào bắt được để cho Nguyên một con đực. Thế nhưng khoảng một
tháng sau, lúc đó anh đã ốm nặng, anh bảo con đực người ta bắt mất rồi, chỉ còn
con cái. Nuôi mèo cái cũng tốt Nguyên ạ, mèo đẻ là có lộc. Thế là nhà tôi lại
có mèo. Mèo của Phùng Quán quen ăn cá nên không ăn thịt, phải mua cá con riêng
cho nó. Nó sống được trong nhà tôi khá lâu với nhiều thế hệ khoảng 20 năm. Nó lại
mắn đẻ nên tôi phải thuyết phục người thân và anh em trong đơn vị nhận nuôi. Mỗi
khi con mẹ mất đi thì lại có con con, con cháu. Mãi đến gần 20 năm sau khi tôi
làm được nhà mới ở Ngõ 40 Khuất Duy Tiến sợ cháu nội đích tôn bị dị ứng, vợ tôi
cùng con dâu mới mang hậu duệ cuối cùng của nó đi cho một người quen.

Chiếc áo đầy chữ ký

Sau
khi được phục hồi hội tịch Hội Nhà văn Việt Nam Phùng Quán làm một cuộc viễn du
về phương Nam. Tại Quảng Nam Đà Nẵng anh được báo in bài Trường ca Cây cà. Có
câu

Ba mươi năm trước

Tôi chết giữa Hồng Hà sóng đỏ

Ba mươi năm sau

Tôi hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn Giang

Đây
là tác phẩm đầu tiên mang chính danh Phùng Quán được xuất hiện công khai trên
báo chí. Nó rất gây ấn tượng với công chúng và những người hâm mộ anh. Tôi cũng
rất ấn tượng với bài thơ và chữ sóng đỏ,
một biểu tượng đa nghĩa. Nhưng không hiểu sao sau này trong nhiều văn bản sóng đỏ đã được thay bằng sóng vỗ hoặc sóng nổi, sóng dữ. Âu cũng
là một chuyện tế nhị của văn chương.

Dọc
đường đi Phùng Quán được đón tiếp nồng hậu, mọi người đua nhau xin ký tên vào
chiếc áo đũi của anh do vợ chồng nhà thơ Thu Bồn tặng. Về đến Huế thì chiếc áo
đã đặc kín chữ ký của người hâm mộ và bạn bè. Có lẽ đây là lần đầu tiên thấy hiện
tượng là như thế, công an Bình Trị Thiên báo cáo về Bộ hiệu ứng nguy hiểm này
kèm theo một số câu nói của ông. Cùng lúc đang có chuyến đi ra Bắc của nhà thơ
Bùi Minh Quốc lấy chữ ký về Hội Nhà văn Việt Nam. Hai việc này được đưa vào
thông báo của Ban Tuyên huấn. Phùng Quán bị thêm nỗi oan mới. Ông làm đơn gửi
Ban Tuyên huấn và Bộ Công an kiện việc này.

Khi
Phùng Quán mất chiếc áo được dùng để liệm cho ông.

Người yêu đặc biệt của Phùng Quán

Cùng
với Tuân Nguyễn Phùng Quán còn có một người bạn thân thiết nữa là Xuân Đài.

Nhà
văn, nhà báo Xuân Đài tên đầy đủ là Lê Xuân Đài sinh năm 1934 tại Vinh, quê quán
làng Xa Lang, xã Sơn Tân, Hương Sơn, Hà Tĩnh.

Xuân Đài là sinh viên lớp báo chí khóa đầu
tiên ở miền Bắc với Trần Hoài Dương, Hoàng Quốc Hải, Bùi Bình Thi, Phan Thị
Thanh Nhàn… Sau đó ông về làm báo Việt Nam Độc lập, khu Tự trị Việt Bắc; tạp
chí Dân tộc của Ủy ban Dân tộc Trung ương. Rồi Xuân Đài về Đài Tiếng nói Việt
Nam, chuyển vào sống tại TP Hồ Chí Minh, rồi nghỉ hưu.

Trong
một lần thi truyện ngắn của báo Văn Nghệ ông có truyện ngắn Chuyện ba người ở
hẻm Đuôi Voi
rất ấn tượng. Ông gắn bó với cả Phùng Quán và Tuân Nguyễn và
là người rời cõi tạm sau cùng. Trước khi mất tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2020
ông còn nhờ cháu Phan Thúy Hà biên chép và in, phát hành cuốn Phùng Quán và
tôi
. Ông cũng như nhiều văn nghệ sỹ, trí thức cùng thế hệ đã trở thành nhân
vật trong mấy cuốn sách phi hư cấu về Cải cách ruộng đất ở Nghệ Tĩnh của Phan
Thúy Hà. Cuộc đời ông bầm dập và phiêu bạt nhưng nhờ tấm gương và ý chí sống của
hai người bạn thân, từ một công nhân kéo dây cột điện ông đã tồn tại, trở thành
một nhà văn.

