TÔI VIẾT VĂN TRỞ LẠI…

(trích “Thời biến đổi gien”)

Bùi Ngọc Tấn

BNT1955 Bao TienPhong

Bùi Ngọc Tấn hồi ở báo Tiền Phong 1955

Tôi bắt đầu viết văn trở lại vào tháng 3 năm 1990, ba tháng sau khi mẹ tôi mất.

Tôi không phải là nhà sử học ghi nhớ chính xác các ngày tháng, các sự kiện trên thế giới trong mùa xuân năm ấy. Chỉ biết rằng khoảng thời gian trước và sau năm 90, những sự kiện vô cùng trọng đại đối với nhân loại đã xẩy ra. Đầu thế kỷ 20 là những ngày rung chuyển thế giới ở nước Nga. Cuối thế kỷ 20 là sự hóa giải sự kiện rung chuyển thế giới ấy cũng ở nước Nga. Cuộc thí nghiệm tìm con đường đi của nhân loại đã có kết luận: Đây là cuộc thí nghiệm vô trách nhiệm với chi phí gần trăm triệu mạng người và đã thất bại. Một chủ nghĩa hấp dẫn bởi chất lãng mạn không tưởng, đáp ứng được ước mơ của những người bị áp bức bóc lột, nghèo đói nhưng đã bộc lộ tất cả tính chất phản khoa học tàn bạo được núp dưới những mĩ từ đẹp nhất của chủ nghĩa nhân đạo và của khoa học. Tôi mong đợi từng ngày và mong đợi quá lâu rồi, sự sụp đổ của cái trật tự bóp chết con người, bóp chết tự do, sự dối trá thống trị, cái trật tự làm thành một bầu trời đá xám úp chụp lên đầu từ Việt Nam tới tận Cộng hòa Dân chủ Đức! Cái trật tự xã hội tôi đã sống gần trọn đời và ghê sợ nó. Cái trật tự mà một thời tôi đã từng tin tưởng và tự hào về nó, xây dựng nó, bảo vệ nó. Ngay khi đã bị chính bánh xe tàn bạo của nó nghiền nát. Tôi tự cười mỉa khi nghĩ đến dạo mới bị tù, biết một người tù chuẩn bị trốn trại, đã báo cáo ban giám thị, bởi không thể để lọt một tên tội phạm ra ngoài xã hội được! Và khi đã lên Vĩnh Quang, sau 4 năm tù mõm ra rồi, nhận suất cơm khoai dầm nát và hai muôi nước canh cá khô mục, tanh và khắm đến lộn mửa, tôi vẫn ngạc nhiên tự hỏi: “Nhà tù mình cũng cho tù ăn cá mục?” Tôi đã kể hai mẩu chuyện trên cho nhiều bạn bè nghe như lời thú nhận sự ngu lâu của mình. Biết bao trọng phạm đang nhởn nhơ ngoài xã hội, kể cả đang giữ những vị trí quan trọng trong guồng máy cai trị. Còn những từ nhà tù mình, đảng mình có thể là do thói quen nhưng mình đã nhận ra thói quen ấy. Có một thời ngu dốt làm nên sức mạnh, nhưng thời ấy đã qua rồi.

Tôi đã đến Đức, tại đất nước của Marx người ta đã bỏ Marx. Tôi đã đến Nga, tại đất nước của Lênin: Người ta đã bỏ Lênin. Không ai dám nói dân tộc Đức ngu. Cũng không ai dám nói dân tộc Nga ngu. Vì sao lãnh đạo Đảng ta vẫn kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin? Câu trả lời thật đơn giản: Lãnh đạo một đảng, một đất nước theo nguyên lý của chủ nghĩa Marx Lênin với mô hình xô viết là một điều trên cả tuyệt vời. Muốn nói thế nào thì nói. Muốn làm thế nào thì làm. Ai đụng được đến lông chân? Đó là quyền lực không kiểm soát, không giới hạn, quyền lực vô biên.

Sau khi Brejnhev, cái ông Tổng Bí thư đảng Cộng Sản Liên Xô, thành trì của cách mạng thế giới, những khi xuất hiện trước đông người thì nói rất hay về chủ nghĩa cộng sản, về xây dựng Đảng, còn giữa những người họ hàng thân thích thì nói: Làm quái gì có chủ nghĩa cộng sản! và trụ khá lâu với những trận mưa ban phát huân chương, cái ông thay Khơrutsôp bị lật đổ ấy qua đời thì mấy ông Tổng Bí thư tiếp theo với những cái tên lạ hoắc đều không tại vị được lâu: Trecnencô, Andropov. Chưa bao giờ người ta thấy những ông nguyên thủ quốc gia, đứng đầu một phe lại ra đi nhanh thế. Chưa kịp để mọi người hiểu mình là ai, chưa kịp làm một việc gì đã về với Marx với Lênin rồi. Những cái tên quá đỗi bình thường khiến người ta nghĩ thế hệ lãnh tụ kế tiếp chẳng có ai đáng để ý và đang rơi vào khủng hoảng. Gorbachôv cũng vậy. Tên tuổi mới toe. Chưa nghe thấy bao giờ. Thành tích không dầy hơn tờ giấy. Có đáng chú ý thì chỉ là vết bớt mầu hồng nhạt trên trán. Nhưng đấy chính là một vĩ nhân, chính là người cứu vớt non nửa nhân loại. Người mà ông Nguyễn Văn Linh gọi là kẻ cơ hội nhất hành tinh (!!!), người đã lập công đầu trong việc làm tan rã Liên Xô, làm tan rã cả một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được trang bị đến tận răng mà không đổ một giọt máu, không mất một viên đạn, tạo điều kiện chấm dứt kỷ nguyên chiến tranh lạnh, đưa loài người vào một giai đoạn phát triển mới, Gorbachôv tổng bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô và câu nói nổi tiếng của ông ta: “Tôi đã bỏ nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”, với tôi là cứu tinh của nhân loại, và cứu tinh của vợ chồng con cái tôi. Không có ông, đời chúng tôi sẽ ra sao?

Cả ông Yelsin nữa. Yelsin, nguyên ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Liên Xô, tổng thống đầu tiên của nước Nga, người đã đặt Đảng Cộng Sản Nga ra ngoài vòng pháp luật, cấm Đảng Cộng Sản Nga hoạt động. Đấy là đất nước của Lênin, đất nước đã khai sinh ra nhà nước cộng sản đầu tiên trên toàn thế giới, là hạt nhân của mười lăm nước cộng hòa trong Liên bang, là mô hình xã hội toàn thế giới nhìn vào, là nơi sản sinh ra lý luận kinh điển và đúc kết kinh nghiệm cho toàn phe XHCN và phong trào cộng sản thế giới, là chỗ dựa và là tương lai của cách mạng Việt Nam.

Là những lãnh tụ của Đảng và nhà nước Xô viết, hẳn các ông đã thấy thực chất của guồng máy cai trị mà mãi bao năm sau tôi mới được biết sự ghê tởm của nó qua quyển sách dầy của nhà xuất bản Công An Nhân Dân (Hà Nội): Hồ Sơ Mật Liên Xô, một tập sách mà bất kỳ ai đọc cũng kinh hoàng về tính chất siêu mafia của chính quyền xô viết.

