Vòng cẩm thạch

Nguyễn Đức Tùng

Ghe tới, một người nói. Ghe tức là thuyền, tàu. Đây là chiếc thuyền rất lớn, lòng sâu, có sàn trần, chứa được vài chục đến trăm người, phía đuôi có cabin buồng lái, tài công ngồi bên trong. Nhìn từ xa trong đêm tối, trên mặt nước đen sẫm không trăng, chiếc ghe như quái vật khổng lồ, im lặng đứng chờ. Nó sẵn sàng nuốt chửng mọi thứ vào lòng. Những chiếc xuồng taxi nhỏ mau chóng tấp vào bờ sông nước đen, rước người lên ghe lớn.

Một ngày, có một người trên thế gian.

Tôi có muốn để lại gì không?

Những vật không cần tới?

Những vật không cần tới là những vật không đem lại ích lợi nào cho đời sống tương lai.

Chai dầu bạc hà có con khỉ trắng ôm trái đào. Cuốn từ điển bỏ túi. Lương khô. Sợi dây chuyền vàng. Miếng sâm Đại Hàn mua trong chợ trời. Sơ mi cũ mua ở Nguyễn Huệ. Hòn sỏi trắng biển Quy Nhơn trên cửa sổ. Bánh mì kẹp thịt với sợi ngò thơm bến phà Mỹ Thuận. Ngón tay trỏ người đàn ông. Thứ khác, vô hình nhưng nặng trĩu. Chúng tôi bị ném từ sàn thuyền xuống đáy qua cái lỗ vuông hẹp. Trong lòng thuyền, tối mịt. Một triết gia nào đã nói: Đừng chống lại bóng tối, vì không có bóng tối, bóng tối sinh ra từ tim ta. Tiếng khóc, tiếng kêu, tiếng hét. Một trăm bốn mươi hay một trăm năm mươi linh hồn?

Nước đổ rào rào như mưa. Dưa hấu ném xuống, mọng nước, nhiều trái vỡ ra, thơm. Ruồi bay kín. Mọi người rơi xuống. Một đứa trẻ khóc thét, rồi im bặt, tôi liếc nhìn, mẹ nó kịp lấy tay bịt miệng con, bịt chặt, đứa bé vùng vẫy dữ dội. Khóc bị cấm trong suốt những ngày qua. Ngoài sông, gió mát lạnh, nhưng trong thuyền chật chội, hơi người nóng nực, mùi cá, mùi mắm, nước tiểu trẻ con. Ronald Reagan: Người ta có thể nào yêu một đất nước mà không yêu những người dân trong đất nước ấy? Có thể nào tôi yêu tổ quốc mà không yêu đồng bào? Thuyền có sức chứa bốn mươi hay năm mươi người, đã chứa gấp ba hay bốn lần số đó, ép vào nhau như cá mòi, nhiều phụ nữ la ơi ới. Người ta ném xuống cho chúng tôi một cái thùng kim loại như thùng đạn. Phía trên có nắp, khoét lỗ tròn ở giữa. Tôi không biết là gì. Một người từ phía sau nói vọng ra, cái hố xí. Tôi nhìn vào nó, không hiểu sao bị ám ảnh bởi cái thùng sắt rỗng mà những ngày kế tiếp đây tôi sẽ sống với nó, vật lộn với nó. Một lúc sau người chủ thuyền đến. Đó là người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, da đen sẫm, hơi mập và lùn, người mà tôi đã gặp trong quán cà phê trong hẻm ngày nọ. Đi sau ông là hai người lính mặc quần áo màu xanh lá, cả hai đều đội mũ, một người còn trẻ, khuôn mặt đẹp trai, nghiêm nghị, một người lớn tuổi hơn, vẻ bình dân, vui tươi, ra vẻ chỉ huy của người kia. Người chủ ghe giới thiệu người lớn tuổi hơn, ông ta bước ra trước một bước.

Chào bà con.

Im lặng.

Bà con khỏe không?