Trong
Phùng Quán và tôi, Xuân Đài có kể
chuyện người yêu đầu tiên của Phùng Quán ở Hà Nội. Đó là cô văn công công tác ở
Tổng cục Chính trị, Xuân Đài đặt tên là T.H.

“Mối
tình đầu của Phùng Quán là với cô văn công công tác ở Tổng cục Chính trị (tôi đổi
tên thật cô, thay bằng T.H.). Đó là năm 1955, Quán mới về làm việc ở số 4 Lý
Nam Đế, anh đã viết rằng “ở ngôi nhà này từ một người lính thất học, tôi đã trở
thành nhà văn. Tôi được in tác phẩm đầu tay, lĩnh món nhuận bút đầu tiên, yêu mối
tình đầu và tan vỡ mối tình đó”. Những lúc được xả trại, sau khi cùng với T. H.
đi loanh quanh thăm thú Hà Nội, Phùng Quán thường ghé nhà tôi chơi. Mỗi lần như
vậy, Quán thường rủ tôi đi ăn. Ăn là cái cớ, cái chính là nghe Quán đọc thơ vừa
làm tặng T. H. Những bài thơ chân tình, thật thà, bây giờ đọc lại thấy ngô
nghê, buồn cười, nhưng thời đó nghe xong tôi xúc động, cái xúc động của một thời
nói cái gì, viết cái gì, trước hết là đúng lập trường.

Xin
trích bài thơ Hai đứa Quán làm ngày 3-7-1955.

Có hai đứa yêu nhau

Cả hai cùng bộ đội

Cờ tổ quốc trên đầu

Đứa Huế, đứa Hà Nội

Hai đứa không nhà cửa

Quân đội là gia đình

Gặp nhau ngày hội lớn

Giữa thủ đô hòa bình…


lần Phùng Quán đưa cho tôi xem quyển nhật kí Phùng Quán và T. H. viết chung trong
quyển lịch nhỏ năm Ất Mùi. Tình cảm mùi mẫn. Trước khi qua đời, Phùng Quán giao
lại cho người bạn là Hương Quân. Mới đây, Hương Quân nói với tôi: “Lúc nào có bảo
tàng nhà thơ Phùng Quán, em sẽ giao lại cho người thủ thư ở đó”.

T.
H. là diễn viên của một đoàn văn công quân đội. Cô yêu Phùng Quán với tình yêu
tôn thờ một người tài, từ sau khi đọc Vượt Côn Đảo. Việc cô đọc Vượt
Côn Đảo
thật không giống ai. Nghề văn công, đi biểu diễn khắp nơi, ít có
thì giờ rỗi rãi. Những ngày đoàn văn công trở về doanh trại, cũng không được
ngơi nghỉ mà phải tập tiết mục mới. Ăn cơm tối xong, cô còn phải họp đoàn, họp
tổ múa để rút kinh nghiệm việc diễn tập hoặc tự phê bình, được phê bình. Họp
xong thường là quá chín giờ, vài phút sau, trực ban đánh kẻng, phải mắc màn đi
ngủ. Đó là nội quy của quân đội. Mắc màn xong, cô lấy mấy quyển sách xếp dọc giữa
giường, lấy chăn trùm kín lại. Lúc này buồng ngủ tập thể đã tắt đèn. Trực ban
đi kiểm tra, dùng đèn pin rọi, cứ tưởng cô đã ngủ. Thực ra, cô vào nhà vệ sinh.
Trong nhà vệ sinh, cô say sưa đọc Vượt Côn Đảo. Cô gần như thức trắng ba
đêm trong nhà vệ sinh để đọc xong cuốn sách. Ngày nghỉ Quán rủ người yêu đi dạo
phố. Cả hai mặc đồ lính, chỉ đi gần nhau chứ không dám cầm tay. Mặc đồ lính
không dám vào quán hè phố ăn uống. Đi qua hàng kem, Quán rủ vào ăn, cô ấy
nghiêm mặt: “Anh nên nhớ em và anh là bộ đội”. Đi qua hàng chè, kéo tay cô ngồi
xuống, cô nghiêm mặt nhắc lại câu nói hôm ở hàng kem.