Trong những ngày rung chuyển thế giới với những sự kiện vĩ đại, ở đất nước Việt Nam xa xôi và cũng có ít nhiều dư chấn này, có hai vợ chồng một người đã từng tù tội, chịu mọi đắng cay của chế độ và thoi thóp sống, bỗng nhiên được tiếp thêm sức mạnh, lại bùng lên khao khát hồi sinh, lòng náo nức đầy mơ ước như những mơ ước thời cách mạng tháng 8 năm 1945. Bao giờ Việt Nam như Liên Xô, như nước Nga. Liên Xô đất nước xa vời ơi. Có biết chăng lòng tôi đang ước mơ… Khúc hát năm 1945 tôi hát, 45 năm sau lại trở về trong óc.

Mỗi người là một phần của nhân loại, của thế giới, liên quan chặt chẽ đến nhau. Những ngày mới bị bắt tôi đã nghiền ngẫm chân lý giản đơn ấy. Nào tôi có biết Mao miếc là ai. Và hẳn cái ông Nikita Khơrutsôp cũng chẳng biết tôi là ai, thế nhưng chính hai ông ấy và một số ông khác đã là nguyên nhân khiến tôi và các bạn tôi cùng rất nhiều người khác bị bắt vào tù. Và vào thời gian ông Gorbachôv, rồi Yelsin lên nắm quyền, thời gian bức tường Bá Linh sụp đổ, thời gian xẩy ra biến cố vĩ đại ấy trên thế giới, vợ chồng tôi, hai con người vô danh bé nhỏ ở nước Việt Nam châu á xa xôi không ai biết đến này đêm đêm đóng cửa, bật cái tivi Tam Dương đen trắng 12 inch gửi tầu cá đi Hồng Kông mua về lậu thuế, bắt kênh truyền hình của Lãnh sự quán Liên Xô ở Hải Phòng chăm chú theo dõi những gì đang xẩy ra trên thế giới. Vợ chồng Xêauxétxcu bị xử bắn trong một doanh trại quân đội. Cờ búa liềm được thay bằng cờ ba mầu của nước Nga Nga Hoàng. Những chiếc xe tăng bao vây nhà trắng Mạc Tư Khoa, Boris Yelsin ngồi trên xe tăng. Tượng Lênin bị cẩu xuống ở khắp nơi trên đất nước Liên Xô cũ… Thần kinh chúng tôi âm thầm tươi nở lại. Thịt da chúng tôi âm thầm tươi nở lại. Vẫn còn hy vọng sống. Dù chẳng tin mấy vào những gì sẽ đến đối với đất nước Việt Nam thân yêu của tôi, dân tộc Việt Nam đau khổ của tôi. Nhưng hy vọng đã trở lại. Niềm tin le lói lại. Thế giới giả dối, độc ác đã sụp đổ rồi! Bầu trời bằng đá xám âm u sụp một phần rất lớn rồi! Trời xanh đã hiện ra. Không thể nào đảo ngược được nữa. Những tin tức ở Việt Nam cũng rất đáng phấn khởi. Báo Lao Động đưa tin về cuộc hội thảo của một số trí thức với cái tiêu đề ngay dưới măng sét: Nếu Đảng không tự lột xác thì sẽ bị lột xác. Nguyễn Tuân tổng kết về đặc điểm chung của văn nghệ sĩ là cái chất hèn. Và gọi nhà văn là nô tì của Đảng. Bên cạnh đó là tham luận của Bửu Tiến của Dương Thu Hương tại đại hội nhà văn, là những truyện ngắn của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, là Bi Kịch Nhỏ của Lê Minh Khuê, Chuyện làng ngày ấy của Võ Văn Trực và đặc biệt, Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh…

Tôi thấy có lẽ mình phải viết. Có lẽ thôi chứ chưa cầm bút viết. Cho đến khi giọt nước Nguyến Quang Thân làm tràn cốc nước.

Là phó tổng biên tập tạp chí Cửa Biển, cơ quan của Hội Văn Nghệ Hải Phòng, và đang quyết tâm nâng cao chất lượng tạp chí, gặp tôi đâu là anh giục:

-Bây giờ viết được rồi đấy. Mày viết cái gì cho Cửa Biển đi.

Sau 22 năm không viết và gần như không đọc, viết cái gì đây?

Cuộc sống tả tơi quăng quật đầy đoạ, tai ương đè nặng như một trái núi trên lưng cho đến tận hôm nay, nhưng tôi chưa muốn giở ngay kho tàng ấy, cần phải có một thời gian nhìn lại, suy nghĩ đánh giá, sắp xếp lại. Tôi bảo Thân:

-Tao sẽ viết một bài về Nguyên Hồng được không?

Nguyên Hông là một đề tài nhẹ nhàng mà tôi có thể chạm đến bất kỳ lúc nào, hơn thế một bài viết ngắn có thể dễ được chấp nhận in và chỉ cần dành ra vài ngày để hoàn thành. Với lại cũng để thử sức mình, và thử họ, làm quen trở lại đã. Thân rất hoan nghênh dự định ấy của tôi:

-Hay. Bài đầu tiên khi viết trở lại là viết về Nguyên Hồng. Hay!

Nguyên Hồng, ông thánh tử vì đạo, một lương tâm văn học của chúng tôi, người thầy và người bạn vong niên có nhiều điểm tương đồng với tôi mà tôi rất thuộc có thể giúp tôi nói được về một thời đã mất và về cuộc sống hôm nay tôi đang sống. Tôi nhớ đến dáng người đậm, nước da nâu như người của đất mà Pierre Abraham, chủ nhiệm tạp chí Europe đã nói về ông trong lần gặp gỡ đầu tiên. Tôi nhớ đến những tối hè, cửa sổ nhà tôi rộng mở, vợ chồng tôi ngồi tiếp rượu ông trên sàn gác giữa nhà. Tôi nhớ đến đám tang ông mà tôi chỉ biết trên báo chí, vừa đọc vừa thầm nghĩ trong cái đám rất đông văn nghệ sĩ ở Yên Thế, miền trung du xa xôi nơi tôi đã sống những ngày kháng chiến đầu tiên, ngoài gia đình ông ra, không có ai thương xót ông như tôi, một kẻ đã là ngoài cuộc với văn chương, một thằng dân chài nghiệp dư, làm thi đua ở xí nghiệp đánh cá đã quên hẳn viết lách và thấm thía hai chữ “tiêu diệt”. Tôi lia. Kỷ niệm ập về, trĩu nặng ngòi bút. Chỉ hai ngày sau tôi đưa cho Thân Nguyên Hồng-Thời đã mất, bản phác thảo đầu tiên của tập hồi ký Một Thời Để Mất sau này. Thân rất thích bài viết, anh đánh giá nó là một bài sang trọng. Còn Chu Văn Mười, tổng biên tập, người quyết định cuối cùng, băn khoăn mãi với ba từ “Thời đã mất”, có ý định thay bằng ba từ “Như tôi biết”, Nguyên Hồng như tôi biết, nhưng tôi kiên quyết không đồng ý, “nếu ông thấy ngại thì để lại cũng được, không sao cả”. Cuối cùng, có sự thuyết phục thêm của Nguyễn Quang Thân, Mười, một đại biểu quốc hội, trong suốt nhiệm kỳ 5 năm không phát biểu một câu, chỉ tủm tỉm cười khi camera hướng tới, nụ cười trên khuôn mặt đầy đặn rất ăn ảnh nên gần như tối nào cũng xuất hiện trên màn ảnh nhỏ khi đài truyền hình đưa tin về những kỳ họp Quốc Hội, cái người luôn ý tứ, tính trước tính sau, cân nhắc từng cử chỉ cũng như từng chữ ấy đã nhượng bộ.