Có vài tiếng lí nhí đáp lại. Hai chữ bà con thật hay, ngậm ngùi, nước mắt của lịch sử. Người nói quay ra phía sau, giới thiệu với bà con đây là người trực tiếp lo cho bà con đi từ đây ra biển. Ông chỉ vào người trẻ hơn. Anh này bước ra trước, cúi gập người gật đầu chào, cử chỉ hòa nhã, đúng mực. Người chỉ huy nói tiếp, bà con không phải lo lắng gì. Chúng tôi có thuyền đi trước bảo vệ. Rồi quay lại người trẻ hơn: đứa nào phá đám, cứ bắn chết mẹ nó. Người trẻ hơn gật đầu. Bà con có thắc mắc gì nữa không? Thưa ông, chuyến này có an toàn không ạ? Rất an toàn, người chỉ huy trả lời. Người chủ ghe nhận xét thêm: Dạ động cơ Kubota còn mới, chạy dầu diesel. Vị chỉ huy kết luận: Thời tiết tốt, bà con đi hai ngày là tới. Ông nhìn người chủ ghe. Người này quay lại nói nhỏ, người trẻ hơn lấy cái mũ cối xuống, trao cho ông. Chủ ghe lật ngửa cái mũ, cầm nó chậm chạp đi vòng quanh, dừng lại trước mặt mọi người, trước mặt từng người một. Ông nhắc đi nhắc lại, đây là tự nguyện, bà con người nào còn vàng bạc hay tiền mặt muốn tỏ lòng cám ơn các anh, xin bỏ vào đây. Sau khi đã nộp tiền và vàng cho chủ tàu, trước khi xuống bến, hai chúng tôi không còn nhiều tiền mặt. Mọi người lẳng lặng lục soát đồ đạc của mình, lấy hết tiền ra, có người dây chuyền, có người vòng vàng, mặt ngọc, những tài sản ít ỏi cuối cùng. Người chủ ghe đưa cái mũ đến trước mặt tôi, không nói gì. Tôi lưỡng lự. Tôi có linh tính những ngày sắp tới, tôi cần nhiều thứ để sống sót, cũng như những ngày trong trại giam. Chúng tôi là hai người cuối cùng. Người chủ thuyền đứng khom người trước mặt, kiên nhẫn nhưng cương quyết. Mọi người chờ đợi, im lặng. Tôi nhìn cái mũ, có vẻ khá nặng, trong ấy đã có nhiều vàng bạc tư trang. Tôi mang sợi dây chuyền nhỏ mảnh có chữ T hoa như nốt nhạc khóa Sol trên cổ. Tôi ngẫm nghĩ, tháo sợi dây chuyền ra. Sợi dây chuyền mẹ tôi sắm cho tôi, để sau này con dùng để phòng thân, bà nói. Tôi giữ gìn nó thật kỹ. Tôi ngước mặt lên, cái mũ cao hơi quá đầu, tôi cầm sợi dây chuyền trong tay, mùi kim loại, nhớ lời mẹ dặn, thả vào cái mũ. Liên Hương mang trên tay trái chiếc vòng cẩm thạch quý, lục bảo. Lúc nào nó cũng nằm ở đó, nhiều năm nay, xanh ngời trên cổ tay trắng muốt của nàng. Tôi tiếc lắm, nhưng Liên Hương lẳng lặng không nói gì, cố sức tháo nó ra, chật vật, rồi đưa cho tôi.

Tôi muốn có một đứa con với nàng.

Không.

Tôi cầm lấy cái vòng ngọc xanh lý, giữ trong tay thật lâu, lắng nghe mùi hương thơm ngát, mát rượi, làm cho nó ấm nóng lên, rồi thả nó xuống. Một lần ngồi trong bóng tối, bỗng có một vật hiện ra ở cuối phòng, sáng dần lên, mới đầu tôi tưởng là vầng trăng, nhưng cửa sổ đóng kín, không có đèn đóm gì, trong căn phòng tối tăm, ánh sáng ấy mới đầu le lói, về sau chiếu sáng, soi rõ vật dụng, tấm nệm tôi nằm ngủ trên sàn nhà, những miếng gạch mỏng, một chai rượu đã uống xong đứng trên bàn, cuốn sách, ngòi bút chì, tôi ngồi im kinh ngạc, không tin vào mắt mình. Vầng sáng ấy lóe lên một lúc rồi từ từ dịu lại, đổi màu từ trắng mờ qua xanh biếc. Đó là mười một năm về sau, trong căn phòng nhỏ ở New York. Đêm ấy, tôi nhìn thấy chiếc vòng cẩm thạch màu xanh lý đã cầm lên trong tay, thả xuống.

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.