Tôi
bình luận:


Yêu một cô gái như vậy thì cũng ngang với trời hành.

Sau
khi Phùng Quán đăng bài Chống tham ô lãng
phí
và các bài khác trên Giai phẩm mùa Xuân thì bị phê phán dữ dội. T. H. đọc
hết các bài phê phán Phùng Quán. Từ đó, xuống bếp ăn tập thể, cô không ngồi với
Phùng Quán nữa. Cô ra mặt lánh xa Phùng Quán. Tình cờ gặp nhau trong thành dành
riêng cho các đơn vị quân đội, T.H tránh mặt rẽ đi chỗ khác. Phùng Quán tìm T. H.,
dang hai tay chặn lại, thái độ van nài, em cho anh nói một câu. T. H. lạnh lùng
nói: “Tôi không có chuyện gì để nói với anh nữa. Cô bước nhanh, dứt khoát. Phùng
Quán nói với theo: Anh không bao giờ là thằng phản động, chống lại tổ quốc và
nhân dân mình. Sau đó không lâu cô T. H. lấy chồng, cũng là một sĩ quan quân đội,
cô theo chồng về công tác ở một tỉnh miền Trung.

Hơn
mười năm sau, khi Quán đã là cán bộ ở Vụ Văn hóa quần chúng, đi công tác miền
Trung, nhớ đến bạn gái cũ đang sơ tán ở một huyện miền núi, Phùng Quán 
đạp
xe đi tìm nàng. Thời đó, bom đạn ngút trời. Vượt mấy chục cây số mới tìm được
nơi nàng ở. Quán kể, tao toát mồ hôi, thế mà nàng không chào lấy một câu, không
mời một chén nước, lại còn bảo, bây giờ anh còn tìm tôi làm gì. Không còn gì để
nói nữa. Tao tìm đến trụ sở văn hóa huyện, anh chị em tiếp đón vui vẻ, thân
tình. Tối đó, quanh mâm rượu, mọi người yêu cầu tao đọc thơ. Mày thừa biết, tao
nghiện thơ hơn nghiện rượu, tao đọc hết bài này đến bài khác và đề nghị anh em cùng
đọc cho tao nghe. Mỗi người cũng đọc mấy bài. Rượu và thơ cho đến một giờ sáng.
Mấy tuần sau, một trong những người bạn ở chiếu thơ đêm đó, ra Hà Nội đến gặp
tao, anh ấy mang biếu nửa cân măng khô và một gói kẹo lạc đặc sản. Anh ấy cho
biết một tin vừa tức vừa buồn cười.

“Ngay
đêm hôm ấy T. H. lên báo công an huyện là có tên Nhân Văn Giai phẩm tìm về đây
không biết có việc gì. May mà công an họ tỉnh táo đến gặp chúng tôi hỏi đầu
đuôi xuôi ngược. Biết chuyện, họ đã không gây khó khăn cho anh. Nhưng mấy hôm
sau đài phát thanh huyện trong mục Chuyện cảnh giác đưa tin biểu dương chị T. H.
có tinh thần cảnh giác cao là đã báo có người lạ mặt đến nhà chị, hành tung rất
đáng nghi ngờ”.

Hai điểm sáng trong Nhân Văn Giai Phẩm

Ngay
số Giai phẩm mùa Xuân tháng 1-1956 Phùng Quán đã có bài thơ Thi sĩ và công nhân. Bài thơ như là tiếng
kèn xung trận đầu tiên của Phùng Quán:

Giặc rút khỏi miền Bắc
Để lại
nhiều phố phường

Nhiều con
đường

Nhiều tâm
hồn

Ngập đầy
rác rưởi

Quét dọn
đường đẹp như áo cưới

Là việc
làm của đồng chí công nhân

Quét dọn
rác rưởi trong tâm hồn

Chính quyền
Cộng Hoà giao cho thi sĩ


Chúng ta
hãy cùng đồng chí công nhân

Làm nhiều
thơ cục cằn như cái chổi

Quét dọn
sạch sành sanh rác rưởi

Những con
đường và những tâm hồn

Nhiều vụ
nặng nề nhưng rất vẻ vang

Chính quyền
Cộng Hoà giao cho thi sĩ.

Đến
Giai phẩm mùa Thu tập II tháng 9-1956 ông đăng bài Thơ cái chổi – Chống tham ô lãng phí. Trên Giai phẩm mùa thu tập
III tháng 11-1956 ông in Người dũng sĩ
trên sông Xuân Bồ.
Ngoài ra ông còn một số bài tham luận, lời phát biểu
trên diễn đàn Hội Văn nghệ, Hội Nhà văn, Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật với nội
dung yêu cầu mở rộng dân chủ, tự do sáng tác cho nhà văn… Do tính cách của ông
những bài phát biểu gây ấn tượng mạnh mẽ với nhiều văn nghệ sỹ và công chúng.