Thừa thắng xông lên, sau Nguyên Hồng Thời đã mất tôi lia hai truyện ngắn. CúnNgười ở cực bên kia. Cả hai đều được hoàn thành rất nhanh. Đó là những gì chỉ đợi tôi cầm bút là trào trên trang giấy. Khi đó đầu óc tôi còn chưa hỏng hẳn, dù bao năm bị tra tấn, bị ức chế, bị làm cho ngu đi, mụ mị đi, nhão đi. Đó là hai chuyện về tù. Một người mới bị bắt tù. Một người đi tù về. Tôi nghĩ phải đưa dần món ăn mới lạ này vào thực đơn văn chương để những người lãnh đạo văn nghệ và bạn đọc cũng như toàn xã hội chuyên ăn những món nhừ ngày này sang ngày khác suốt nửa thế kỷ đến mòn cả răng quen dần với món ăn mới có cay có chua, có đắng, tươi rói cuộc sống do tôi đưa ra và chế biến.

Cún viết về “ông lão hàng xóm” của tôi. Anh Hồng Sĩ, phó phòng chính trị Sở Công An Hải Phòng khi ông Trần Đông là chánh văn phòng. Hồng Sĩ ở sát tường nhà tôi, bị bắt trước tôi hơn nửa năm. Là người giao thiệp rộng, nhưng trước khi bị bắt anh chỉ còn một người bạn trung thành: Một con chó anh nuôi. Tất cả chi tiết trong Cún đều thực. Riêng đoạn cuối, để in được, Nguyễn Quang Thân đã biên tập, biến anh thành một người mất tích trong chiến tranh. Còn Người ở cực bên kia là chuyện của tôi, chuyện một học sinh giỏi nhưng lặn một hơi dài vì bị tù, đi họp hội trường, gặp lại thầy cũ bạn cũ… Thân rất thích hai truyện của tôi. Với Người ở cực bên kia, anh nói:

-Truyện này mày viết trong vô thức…

Đúng như vậy. Khi viết Người ở cực bên kia, tôi không có ý định lên án ai, tố cáo ai, mà chỉ nghĩ đến Những số phận khác nhau (tên một bộ phim Liên Xô) cùng một vạch xuất phát nhưng mỗi người một số phận, và xót thương cho một, cho những thân phận bị vùi dập. Và dù ở cương vị nào, khi gặp lại nhau họ đều là những người bạn thời đi học, họ trở lại tuổi thiếu niên. Đọc Người ở cực bên kia, các bạn học của tôi “nháo nhào cả lên” như Lê Bầu nói.

Cún in trên Cửa Biển còn Người ở cực bên kia in trên báo Văn Nghệ. Tôi và Nguyễn Quang Thân dịp ấy cùng có việc lên Hà Nội. Buổi tối trời mưa, với chiếc xe cào cào Babetta mượn được của ai đó, anh đèo tôi đến nhà Ngô Ngọc Bội, tổ trưởng tổ truyện báo Văn Nghệ. Bội ở trên tầng gác một khu chung cư (những khu chung cư mới của thủ đô đang phát triển này tôi không nhớ được tên và cứ lẫn lộn suốt). Bội đang uống rượu với mấy người con trai của anh và qua lời anh giới thiệu, tôi biết có một người làm ở cục chính trị Bộ Công an. Thức nhắm lèo tèo. Một bát một đĩa gì đó. Một bữa rượu còm.

Có thể nói đây là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với một người làm văn nghệ trên trung ương. Bởi vì những gì tôi đã biết, đã quen, đã giao tiếp với các anh đều thuộc về kiếp trước. Gần một phần tư thế kỷ. Một thế hệ mới rồi. Hoặc thế hệ cũ thì cũng đã trưởng thành, đổi khác, đã nổi tiếng, đã già đi, đã trở thành những cây đa cây đề, trong khi tôi vẫn là anh lính mới tò te, lạ lẫm và rụt rè với đủ mọi thứ.

Tôi không hiểu Bội có nhớ, có biết tên tôi không. Anh mời chúng tôi ngồi xuống chiếu uống rượu với bố con anh. Tôi nhấm nháp qua loa và chuyện xã giao. Nhưng chính cái xã giao ấy làm tôi lòi đuôi là người chẳng biết gì về Bội. Để tỏ ra luôn chăm chú đọc anh, tôi nhắc đến một bài anh viết về ông Xuân Diệu bình thơ ở huyện. Thân cười: “Không. Đấy là Nguyễn Bùi Vợi. Không phải Ngô Ngọc Bội.” Chết thật. Nguyễn Bùi Vợi là người tôi đã gặp, đã quen, đã xuống nhà tôi. Thế mà tôi lại nhớ nhầm là Ngô Ngọc Bội. May có Nguyễn Quang Thân, chứ không tôi cứ tán về ông Nguyễn Bùi Vợi trước mặt ông Ngô Ngọc Bội thì còn ra thể thống gì.

Hết lưng lưng chén rượu, Thân ướm lời:

-Có một truyện ngắn khá lắm nhưng của Bùi Ngọc Tấn, ông có dám dùng không?

Tợp một hớp, Bội đủng đỉnh:

-Tao đếch biết thằng Tấn là thằng nào. Cứ hay là tao in.

Trả lời như thế, có vẻ như Bội biết tôi hoặc còn nhớ tôi, tôi đoán vậy. Khi bị bắt tôi đã có tiếng tăm gì đâu. Cặm cụi viết được ba quyển tiểu thuyết định trình làng, nột tập truyện ngắn, cái kịch bản phim… (đều dã ký hợp đồng với nhà xuất bản và Cục Điện ảnh) thì bị tịch thu cùng với nhiều sáng tác khác.

Thân tiếp tục làm nhiệm vụ cò mồi:

-Truyện này hay. Ông in thì phải đổi cho tôi hai truyện.

Thân vừa nói vừa đưa cho Bội xếp giấy đánh máy của tôi.

-Dài không đấy?

Tôi đáp:

-Mười một trang đánh máy.

-Thế thì được.

Hai tuần sau truyện ngắn được đăng nhưng bị sửa một nửa câu làm tôi hơi thất vọng: Những điều tốt đẹp bốn mươi năm trước vừa trở lại đã bị cuộc sống hôm nay nuốt chửng mất rồi biến thành Những điều tôt đẹp bốn mươi năm trước vừa trở lại đã hoà vào cuộc sống hôm nay. Nhưng thôi, được đăng là tốt lắm rồi. Đây là sáng tác đầu tiên của tôi in trong khúc đời mới (bài Nguyên Hồng-Thời đã mất viết trước nhưng Cửa Biển là tạp chí ra hai tháng một kỳ nên chưa đăng). Tôi nhìn ba chữ tên tôi trên báo mà không tin được, mà hơi hoang mang: Tên mình đã từng được in như thế này. Mình đã từng là người làm văn hoá. Mình lại đang làm văn hoá. Hệt như cảm xúc của anh tù Nguyễn Văn Tuấn số tù CR 880 nhìn thấy quyển Người gác đèn biển hôm được ra trại mà tôi đã viết trong Chuyện Kể Năm 2000 (CKN2000).

