Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 271): Bể dâu – Nam Dao (8)

MÙA RỪNG ĐỘNG (8)

*

Lính Bắc phục hận. Trời tờ mờ sáng, bộ binh theo tăng T-54 tiến lên phản công. Nhìn từ xa, lính từng đoàn trên triền đồi nối đuôi đi. Súng chống tăng đạn sắp hết. Đếm, chỉ còn đủ để gãi ngứa Trung đoàn Thiết giáp vừa kéo từ Hạ Lào qua chiến trường Quảng Trị. Hiển báo rõ tình hình. Ban chỉ huy ra lệnh rút. Hiển cho kéo lính bị thương trước, đích thân đi chặn hậu với chục tay súng thiện chiến.

Tiếng súng phía sau nổ ran. Hiển chụp ống nhòm, đưa lên nhìn. Cách đấy năm trăm thước, nhấp nhô bóng tăng T-54 và bóng quân thiết kỵ. Lính Bắc đã bọc hậu, Hiển thốt lên, ngậm ngùi. Quơ máy truyền tin, Hiển gọi ban chỉ huy Tiểu đoàn. Không có tiếng trả lời. Hiển ngửa mặt lên trời:

– Đù mẹ… thế là ‘‘mồ côi’’ rồi! Thôi, vào rừng vậy!

Vào bìa rừng, lính Dù gặp ngay một đoàn T-54 trên thân xe cây non mọc rễ từ thuở Việt Cộng tiến chiếm Hạ Lào. Bắc Việt sửa soạn trận Quảng Trị từ lâu rồi, giành tiên cơ về mọi mặt, nhất là chiến lược, kết hợp tỉ mỉ quân sự và ngoại giao. Những tướng Trưởng, tướng Đống miền Nam đánh bi- da dưới tướng Lê Trọng Tấn, Lê Quang Đạo của lính Bắc một cơ trong Đợt 1 chiến dịch tái chiếm Quảng Trị . Mặc dầu, nói cho thật công bình, Trưởng và Đống nào có quyền quyết định gì ngoài vấn đề chiến thuật trên một bàn cờ thắng thua đã rõ rệt.

Phải, thắng thua đã rõ rệt từ khi người Mỹ đến Paris hòa đàm mất rồi. Đi sau những tiếng hô đòi hòa bình ở mọi góc trời Tây xa lạ, xe tăng T-54 lầm lũi hai mặt ép vào lính Cộng Hòa. Súng chống tăng hết đạn đã quăng đi. Dăm khẩu M-16, M-79 làm gì được? Hiển điểm quân. Còn đúng hai mươi mốt mạng nguyên vẹn, và bốn mươi sáu thương binh ngổn ngang chiến hào. Đại úy Nguyễn Quang Hiển, đại đội 5, Tiểu đoàn 11, Lữ Dù1 ra lệnh kéo cờ trắng. Lính ngỏng cổ nhìn. Hiển sửa lại quân phục ngay ngắn, hiên ngang bước thẳng về phía lính Bắc, giơ tay ngang mũ chào theo đúng quân kỷ. Bộ đội ngơ ngẩn. Hiển quát, chỉ huy các anh đâu. Lát sau, một sĩ quan áo xanh rêu bước ra. Đó là Chính ủy Tiểu đoàn 8 Trung đoàn 64, thuộc Sư 325. Anh ta giơ tay lên trán chào Hiển.

Về chiến hào, Hiển bảo lính:

– Tao đòi thêm một tiếng tự do, để thằng nào có ăn thì ăn, có thuốc thì hút, còn rượu cứ uống, bằng hết thì thôi. Từ nay, Bác và Đảng sẽ nuôi chúng mày!

Nghe thế, lính Dù đờ đẫn, mất hồn, có thằng bật khóc. Hiển cười ằng ặc, quát, tao cấm chúng mày khóc. Tí nữa thằng nào khóc thì tao bắn bỏ. Hàng cho hiên ngang, như chiến đấu, hiểu chưa!

Nhân cúi đầu, người bải hoải, tâm trí vữa ra như những mảnh vôi tróc trên vách đổ một căn nhà tan nát. Ra ngồi cạnh Nhân, Hiển móc túi zết lôi ra một bình dẹt to bằng ba bao thuốc lá, mở nút, đưa lên miệng tu. Đưa cho Nhân, miệng bảo Martel đấy, Hiển châm thuốc, ngửng mặt phà khói vào trời cao rồi lững thững ra đứng gác chân trên chiến hào. Rượu trôi qua cổ sao lần này đắng lạ lùng. Nhân nhớ lời Ánh dằn vặt hôm nào, thiên thần, chắc bất tử nhưng Nhảy Dù thì không, anh cũng biết vậy chứ? Rồi lời mẹ da diết, nuôi cho con ăn học, thành bác sĩ là để chữa bệnh cứu người, cứu được càng nhiều càng hay. Ra tiền tuyến, mỗi ngày cứu được bao nhiêu người? Ở bệnh viện hậu phương cứu được bao nhiêu? Cứ so sánh, thì biết phải làm gì! Thời đó Nhân lẳng lặng ngồi xuống cạnh mẹ, thầm thì, ai cũng ở hậu phương ư? Mẹ đập tay xuống mặt phản, con có quyền chọn cơ mà! Vâng, chính thế mà con phải chọn chỗ xứng đáng nhất cho một con người trước xã hội, chịu đầu sóng ngọn gió, chứ không chỉ nghĩ đến an thân cho riêng mình. Mẹ bật khóc. Một lát sau, mẹ thẫn thờ, cha con trên hai mươi năm trước cũng đúng một câu ấy, và vì thế mà lỡ làng cả. Bất lực, mẹ nắm tay Nhân, giọng nhẫn nhục, con có Dân, đứa em song sinh, chắc bây giờ cũng là lính, nhưng lính bên kia. Chỉ cần con cứu được Dân, với mẹ là đủ!

Bây giờ, Nhân thầm nghĩ, bộ đội Bắc Việt hàng trăm nghìn, biết ai là Dân mà cứu. Nhưng chẳng hiểu vì một lẽ gì, giờ phút sắp thành hàng binh và mất hết tự do, Nhân linh cảm Dân ở đâu đây, rất gần. Nhưng có làm gì được cho Dân không là chuyện khác! Biết đâu nếu bị thương, Dân cũng như thằng bé định rút kíp lựu đạn giết Nhân, gào lên, thằng ‘‘ngụy’’, đừng đụng đến tao!

Nhân đứng dậy, tay vuốt mặt, lòng trơ trơ gỗ đá đi đến cạnh Hiển. Đợi cho người lính cuối cùng hai tay giơ lên quá đầu, bước lê về phía đồng đội xếp hàng một, Hiển nhìn sâu vào mắt Nhân, miệng nhếch lên, ngạo mạn:

– Thôi, bác sĩ lên đi!

Vừa lên đến mặt đất, Nhân nghe một tiếng súng Colt rất chát, rất đục, rất gọn. Mặt đất tròng trành. Nhân ngoái lại nhìn một xác người đổ xuống, tiếng đập vào mặt đất nghe như tiếng chửi cái thân phận mình. Đại úy Nguyễn Quang Hiển là người độc nhất không đầu hàng, ngay cả với số mệnh mình.

Nhân chóng mặt. Đất trôi đi dưới chân. A, cái mặt đất đã tuyệt tình này trở thành biển đang nhận chìm cả loài người tay đầy gai của một loài hoa quái đản.

Comments are closed.