Đầu
năm 1956 Phùng Quán được quân đội cử đi thực tế cải cách ruộng đất đợt 5 ở Tiên
Lãng, Kiến An. Ông thấy dân đói khổ quá ăn khoai lang cả vỏ.

Những
câu thơ vụt hiện lên trong đầu ông.

Tôi đã đi qua

Những xóm làng vùng Kiến An, Hồng Quảng

Nước biển dâng cao ướp muối các cánh
đồng

Hai mùa rồi lúa không có một bông

Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ.

Sau
chuyến đi thực tế cải cách ruộng đất về ông không viết được tác phẩm như các đồng
nghiệp. Một đêm đầu đông, đi ra phố, nhìn thấy các chị công nhân vác những
thùng phân từ hầm xí dưới ánh sáng ngọn đèn bão, trong cơn gió buốt, ông nhớ đến
chuyến đi thực tế về Nam Định cách đó không bao lâu. Đó là, nơi ông thường đi
qua có một công trình xây dựng bỏ dở. Hỏi ra mới biết đó là lễ đài, ngốn hết mười
một triệu đồng rồi nhưng công trình bị rút ruột, dầm mưa giãi gió. Ông tính, số
tiền lãng phí vào công trình bỏ dở đó có thể cứu đói hơn bốn mươi vạn người.
Ông giận dữ bọn ăn cắp của nhân dân để làm việc sai trái. Ông cảm thấy có tội nếu
không nói lên những nỗi thống khổ của nhân dân.

Bài
thơ hiện ra trên trang giấy.

Tôi đã đi qua

Những xóm làng chiến tranh vừa chấm dứt

Tôi đã gặp

Những bà mẹ quấn giẻ rách

Da đen như củi cháy giữa rừng

Kéo dây thép gai tay máu chảy ròng

Bởi đồn giặc, trồng ngô trỉa lúa.

Tôi đã gặp

Những em thơ còm cõi

Lên năm lên sáu tuổi đầu

Cơm thòm thèm độn cám và rau

Mới tháng ba đã ngóng mau ra Tết!

Để được ăn no có thịt

 

Một triệu bài thơ không nói hết nhọc
nhằn

Của nhân dân lao động

Đang buộc bụng, thắt lưng để sống

Để dựng xây, kiến thiết nước nhà

Để yêu thương, nuôi nấng chúng ta.

 

Vì lẽ đó

Tôi quyết tâm từ bỏ

Những vườn thơ đầy bướm đầy hoa

Những vần thơ trang kim vàng mã

Dán lên quân trang đẫm mồ hôi và máu
tươi

Cách Mạng!

Như công nhân

Tôi quyết đúc thơ thành đạn

Bắn vào tim những kẻ làm càn

Vào lũ người tiêu máu của dân

Như tiêu giấy bạc giả!

Ban
đầu Quán định gửi bài thơ cho báo Nhân Dân, nhưng sau đó không hiểu sao 
ông
lại gửi cho Giai phẩm mùa Thu, ra vào vào tháng 10 -1956. Bài thơ bị quy kết là
chống Đảng, bôi nhọ chế độ. Phùng Quán là một trong những người bị lên án nặng
nề.

Bài
thơ Lời mẹ dặn được Phùng Quán viết năm
1957 khi ông 25 tuổi, đăng trên báo Văn số 21, ra ngày 27 tháng 9 năm 1959. Lúc
đó ông đã ra khỏi quân đội. Ngay sau khi bài thơ ra đời, nó gây xôn xao trong
dư luận, được nhiều người thuộc và chép truyền tay nhau.

Bài
thơ bắt đầu bằng hoàn cảnh của chính gia đình ông:

Tôi mồ côi cha năm hai tuổi
Mẹ tôi thương con không lấy chồng
Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải
Nuôi tôi đến ngày lớn khôn.
Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ

Chuyện tưởng chừng rất đơn giản, một lời mẹ dạy con như bao lời
dạy khác.

– Con ơi trước khi nhắm mắt
Cha con dặn con suốt đời
Phải làm một người chân thật.

Thế rồi lời mẹ dặn Chân thật ngấm vào máu cậu bé Phùng Quán:

Con ơi một người chân thật
Thấy vui muốn cười cứ cười
Thấy buồn muốn khóc là khóc.
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét
Dù ai ngon ngọt nuông chiều
Cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao doạ giết
Cũng không nói ghét thành yêu.