Tôi không biết truyện của mình được in. Thân bảo mới biết. Thân đến tận nhà báo tin. Anh đến cùng Ngô Tự Lập, một anh lính hải quân trẻ măng và tờ Văn Nghệ trong tay. (Rất vui là gần đây tìm lại tờ văn nghệ ấy, thấy minh hoạ của Đặng Xuân Hoà. Vậy là tôi và Đặng Xuân Hoà rất có duyên với nhau. Anh là người minh hoạ truyện ngắn đầu tiên của tôi khi tôi viết trở lại, anh cũng là người đầu tiên vẽ chân dung tôi mười năm sau, khi CKN2000 ra đời, mở đầu việc vẽ chân dung tôi của một số hoạ sĩ.)

Thân giảng giải:

-Thông thường truyện ngắn báo Văn Nghệ được chuẩn bị trước bốn số. Truyện mày gửi lên in ngay thế này là vì truyện hay đấy.

Ngô Tự Lập cũng chúc mừng tôi.

Tôi không biết truyện của tôi hay dở thế nào. Bán tín bán nghi. Có thể chỉ là lời động viên của Thân. Khi mới cầm bút trở lại, tôi không biết mình đang làm ra cái gì, những trang viết của mình chất lượng ra sao. Bởi hai lẽ:

1- Tôi rất ít đọc. Hay gần như không đọc. Không phải vì lười mà vì sách nhạt, giả, công thức; vì đã biết trước điều người viết định nói với mình. Cái mặt bằng chung ấy dù không đọc tôi cũng biết rất rõ.

2- Trước những gì tôi đã sống, đã chứng kiến, đã trải, đã nghe kể lại, đã chiêm nghiệm, những điều tôi viết ra chẳng có được mấy ý nghĩa, chàng màng quá, hời hợt quá, nông cạn quá.

Cho nên khi viết được hai chục trang đầu quyển tiểu thuyết Mộng Du mà sau này được đổi tên là CKN 2000, tôi rụt rè đưa cho Thân đọc. Ở Hải Phòng khi đó tôi chỉ có mỗi Nguyễn Quang Thân. Nguyên Bình, người bạn thân nhất của tôi đã chuyển về Hà Nội. Cái tâm huyết của Thân làm tôi tin anh. Khi đưa anh, mới chỉ là những dòng lia, nhớ đến đâu lia đến đấy. Nhân vật còn chưa có tên chính thức.

Đưa Thân chiều hôm trước, sáng hôm sau tôi đạp xe tới Hội Văn Nghệ Hải Phòng tìm anh. Hồi hộp vì không biết anh đánh giá nó ra sao? Đưa trả tôi xếp giấy viết tay, Thân nói với tôi một câu tôi không hề chờ đợi, một câu không ngờ tới:

-Cái này của toàn nhân loại mày ạ. Tên sách Mộng Du được. Vừa phải. Không gay gắt lắm. Gợi.

Phấn khởi. Rất phấn khởi. Nhưng khó tin. Chỉ tôi mới hiểu nó vẫn còn chàng màng so với những gì tôi đã trải. Nhưng thôi. Cứ viết. Khởi đầu như vậy là tốt. Cứ viết. Viết và sửa. Cố gắng viết ra được những điều mình nghĩ. Cố gắng làm một cái gì đó của toàn nhân loại, cần thiết cho nhân loại.

Đến lúc ấy tôi mới đặt tên chính thức cho nhân vật. Sau này khi sách đã in, Đoàn Thị Lam Luyến bảo tôi:

-Anh đặt tên hay. Ngọc rồi Phượng. Nguyệt, Thương, Giang, già Đô, Lỷ Xìn Cắm, Voòng Kỷ Mình… Thế mà nhân vật chính lại có cái tên chán quá. Tuấn. Tuấn là cái tên nhạt nhẽo chẳng nói được gì. Tuấn rồi Hùng là những tên chung chung nhất. Mòn nhất.

Tôi cũng đã suy nghĩ về cái tên Tuấn ngay khi mới viết. Tôi biết đó là một cái tên thiếu cá tính. Xin lỗi những nhà văn có tên Tuấn, như Nhật Tuấn, Nguyễn Mạnh Tuấn… ở đây tôi chưa nói đến tên kép, đến họ và chữ đệm trước nó. Cái tên Tuấn của tôi không có cá tính khi đi sau hai chữ Nguyễn Văn. Nguyễn Văn Tuấn. Đúng là cái tên chẳng nói được điều gì đặc biệt. Một cái tên chỉ ra rằng người mang nó là một loại trung bình chân chất, bình thường như ngàn vạn người bình thường khác. Lại càng chân phương khi là tên một người viết văn. Giống một thứ nhà văn Nga mang tên I-van I-va-nô-vich vậy. Vâng, chủ bụng của tôi là thế. Đây là số phận của một người bình thường hiền lành chân phương, bình thường hiền lành chân phương ngay từ cả cái tên.

Khi đặt tên nhân vật tôi có hỏi Lê Bầu về tên những người tù dân tộc thiểu số là như thế nào nếu chuyển sang âm Hán Việt. Hiểu rằng đây là chuyện nghiêm túc, Bầu lắc đầu: Phải nhìn chữ viết. Nghe phát âm không xác định được đâu. Vẻ vui tếu vẫn có của anh khi đọc những tên nước ngoài theo âm Hán Việt mọi khi không còn nữa. Anh đâu biết tôi hỏi anh cũng chỉ là để hiện thực hoá một mơ ước khi còn ở trong tù: Bao giờ được ra tù phải hỏi Lê Bầu về những tên này. Và nghĩ đến những ngày chưa bị bắt, bạn bè quây quần, cùng nhau nghe Bầu đọc tên những danh nhân Châu Âu, châu Mỹ viết bằng chữ Trung Quốc theo âm Hán Việt để rồi cười lớn: Tây môn nhược phu là Simonov, Lý Ninh là Lê nin, Huy gô là Vũ Quả, đích thị ông này có họ với Vũ Lê Mai. Người có cái tên đầy chất kiếm hiệp chúng tôi thích nhất là ông Fidel Castro: Phi đắc nhĩ kha tư đặc la. Có những lúc lại thay từ cuối la thành lạc vì Bầu vẫn còn ngờ ngợ. Phi đắc nhĩ kha tư đặc lạc.

Ôi! Những cái tên! Những cái tên tôi đã gọi và gọi thầm bao lần trong các nhà tù. Những cái tên làm quên giây lát thân phận mình, kiếp tù tội của mình. Bởi vì tôi có thể nghĩ về những cái tên ấy, tự chuyển sang âm Hán – Việt. Cho dù đúng hay không đúng. Và mơ mộng tới khi ra tù sẽ hỏi Lê Bầu xem mình chuyển thế có đúng không… Voòng Sình Hắm là Hoàng Thanh Khâm (và nghĩ như vậy nhà văn Lê Khâm hẳn sẽ có tên Lê Hắm thật chẳng hay chút nào). Tằng Sình Quay là Trương Thanh Quý, Voòng Kỷ Mình có vẻ như Hoàng Khải Minh. Hơi ngờ ngợ một chút, không hiểu Kỷ có phải là Khải không? Hồ Quây Thềnh đích thị là Hồ Quý Thành rồi. Nhưng Ngàn Phăn Mằn thì biết chuyển thế nào nhỉ? (Nghĩ và cười một mình. Thật thú vị khi đang ngồi lê nhổ cỏ ở vườn ngoài hay vượt lên dốc khi qua suối, trên vai nặng trĩu gánh phân nhà bò lại có những đề tài “văn hoá” như vậy mà thả tâm hồn! Thật đúng là thân thể ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao. Chẳng ai có thể bỏ tù được tư tưởng.)