Phẩm chất ấy của cậu bé chiến sĩ vẫn vẹn nguyên khi cậu thành một
nhà văn 25 tuổi. Trong bối cảnh xã hội mới, thời đại mới việc làm nhà văn chân
thật còn khó hơn vạn lần

Nhưng lời mẹ dặn thuở
lên năm
Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ.
Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
Đi trọn đời trên con đường chân thật.

Cái khí tiết của ông thật đanh thép chưa
có nhà văn hiện đại nào nói được, nó trở thành hồn vía của thời đại.

Tôi muốn làm nhà văn
chân thật
chân thật trọn đời
Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã
Bút giấy tôi ai cướp giật đi
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá.

Lời
mẹ dặn mang ý nghĩa vô cùng to lớn với nhà thơ Phùng Quán. Qua vần thơ đậm chất
trữ tình tác giả kể lại lời mẹ dặn hãy luôn làm người chân thật, khẳng định bản
lĩnh và ý chí mạnh mẽ của mình.

Tác giả nhắn nhủ con người hãy luôn chân
thật với bản thân và mọi người nhất là đối với một nhà văn. Lời nhắn nhủ ấy có
ý nghĩa sâu sắc với cuộc sống mỗi con người, giúp cho con người được sống là
chính mình, sống hạnh phúc, thành thật với mọi người.


bài Lời mẹ dặn mà Chống
tham ô lãng phí
 bị đưa vào
những bản cáo trạng chống Nhân Văn Giai Phẩm và cá nhân Phùng Quán.

Sau
khi bài thơ Lời mẹ dặn xuất hiện, trên báo Nhân Dân có ngay một bài thơ có tựa Lời mẹ dặn có phải là bài thơ chân thật ký tên Trúc Chi. Phùng Quán đếm được
125 câu chửi trong bài thơ đó. Ví dụ như diễn giải yêu ghét của Phùng Quán
thành ra:

Nó ghét kẻ thầy hiền bạn tốt

Nó yêu quân gái điếm cao bồi

Ghét những người đáng yêu của thiên hạ

Yêu những người đáng ghét của muôn
người

Quen học thói gà đồng mèo mả

Hóa ra thân chó mái chim mồi

Trúc
Chi quả quyết rằng Lời mẹ dặn của
Phùng Quán là lừa bịp:

Lời mẹ dặn chắc không ngớ ngẩn

Từ nghìn xưa ai cũng thế thôi

Nhưng có lẽ dặn khi còn nhỏ

Nên nhà văn nay đã quên rồi

Cũng có lẽ nhà văn xiên xỏ

Viết văn ra cốt để bịp đời!

Anh
thuộc từng câu, thuộc cả bài. Anh cắt mẩu báo đó cất trong túi, nói rằng sẽ giữ
đến lúc chết. Trúc Chi là ai? Tại sao anh ta gây họa cho mình?

Phải
chăng là Trúc Chi dạy học, làm thơ ở Hải Phòng mà Quán từng gặp. Quán kêu tôi
cùng xuống Hải Phòng tìm Trúc Chi. Tôi bảo Quán vài bữa nữa thưa việc tôi đi,
Quán sốt ruột không chờ được. Cậu ta vừa lãnh 27 đồng hỗ trợ của Hội Nhà văn.
Tôi nói, 27 đồng này người ta trợ cấp cho mày ăn trong một tháng, đi rồi về lấy
gì mà ăn. Quán không quan tâm chuyện đó. Quán quyết đi ngay, tôi bảo: Mày đưa
27 đồng đây tao cất cho, giờ tao cho mày 20 đồng với một tem phiếu. Xuống đó,
tay Trúc Chi khá, nó bao cơm, nhưng nó cũng là thằng khốn khổ như mày thì mày
phải ăn cơm mậu dịch.

Đi
về, Quán buồn bã khi không tìm được Trúc Chi cần tìm. Anh bạn Trúc Chi cho Quán
một gợi ý, viết một bài như thế và đăng ở báo Nhân Dân thì chắc phải là một người
có quyền lực.”

Thực
ra đến tháng 10 năm 1975 tập thơ Một đôi
vần
của Hoàng Văn Hoan được xuất bản có in bài “Lời mẹ dặn” có phải là bài thơ chân thật?, cuối bài có tên Trúc Chi. Như vậy Hoàng Văn Hoan đã công khai
nhận mình là tác giả bài thơ. Nhưng phải đến nhiều năm sau nữa Phùng Quán mới
biết được người hại mình, nhục mạ mình đã phản bội Tổ quốc từ năm 1979.”