Tôi đã lắp tên người này vào họ người kia cho những nhân vật người dân tộc. Việc đặt tên quả không đơn giản. Nó phải gợi cho mình những nguyên mẫu, gợi những điều mình định viết, từ vẻ mặt, kiểu nói, cách đi, cách tạt, cách chia cơm…

Khi bắt đầu cày tôi mới biết mình quên rất nhiều. Chẳng bao giờ nghĩ sẽ có lúc ngồi viết chuyện tù để sống mà nhớ lấy như tên một tập tiểu thuyết Nga hay sống để kể lại như tên tập hồi ký của G. Marquez mà Dương Phương Vinh đã dùng làm tựa cho một bài phỏng vấn tôi sau này. Dù khi còn trong tù không biết bao lần tôi nghĩ đến lúc ngồi viết lại những chuyện ấy. Những chuyện như thế này mà viết thì… Đấy là một thứ phản ứng bản năng, một sự tự lừa mình để có thể vượt qua được đớn đau căm uất mà sống. Là một thứ tự huyễn hoặc mình, là cái phao để bám lấy, để nổi lên hớp chút ít không khí mà thở. Nghĩ rằng sẽ có lúc mình ngồi viết lại những chuyện mình đang sống để vượt qua tuyệt vọng, mặc dù vừa nghĩ xong đã lại cười chua chát, tự bảo: Đừng tự đánh lừa. Đến lúc được như vậy thì mày đã mục xương rồi. Và ngay lúc đó lại tự tranh cãi: Cứ mơ ước. Không ai cấm được mày mơ ước. Người ta có thể bắt mày vào xà lim, bắt mày làm khổ sai, người ta có thể huy động cả một guồng máy chuyên chính để đè bẹp mày, nghiền nát mày. Nhưng không ai có thể cấm được mày suy nghĩ, cấm được mày mơ ước.

Nghĩ vậy. Mơ ước vậy chứ cái ý thức thường trực, cái việc làm vô thức của nhà văn là quan sát và ghi nhớ thì gần như đã tê liệt, không còn nữa.

Chỉ đơn giản là chịu đòn. Chịu tra tấn. Không một cái đá, cái tát nhưng chính là tra tấn. Chỉ là tồn tại như một con vật, thậm chí không bằng một con vật. Và làm thế nào để tồn tại, để vượt qua. Khi được tự do, vấn đề tồn tại càng gay gắt. Có bao giờ dám lãng mạn cách mạng nghĩ rằng mình lại được viết. Dù viết ngợi ca. Mạc Lân đấy, Lê Bầu đấy. Viết văn ca ngợi, viết văn tổ đội cũng phải đổi tên. Lân lấy giọng một ai đó vô hình: “Chúng tao có đủ, có thừa những thằng viết nịnh hót, ca ngợi chúng tao rồi. Không dùng đến cái loại chúng mày.” Nghe chua chát nhưng đúng thế thật. Trong thời buổi gạo châu củi quế, mạch, bo bo không có mà ăn, đội ngũ văn chương tổ đội gạt đi không hết.

Nữa là viết chuyện tù.

Thế mà bây giờ tôi đang viết. Đang viết chuyện tù. Đang viết và đang viết về một đề tài cấm kỵ nhất, độc đáo nhất, chưa ai từng viết. Đành rằng đã có nhiều người viết và gọi người đến nhà nghe mình kể để viết chuyện tù của mình. Nhưng đấy là chuyện trong nhà tù đế quốc, chuyện những nhà cách mạng dứt bỏ gia đình hy sinh xương máu, lật đổ chế độ áp bức bất công tàn bạo để đất nước, nhân dân bước vào cuộc sống mới. Dòng văn học tù đầy dường như đã kết thúc với những hồi ký trong nhà tù đế quốc với những nhân vật được thần thánh hoá, lung linh huyền ảo, những cứu tinh đã sang trang cuộc sống cho đất nước, cho nhân dân.

Và tôi, chính tôi là người viết tiếp dòng văn học tù đầy tưởng đã chấm hết ấy. Tôi viết về nhà tù trong chính cuộc sống mà người ta nghĩ rằng, nói rằng, tưởng rằng đã bị tiêu diệt trong cuộc sống mới và không bao giờ còn trở lại. Tôi viết về những khổ đau oan khuất vẫn tiếp diễn, sinh sôi và phát triển, những điều là khẩu hiệu, là mục tiêu để cách mạng giương cao ngọn cờ, tập hợp vận động lôi kéo nhân dân tiêu diệt, và tưởng đã tiêu diệt hoàn toàn, nhưng hoá ra vẫn còn nguyên như cũ (và cho đến bây giờ đã hơn cũ, vượt cũ rất xa) chỉ thay đổi diện mạo, thay đổi ngôn ngữ, thay đổi y phục mà thôi. Le roi est mort, vive le roi. Đức Vua băng hà, Đức Vua vạn tuế. Trong xà lim tôi đã đọc đi đọc lại câu ấy trong tập Anna Karenina, tập sách Dương Tường dịch và tặng tôi mà buổi sáng 8-11-1968 đến bắt tôi, thấy bộ sách để ở đầu giường, người cảnh sát đã bảo tôi ”mang vào trong ấy mà đọc”. Nó mãi mãi là chân lý. Những thông tin tôi đưa ra sẽ hoàn toàn mới, chưa từng có trong văn học cách mạng. Tôi đang phơi ra ánh sáng một mảng hiện thực đã tồn tại, đang tồn tại và sẽ tồn tại lâu dài. Còn tồn tại lâu dài. Tồn tại và phát triển. Chúng xây nhà tù nhiều hơn trường học. Bây giờ trường học nhiều hơn nhưng nhà tù cũng nhiều hơn. Tôi đang viết về một sự phát triển xoáy trôn ốc của lịch sử, của tự do đây.

Tôi sẽ trình ra trước văn học thế giới nhân vật của tôi. Một thế giới dưới đáy bị dầy xéo, quằn quại, âm thầm sống và âm thầm chết tưởng chỉ có trong các tác phẩm hiện thực phê phán của các nhà văn lớp trước nhưng hoá ra vẫn còn đó, còn nhiều đó trong xã hội mới. Sự lừa đảo lớn nhất. Một cú lừa ngoạn mục như cách nói của Thi Hoàng. Hay như Nguyễn M. H., giảng viên một trường đaị học ở Hà Nội, khi sách đã in, anh đã đọc, về Hải Phòng, tìm tới nhà tôi và nói cùng tôi: “Họ lừa đảo dân tộc và lừa đảo cả chính họ. Một sự lừa đảo lúc đầu là không tự giác nhưng rồi trở thành sự lừa đảo có ý thức.” Mới gặp lần đầu, anh đã nói những điều nguy hiểm đến tính mạng như vậy đủ biết anh tin tôi như thế nào khi đọc sách của tôi. Anh khen tôi viết về lớp thanh niên những năm 60 rất chính xác và thở dài: “Chẳng bao giờ có một lớp thanh niên như thế nữa.” Tôi cũng đã viết một câu đúng như anh nói, nhưng nhà xuất bản chữa lại thành “Đến bao giờ lại có một lớp thanh niên như thế?” Cũng được thôi. Còn chúng tôi, lớp thanh niên lớn lên với cách mạng thì khẳng định: Không bao giờ còn có lại một lớp thanh niên như thế. Một lớp thanh niên có thể làm được mọi chuyện nhưng rồi đã được sử dụng phí phạm cho một mục tiêu không có thực. Tuổi trẻ, nhiệt huyết đã bị lãng phí, một sự lãng phí vàng ròng.

Tôi sẽ phơi bầy ra ánh sáng một thế giới còn nằm trong bóng tối. Tôi sẽ cày lên những luống đầu tiên của một vùng đất còn hoang sơ trên cánh đồng gieo gặt của cách mạng, một cánh đồng gieo hạt giống tự do, bón bằng xương máu nhưng lại trổ toàn quả đắng: Đàn áp, bất công, gian dối, oan khuất…

Tôi viết và nghĩ rằng mỗi con người, mỗi cuộc đời là một cái gì rất riêng biệt, không lặp lại, một bí mật, không chỉ là bí mật cá nhân, nó còn mang bí mật của thời đại, của lịch sử muôn hình muôn vẻ. Tôi viết với quyết tâm sẽ kể lại trung thực câu chuyện của tôi, bố mẹ vợ con, anh em bè bạn tôi, không chịu để nó biến mất tăm. Cuộc đời tôi không chỉ có ánh nắng mặt trời, có những ngày thần tiên thời thơ ấu, có nỗi buồn của kiếp phù sinh mong manh ngắn ngủi, mà còn có hơi diêm sinh của lửa địa ngục, vị đắng của sự dối trá tráo trở ngấm đượm cùng nỗi đau của kiếp giun dế nhỏ mọn bị giầy xéo, bị tước đoạt cuộc sống trong khi lúc nào cũng khao khát sống, khao khát được sống như một người cần phải sống trên cuộc đời này, trước khi chìm vào mất tăm, quên lãng. Như Phan Cẩm Thượng sau này đã viết về tôi: “Bùi Ngọc Tấn đắm đuối cuộc sống”. Vâng. Tôi. Một kẻ đắm đuối cuộc sống.

Lòng tôi trào lên quyết tâm hoàn thành quyển tiểu thuyết của đời mình, một quyển tiểu thuyết không giống một ai, các nhà văn không ai viết được, trừ tôi. Một quyển tiểu thuyết viết về những người dưới đáy trong chế độ mới, sản phẩm của một chế độ chính tôi và gia đình tôi cùng bao người khác đã đem tài sản, tính mạng, xương máu góp phần tạo dựng.

Tôi nhớ đến những quyển tiểu thuyết của các bậc đàn anh mà tôi đã đọc. Những quyển tiểu thuyết một thời từng là thành tựu đáng tự hào của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Tôi điểm lại một lượt những sáng tác trước tôi. Tôi tìm đọc vài quyển trong trào lưu đổi mới. Và rút ra kinh nghiệm cũ mèm: Bên cạnh những bậc thầy, nên đọc cả những sáng tác dở nữa. Để mình thêm tự tin. Để mình thêm quyết tâm. Dù tác giả những quyển sách dở ấy là thầy mình về kiến thức, thầy mình về nghề nghiệp. Họ loay hoay với nghiệp công chức. Họ nâng niu cái ghế của họ. Họ bị cầm tù bởi giáo lý, bởi đồng lương, bởi sự sợ hãi. Họ không đi tới đâu cả trong suy nghĩ. Họ bịa đặt. Họ né tránh. Họ làm ra gay cấn, làm ra vẻ mới trong những trang sách của họ. Những thợ viết chính hiệu. Và cũng nhiều cấp độ thợ. Thợ đồ gốm thủ công. Thợ đồ nhựa xanh đỏ, bóng loáng hoa mắt. Thợ điện tử vi mạch. Và có một điều buồn cười: Tất cả những người thợ ấy đều bảo người khác là thợ, còn mình thì không. Đấy là chưa kể những kẻ cơ hội, buôn bán văn chương, một thứ hàng khô và buôn bán những người làm ra thứ hàng khô ấy, nghĩa là buôn bán chính các nhà văn, một mặt hàng tươi sống…

Tôi viết và nhiều lúc chùn tay với những dòng chữ của mình. Hơi run. Thế mới biết cái “chất độc mầu da cam” ngấm sâu đến thế. Nhưng rồi lại trấn tĩnh: Hãy trung thực. Hết sức trung thực với tấm lòng mình. Thật khách quan. Và dũng cảm. Phải bao dung nữa. Hãy ghi lại thật chính xác. Không ăn bớt. Cũng không vu cáo. Đừng để những điều mình sống, mình thấy rơi vào quên lãng. Hãy đi đến cốt lõi ngọn nguồn. Hãy là người thư ký trung thực của thời đại.

Trong quyển tiểu thuyết của tôi tất nhiên có nhiều cái mới cái lạ. Lạ từ đề tài, từ con người, từ cảnh ngộ, từ chi tiết, từ điều kiện sinh tồn. Nhưng tôi không chủ tâm săn lùng cái mới cũng không lấy cái lạ làm loá mắt người đọc. Cái mới cái lạ trong tác phẩm của tôi được trình bầy như cuộc sống tự nó vốn thế, đầy rẫy những chuyện như thế, chẳng qua chúng ta không nhìn thấy hoặc không được nhìn, không muốn thấy mà thôi. Tôi luôn nghĩ chiếc neo để tác phẩm neo đậu vào cuộc đời, neo đậu vào thời gian là trái tim, là tấm lòng người viết, là không giả dối, không uốn éo làm duyên, không khoe vốn sống, khoe kiến thức. Là sự giản dị. Là sự chân thành. Là hơi thở cuộc sống phả vào trang giấy. Là góp phần làm cho tâm hồn người đọc phong phú hơn, từng trải hơn, trái tim người đọc nhân ái hơn. Trang giấy mỏng manh nhưng sống lâu hơn mọi đời người. ít nhất phải lưu giữ được những cảnh ngộ, những cuộc đời đã chết, đang chết, đang biến mất, rồi đây sẽ không còn ai biết và nhắc đến.

Trách nhiệm. Lê Bầu luôn nhắc tôi về trách nhiệm:

-Tôi nói cho ông biết, chuyện tù là chỉ có hai người viết được thôi đấy. Ông và ông Hiên. Ông Hiên đi rồi. Còn mình ông thôi đấy.

Bầu nhắc đến tên mấy ông nhà văn nhà báo đi tù và lắc đầu:

-Mấy ông ấy không viết được nữa rồi. Chỉ còn ông thôi.

Nói theo cách của Châu Diên, còn nhõn tôi. Nhiệm vụ của tôi thật nặng.