Nhân
chuyện bị nhục mạ của những người Nhân Văn, có chuyện Phùng Quán kể ở Công trường
cống Cổ Đam anh khốn khổ bị nhà nghiên cứu NN ở Viện Văn học xúc xiểm vu cáo với
Ban Giám đốc về “tư tưởng phản động” gài vào bài diễn văn anh được giao viết.
Nhà văn Tô Hoài kể trong chuyến đi lao động ở huyện Thái Ninh, Thái Bình nhà
thơ Hoàng Trung Thông đối xử với Phùng Quán như sau:

Nhớ hôm ấy có mấy chén rượu suông. Hồi này Thông cũng chưa uống mấy,
nhưng máu nát rượu thì sẵn, không vì uống nhiều hay ít, chỉ cầm chén ngùi hơi
men đã ngà ngà rồi.

Thông đứng dậy, chân la đà. Phùng Quán giơ tay: Anh để em
đỡ. Thông quắc mắt: “Tao vừa công bố mày với ông Hoài một nhóm, tao có say
đâu”.

– “Anh cứ vịn vai em cho chắc”. Thông quát: “Ông mà
phải để cho Nhân Văn giắt à?”. Tôi nhớ một hôm ở cơ quan 84 Nguyễn Du, có liên
hoan cuối năm, bấy giờ chỉ có rượu mùi, chẳng biết Thông uống thế nào, đến lúc
ra cửa, Quán dìu một bên. Thông vùng tay ra, cũng nói một câu ấy: Tao mà… tao
mà… Chẳng biết Thông nhớ không. Chắc là không, nên mới nói lại đúng thế. Quán
ngồi lặng im, vẻ mặt buồn, nhìn Thông đi ra.” 

Mối tình cuối đời và cuốn tiểu thuyết
tình tuyệt vọng

Cuối
đời Phùng Quán có một tác phẩm thơ dài đặt tên là Trăng hoàng cung (Tiểu
thuyết tình 13 chương).

Sau
rất nhiều năm, kể từ 1954, năm 1984 Phùng Quán mới trở lại quê hương.

Nhưng cuối cùng quê hương đã nhận ra
Trái-tim-thơ trong sạch
Và gương-mặt-thơ-bi-thiết của tôi

Trăng hoàng cung là một trường ca thơ văn xuôi có hệ thống về
cuộc sống và mạch tâm trạng trữ tình của ông.

Hai
mươi mốt tuổi, tôi, người lính chiến bước thẳng vào làng Văn với cuốn tiểu thuyết
đầu tay kể chuyện những người vượt ngục thất bại. Ngay sau đó tôi được coi là
nhà văn. Nhưng đối với tôi Thơ mới là tất cả. Thơ là mạng sống, là lý lịch đời
tôi…

Từ năm hai mươi bốn
tuổi đến năm năm mươi sáu tuổi, cơ chế quan liêu đã đánh trả tôi đến chí mạng.
Tước đoạt của tôi quyền lao động thiêng liêng: sáng tác, xuất bản, quyền được
sống cho ra một con người. Và dìm ngập tôi trong bùn-nhơ-lăng-nhục trước công
luận.

Tôi đã sống suốt ba mươi năm giữa cái lán tranh lợp lá nứa,
giữa một bãi phù sa cổ hoang vu, vùng đồi núi Thái Nguyên, mọc lút đầu cỏ dại
và cây trinh nữ xanh. Xung quanh bãi đất hoang, con suối lớn Linh Nham vây bọc.
Bàn ghế là rễ cây chết tôi lặn lên từ lòng suối. Giường nằm là cây Cơi cổ thụ
bị bão xô bật gốc, con suối Linh Nham mang từ rừng đại ngàn về, dâng lũ đến tận
thềm lán, trao tặng tôi. Tôi vạt bằng mặt trên thân cây bằng rìu, rồi đục lõm
sâu xuống, phảng phất hình cái áo quan; mùa đông nằm vào đó tránh được giá rét
và sơn lam chướng khí. Tôi sống với một con chó, một con heo, một bầy gà; ăn
bắp, ăn sắn, rau lang, ốc suối, tôm cá tự đánh bắt lấy.

Mùa lũ không ai dám vượt suối dữ Linh Nham, nên có khi mười
ngày liền không nói tiếng người.

Phùng Quán gặp được một
người con gái Huế, một cuộc tình sét đánh đã nổ ra.

Ông kể lại những ngày về Huế và đã gặp Nàng:
“Thành phố quê nội xót thương tôi như người mẹ đông con xót thương đứa con số
phận bầm dập, quá nửa đời người gặp phải cảnh truân chuyên… Sức tàn, lực kiệt,
gót nặng lòng đau, tìm về với Mẹ. Tôi ngất ngưởng sống, ngất ngưởng thơ, ngất
ngưởng say… và ngất ngưởng gặp Nàng”.

Giữa thành phố quê hương
Bất ngờ tôi gặp em
Rất thật mà như là ảo giác
Một ốc đảo bóng chà là xanh mát
Giếng sa mạc đầy tràn…
Tôi uống thơ từ đôi mắt em nhìn
Tôi vục môi uống không kịp thở
Cảm tạ em tôi đã hồi sinh…

Trăng hoàng cung khơi dậy nguồn
cảm hứng mãnh liệt cả về tình yêu, cả về cuộc sống:

Suốt ba mươi năm qua,
câu thơ của Ga-bri-en Pê-ri − người anh hùng Cộng sản nước Pháp thét lên trước
cọc xử bắn, là kinh nhật tụng của tôi.

Có những giây phút ngã
lòng

Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy

Chịu chừng ấy đầy ải,
lim thép ắt cũng gãy gục. Nhưng Thơ đã cứu tôi, giúp tôi đứng vững, dạy tôi
dũng khí bền gan.

Nếu cần đi trở lại
Tôi đi lại đường này

Để cuối cùng lại chấm hết ở đây!

Để thấy Phùng Quán đã yêu và sống chết với cách mạng bằng một tình yêu
mãnh liệt nhường nào. Cái tình yêu ấy bị dồn nén bấy lâu bật ra bằng một sức
mạnh vô song.

Và một cách sống cương trực

Tôi chỉ viết trên giấy có kẻ dòng

 Một mục
đích sống vì nhân dân

Tôi có quyền gì
được no hơn nhân dân tôi một miếng ăn?

Tôi có quyền gì được lành hơn nhân dân tôi một manh áo?
Tôi có quyền gì được rộng hơn nhân dân tôi một tấc vuông nhà ở?
Tôi có quyền gì được lên xe xuống ngựa?
Khi gót chân nhân dân tôi nứt nẻ bụi đường?

Dù tôi là thiên tài
Dù tôi là thi nhân
Dù tôi chót vót tận đỉnh cao quyền lực!

Tôi có quyền gì?
Tôi có quyền gì?
Tôi có quyền gì?

Sinh nhật năm 1984 của Hà Khánh Linh có mặt Phùng
Quán. Phùng Quán đến từ chiều hôm trước, mang theo một con chó nhỏ nhưng béo
tròn, nói: “Người nhà anh tặng em”. Hà Khánh Linh đón lấy con vật và cảm ơn,
cũng chuyển lời cảm ơn đến người nhà của Phùng Quán. Hôm sau đúng sinh nhật,
khoảng 10 giờ sáng, khi mọi người đang quây quần bên bàn ăn thì Phùng Quán tới.

Ông mang theo trái bí xanh, trên da bí có đề thơ:
Anh ngồi lặng nhìn em cổ cháy khát cơn thơ/ Môi rát bỏng những lời giã
biệt
”. Trong bữa tiệc, mọi người đề nghị ông đọc thơ từ khi mới về Huế.
Phùng Quán say sưa đọc và bài nào cũng được tán thưởng.

Từ ngày Phùng Quán mất đi, mỗi năm vào dịp giỗ
ông, một vài tờ báo lại đặt Hà Khánh Linh viết bài về ông. Nhưng bà luôn tìm
cách khước từ. Nhiều bè bạn thắc mắc: “Tại sao Hà Khánh Linh không chịu viết một
bài nào về Phùng Quán vậy?”. Bà thường tránh trả lời những câu hỏi như vậy.

Một số bạn bè thân thiết thì nói như hờn dỗi:
“Chẳng mấy nữa là tròn 10 năm anh Phùng Quán bỏ chúng ta mà đi. Lẽ nào vào dịp
ấy, Hà Khánh Linh cũng không có một dòng kỷ niệm nào về anh?”. Hà Khánh Linh
thốt lên rằng, vào dịp đó sẽ có một nén hương lòng dâng tặng. Và đó là lý do để
bà viết cuốn Phùng Quán viết Trăng hoàng cung.