Khi tôi viết đến đoạn hút thuốc lào đêm, quy trình hút thuốc lào, về cái động tác xì tàn thuốc theo hình vòng cầu trúng đích cách xa hai mét và tiếp đó là câu “hắn đã đạt được trình độ xạ thủ ấy”, tôi đạp xe đến Hội Văn Nghệ gặp Nguyễn Quang Thân, hớn hở:

-Tao viết được rồi.

Tôi viết được rồi. Tôi tự tin vì đã hài hước được. Tôi đã tách khỏi lực hút của người trong cuộc, và bình tĩnh khách quan kể lại câu chuyện oan ức của chính tôi như kể lại câu chuyện của ai đó, có vui có buồn, và bao giờ chả vậy, khi sự việc đã qua, được nhắc lại với những nét buồn cười. Sau này khi bản thảo đã hoàn chỉnh, đưa Dương Tường đọc, Dương Tường bảo tôi một câu mà tôi biết rằng mình đã đi đúng hướng:

-Phải tăng tối đa tính hài hước. Hài hước khác với chua chát. Những nhà văn lớn bao giờ cũng là những nhà hài hước.

Giống như Ý Nhi viết về sự hài hước sau khi đọc tôi: “… hài hước là một phần không thể thiếu cho một tính cách hoàn thiện.” Nhưng tôi chẳng thể nào biến câu chuyện tôi kể thành một thứ chuyện hài, dù biết rằng kể những điều đau đớn dưới dạng hài thì tuyệt biết bao.

Dương Tường còn bảo:

-Thiếu cảnh đánh bạc. Ông phải thêm vào cảnh đánh bạc trong tù.

Đó là một ý kiến thuyết phục. Tôi viết thêm đoạn đánh bạc, một đoạn mà sau này khi in ra, Nguyễn Trọng Tạo rất thích. Anh bảo:

-Nghiêng ngửa với cảnh đánh bạc của Stefan Zweig.

Những chi tiết đánh bạc là lấy từ người anh họ tôi. Anh Bùi Xuân Ngạc nguyên phóng viên đài truyền thanh Hải Phòng. Do đánh bạc nhiều, bài vở không hoàn thành, anh Ngạc bị đình chỉ công tác. Một nhà máy đóng tầu nơi anh vẫn xuống lấy tin viết bài, đã cứu anh, nhận anh về làm thi đua. Đọc CKN 2000, thấy mình trong đó anh chẳng giận mà còn cười sảng khoái: “Chú viết về anh còn thiếu. Khi anh làm thi đua ở xưởng đóng tầu, giám đốc giao cho anh tiền tổ chức hội nghị thi đua, anh được nghỉ mấy ngày viết báo cáo và lo vật chất cho hội nghị. Đúng ngày dự định, đại biểu các nơi về, bộ tứ xí nghiệp không thấy thi đua chuyên trách với báo cáo đâu. Thế là hội nghị phải hoãn. Hỏi ra mới biết thi đua đánh bạc thua hết tiền tổ chức hội nghị rồi. Chưa hết. Sau kỳ ấy anh phải về hưu non. Chị Trinh (vợ anh Ngạc) làm ở Sở Văn hoá, chạy vạy mãi mới xin cho anh được chân bán vé cho đoàn kịch nói Trung ương về diễn ở Hải Phòng. Ngày ấy đoàn kịch nói về diễn là cả một sự kiện văn hoá. Bán được mấy tập vé thấy tiền nặng nặng, anh sập cửa ghi sê không bán nữa. Đi đánh bạc. Buổi biểu diễn phải huỷ. Họ kiện. Chị Trinh gần chết.” Anh cười tiếp tục: “Vẫn chưa hết. Còn thế này nữa chứ. Sau đó chú Thành xin cho anh đi trông xe đạp. Thấy tiền thu được kha khá, anh bảo người trông xe cùng với anh là đi vệ sinh nhưng hoá ra cầm tiền đi đánh bạc, đánh hết tiền mới về…”

Anh cười như cười trước một trò rồ dại của ai đó, chứ không phải của anh. Chuyện qua lâu lắm rồi. Anh đã ngoài tám mươi rồi. Cười cho một thời trai trẻ. Chuyện này tôi cũng biết. Thế mà tôi quên mất. Thật tiếc.

Tôi viết. Những năm tháng đã qua lãng đãng sương giăng. Một cái gì thăm thẳm ẩn hiện gọi là quá khứ. Và trong màn giăng hun hút mờ ảo ấy, những chi tiết ló dạng, định hình. Tôi dần dần sống lại, đắm mình trở lại với những ngày tưởng đã đoạn tuyệt hẳn, tưởng mãi mãi nằm trong kỷ niệm và chết dần, biến mất dần trong quên lãng. Giờ đây chúng về với tôi, ập tới tôi, bao bọc lấy tôi, ngấm vào máu thịt tôi, biến tôi thành một anh tù giam cứu, thành một người tù khổ sai không án. Cha mẹ tôi đều đã khuất. Tuổi trẻ của tôi, những gì tốt đẹp nhất của đời tôi không còn nữa. Bỗng thấy cuộc đời mình sao toàn những đắng cay. Nguyễn Kiên lúc còn làm giám đốc nhà xuất bản Hội Nhà Văn định in tập tiểu thuyết của tôi, nói với tôi khi hai chúng tôi thả bộ trên đường phố Nguyễn Du:

-Chỉ nguyên chuyện ông phải nhớ lại thôi cũng đã kinh khủng rồi. Cũng như đi tù một lần nữa rồi.

Đúng như Kiên nói. Khi ngồi viết tôi sống lại tất cả những khủng khiếp kinh hoàng đau đớn và uất ức. Nhưng không phải chỉ có vậy. Còn hạnh phúc nữa. Hạnh phúc vì được viết về những gì mình đã trải, trung thực như vốn có, không uốn cong ngòi bút. Vì được viết về những người dưới đáy, những người cùng cảnh ngộ như tôi, cùng cuộc sống như tôi, những người mà nhà nước cũng như văn chương tảng lờ làm như không có, những người xứng đáng đứng ở vị trí trang trọng trên tượng đài những nhân vật văn học. Hạnh phúc khi nghĩ: Mình là nhà văn của những người như họ. Đã có hàng vạn người và sẽ có hàng vạn người như họ. Hạnh phúc vì được vén lên bức màn che phủ, hơn thế còn là người đầu tiên đưa một mảng hiện thực mới tinh khôi, tươi rói từ trong bóng tối ra ánh sáng. Hạnh phúc vì được viết về những tháng năm tuổi trẻ tươi đẹp nhất đời tôi, cái thời gió thổi cũng khác, mây bay và trời xanh cũng khác, cặp mắt mình ôm gọn cả vũ trụ. Hạnh phúc vì được viết về tình yêu tuyệt vời của tôi, về những người thân yêu của tôi: Cha mẹ vợ con anh em bè bạn. Hạnh phúc vì mong ước tưởng như hão huyền của tôi đang được thực hiện.