Tiếc thay về phía Hà Khánh Linh đó là mối tình
đơn phương một chiều. Cuộc tình ấy của Phùng Quán thật đa đoan. Thời gian đó,
nhà văn Hà Khánh Linh đang bị sốc vì cuộc ly dị chồng vừa diễn ra trước đó một
năm, bà đang bị bệnh tim, lại phải nuôi hai đứa con nhỏ.

Tôi lì lợm gửi tặng Nàng bài thơ tình
thứ mười ba, với lời ghi chú:

“Tôi yêu em. Mối tình đầu cũng là mối tình cuối của tôi.
Tôi đã rứt trái tim khỏi lồng ngực dâng hiến em như một tông đồ dâng hiến mạng
sống mình cho Chúa. Và buồn thay, con người lại không có trái tim thứ hai. Và
nhà thơ, không có tim tôi biết hát bằng gì!”

Nhưng điều khủng khiếp và cũng là tai họa thường trực đối
với các nhà thơ: sự thật còn lớn hơn cả tình yêu, lớn hơn cả trái tim. Chối bỏ
sự thật, ôi điều này nó vượt quá sức tôi, ngay cả khi miệng môi tôi đầy cát…

Mối
tình với Hà Khánh Linh cùng hòa vào nỗi đau đớn đó, kéo dài cho đến cuối đời
Phùng Quán. Đây là tác phẩm bi thiết nhất của đời ông.

Nhưng tôi vẫn
không vào nhà em

Tôi quay về và…
Tôi khóc

Tôi khóc niềm tin yêu
tan nát

Tôi khóc ngai vàng mộng tưởng
Tôi khóc Trăng hoàng cung bị lấm bẩn
Tôi khóc không biết lấy gì để gột sách Trăng

Trái tim tôi như trái cây bị dập nát
Rụng xuống từ cành cao
Tình tuyệt vọng là ngọn sào
Chọc cho trái cây rụng xuống…
Trái cây rụng
Vẫn mơ giấc mơ… hoang tưởng
May ra được gót chân em giẫm nát
Để trước khi tan vào bụi đất
Còn được hôn gót chân yêu…

Thực ra, sau khi Phùng Quán mất không lâu, bà có
làm một bài thơ tặng Phùng Quán, nhưng không tham gia vào tập tưởng niệm Phùng
Quán. Mãi đến năm 2002, bà mới
cho in ở tập san Nhà văn
Thừa Thiên – Huế. Bài thơ nhan đề: Hoang tưởng

Anh lịm tắt giữa mùa đông Hà Nội

Bỏ lại em,
bỏ lại Trăng hoàng cung

Với những
cơn mưa dầm xứ Huế

Bỏ lại cả
sự phi lý

Khi anh đòi
yêu em

Và đau khổ
hờn ghen…

Cuộc chơi
có lúc phải tàn

Trăng thu
vàng úa trên sân Đại Triều

Nhà thơ Ngô Minh người chứng kiến sự việc cho
biết:

“Anh làm thơ gấp gáp không kịp ăn, không kịp thở.
Làm xong chép lại một bản đàng hoàng rồi xỏ dép lốp, đạp xe cuốc Liên Xô
về 26 Lê Lợi để tặng Nàng. Anh gầy đi từng ngày. Tặng xong hơn chục bài thơ, ra
Hà Nội anh sắp xếp, thêm thắt và đặt tên là “Tiểu thuyết tình 13 chương viết trên giấy có kẻ dòng”.

Năm 1993, sau khi NXB Thanh Vân (California)
in Trăng hoàng cung, anh chỉ nhận được hai bản sách do bạn bè từ
Mỹ mang về”.

Năm
1988, trong mùa xuân đổi mới Phùng Quán vẫn viết:

Tim
tôi tan nát rồi

Không còn lành được nữa

(Thơ
xuân 88 của mình
, trích theo Ngô Minh).

Câu
thơ ấy là định mệnh với Phùng Quán suốt đời tưởng như không thể có ở vẻ ngoài lạc
quan tếu táo, hài hước của ông. Mặc dù Phùng Quán rất ít bộc lộ nỗi cô đơn trước
bạn bè nhưng đôi lúc vẫn để lộ ra một chút cô đơn, dù ít nhưng đủ nói lên sự cô
đơn ấy là cùng cực.


những phút lòng sao kinh hãi thế

Đến cả thơ cũng không ấm được cõi
lòng

Đến cả rượu cũng không nguôi đắng cay
phiền muộn

Và mắt người yêu cũng không vợi bớt
cô đơn.

(Bài
Vô đề trong tuyển thơ Phùng Quán).

 


Nội, tháng cuối năm 2023

Comments are closed.