Cái hội chứng sống ba kiếp sống thời gian mới ra tù lại trở về. Không chỉ những ngày trong tù, tôi sống lại cả những ngày trước đó, những ngày chưa bị bắt. Những ngày đầu xanh tuổi trẻ, những ngày đi học ở Thái Nguyên, những ngày đi thanh niên xung phong tiếp quản Thủ đô, mới bước vào đời biết bao hăm hở quyết tâm, tràn ngập lòng tin ở đảng, tràn ngập tình yêu cuộc sống. Và hạnh phúc với ý nghĩ thật may mắn được sống trong một thời đại như số phận sắp xếp cho mình. Và những người bạn tuyệt vời ở cơ quan báo cùng lứa tuổi, cùng ăn cùng ở, cùng lý tưởng, cùng khát vọng. Đó là chưa kể còn một người con gái như một em bé để mình yêu quý, để mình chiều chuộng…

Trong quá trình biến những ý nghĩ thành ngôn từ, tôi tự nhủ: Hãy hoàn toàn tự do. Thế mà nhiều lúc người vô hình vẫn ám ảnh trong tiềm thức. Khi thấy ông ta xuất hiện, tôi kiên quyết gạt ông ta đi ngay. Bình tĩnh. Cứ viết. Viết không nhằm mục đích in. Không làm văn chương chữ nghĩa. Hãy viết thật chân thực, giản dị. Và cẩn thận. Đừng để bị đi tù một lần nữa. Bởi vậy hãy viết sao cho không ai cãi được. Để khi đọc người ta thấy ngay đây là sự thật, một sự thật không thể bác bỏ hay bắt bẻ. Để chính ngay quan toà cũng không thể buộc tội được mình. (Tôi nghĩ đến toà án và cho rằng bây giờ nếu có bị bắt lần nữa chắc là được xử, và tôi sẽ đấu tranh để được ra toà chứ không phải nhận một tội nhẹ chưa đến mức xử mà chỉ ưu tiên tập trung cải tạo.)

Cho nên tôi không quan tâm đến hình thức mà người ta vẫn gọi là thi pháp của quyển tiểu thuyết và quên luôn những thứ trào lưu như hiện đại, hậu hiện đại, hiện sinh, hiện thực, hiện thực xã hội chủ nghĩa… và cả chủ nghĩa hiện thực huyền ảo đang rất được các nhà văn Việt Nam ngưỡng mộ. Với tôi, số một không phải là văn chương mà là một sự thật chuẩn xác, không bôi đen mà cũng chẳng tô hồng. Để những người hôm nay đọc, thấy mình trong đó. Để lớp con cháu sau này đọc, biết rằng đã có một thời như thế. Còn hình thức của quyển truyện, vẫn gọi là phần nghệ thuật, nó phụ thuộc vào nội dung tôi kể. Nó phải chuyển tải được những điều tôi muốn nói với người đọc. Tôi nghĩ trong khi ở nhiều nước người ta chỉ nghĩ viết như thế nào thì chúng ta còn đang ở những bậc thang tít cùng bên dưới. Điều quan trọng nhất lại là viết về cái gì. Tôi không thể trông đợi trên cho phép tôi viết về cái gì mà tự mình giải quyết điều sơ đẳng ấy, bởi tôi nghĩ tự do là do mình giành lấy, chứ không phải ngồi chờ ban phát. Còn về mặt cấu trúc, văn chương, chữ nghĩa… nó phụ thuộc vào chuyện viết về cái gì. Viết như thế nào luôn phụ thuộc vào viết về cái gì. Về nghệ thuật, tôi sẽ cố gắng hết mình, đạt tới cái trần của mình như một nhà thể thao chuyên nghiệp khi thi đấu.

Tôi đã quên. Khi cầm bút viết, tôi mới biết mình đã quên rất nhiều. Thì tôi vào đầu bằng câu: Có những việc tưởng không bao giờ quên. Thế rồi hắn quên…

Có sao viết vậy. Thế thôi. Ngay khi viết xong mấy câu đầu tiên, tôi cảm thấy mình có thể tiếp tục quyển tiểu thuyết với giọng điệu này và sẽ thành công. Với tôi, câu mở đầu rất quan trọng. Nó quyết định toàn bộ cách kể, giọng điệu kể sau đó cho tới hết quyển truyện. Không những thế, nó còn định vị thời điểm kể, định vị bố cục câu chuyện, định vị thái độ, tình cảm người kể. Câu đầu tiên của tôi đã xuôi, những câu sau cũng cứ theo cùng một giọng, giọng kể rủ rỉ tâm tình về một câu chuyện đã qua. Nó hợp với tính cách tôi, hợp với nội dung câu chuyện của tôi. Tôi đã mở được cánh cửa để những chi tiết theo nhau vào trang giấy. Và Kiên ơi. Hẳn Kiên chẳng thể ngờ rằng trong khi viết, rất nhiều lần mình nhớ về nhà tù một cách tuyệt vọng. Mình mới khao khát làm sao, một khát khao được sống lại những ngày ấy, được lê bước từ Vườn-Ngoài trại QN ra suối tắm. Được sột sệt lá sắn non. Được nghe anh tù người Nghệ An hát ví dặm trong đêm sơ tán B 52 ngoài lán trại VQ. Được nhìn thấy Sơn đứng như trời trồng trước cửa nhà mét, mắt mở to thôi miên ngọn đèn dầu đặt trên bậu cửa, khói tỏa ám vào tường như một bó hoa đen mà nhớ đến một câu của Marx: “Vả lại không có hoa mầu đen trong các loài hoa” và lẩm bẩm một mình: “Marx hãy vào đây với tôi. Có hoa mầu đen đấy Marx ạ. Đó là thứ hoa dành cho những người khốn nạn nhất trên thế gian này”.

Hoặc chỉ một lần nhìn thấy đồi sắn lá héo nẫu, tôi bên này luống, Nguyễn Văn Phổ bên kia luống sắn xới xới băm băm. Nhìn thấy con đường vào trại QN, sát toán lò vôi, nơi ấy rẽ vào một chút, qua con suối là tới nghĩa địa tù, những chiều thứ bẩy người đi tiếp tế nườm nượp. Biết làm sao. Tôi đã là một ông già. Người già thường hay nhớ về tuổi trẻ của mình. Mà tôi chỉ có một tuổi trẻ ấy thôi.

Cũng phải nói thêm về cái nhân xưng ngôi thứ ba Hắn mà tôi viết. Nó đã có trong Người ở cực bên kia in trên Văn Nghệ. Hình như trong văn học sau cách mạng, tôi và Nguyễn Minh Dậu là những người đầu tiên dùng từ Hắn và từ Thị không phải với ý khinh miệt, lên án, mà để nói về những người đáng thương kể cả đáng kính trọng, một nhân vật chính diện chứ không phải phản diện, không phải một kẻ thủ ác mà một nạn nhân. Có thể ai đó đã viết về Hắn trước tôi nhưng chắc chắn tôi là người triển khai Hắn một cách toàn diện nhất, Hắn với những người bạn của Hắn, những Hắn khác trên nhiều mặt bằng, khẳng định sự tồn tại của rất nhiều Hắn hình thành cả một tầng lớp Hắn trong xã hội vẫn được coi là không có bi kịch, ưu việt tốt đẹp nhất này. Sau này trong quyển tiểu thuyết tự sự Thượng Đế thì cười Nguyễn Khải cũng dùng từ Hắn để nói về mình, tôi cứ nghĩ vơ vào rằng ông Khải đã bắt chước tôi.

Comments are closed.