47. Chu Vương Miện
Tiểu sử
Chu Vương Miện sinh ngày 21 tháng 11 năm 1945, tại quê ngoại, làng Phục Lễ, quận Thủy Nguyên, tỉnh Kiến An. Quê nội làng Quỳnh Lâu, quận Yên Hưng, tỉnh Quảng Yên. Hai quê nội ngoại cách nhau khoảng mười cây số đường chim bay. Chu Vương Miện theo gia đình di cư vào Nam năm 1954, khi tròn mười ba tuổi. Giữa năm 1958, Chu Vương Miện lại theo gia đình ra Quảng Trị, học trường Nguyễn Hoàng. Rồi vào Đà Nẵng, học trường bán công. Thân phụ theo nghề lính, tùng sự tại Sư đoàn Không chiến 16, đồn trú tại Quảng Trị, nên sau đó anh lại ra theo. Vì thuyên chuyển liên miên, con đường học vấn của anh gặp nhiều trắc trở. Năm 1962, vừa tròn 21 tuổi, Chu Vương Miện trình diện Khóa 1 Hạ sĩ quan trừ bị. Ra trường về Sư đoàn 23 Bộ binh, Vùng 2 Chiến thuật, địa bàn hoạt động Ban Mê Thuộc. Chu Vương Miện làm việc trong Đại đội truyền tin. Năm 1966, anh rời quân ngũ, làm thư ký hành chánh tại Bộ Cựu Chiến Binh. Tập thơ Đêm Đen 20 Tuổi in năm 1964. Tập Tiếng Hát Việt Nam năm 1965. Giải Đồng hạng Thi ca do đài phát thanh Quốc gia trao tặng năm 1965. Chu Vương Miện in Trường Ca Việt Nam năm 1966, rồi Về Phía Mặt Trời năm 1968. Cùng với việc in sách, anh cho đăng thơ mình trên các tạp chí Bách Khoa, Văn Học, Thời Nay, Chiến Sỹ Cộng Hòa… Chu Vương Miện cũng đã cùng nhà phê bình Cao Thế Dung làm thư ký toà soạn nguyện san Quần Chúng.Anh cộng tác mật thiết với nhóm Thái Độ của nhà văn Thế Uyên.
(theo nguồn: luanhoan.net)
Chu Vương Miện viết sớm và viết đều đặn cho tới nay. Thơ của một người đã sống và đã có mặt trên chiến trường ở Quảng Nam, Quảng Trị, Ban Mê Thuột và nhiều vùng đất khác. Thơ là phản ứng tức thời của tâm hồn anh trước hoàn cảnh, trước những đổi thay bi kịch trên quê hương mà anh chứng kiến. Đó là một loại thơ có khuynh hướng thế sự rõ ràng, mạnh mẽ, chua chát. Ẩn bên dưới ngôn ngữ nhiều thách thức, tố cáo, là một tình yêu đối với xứ sở và bạn bè. Những cảm xúc và chủ đề phù hợp với nhau và phù hợp với giọng điệu trong thơ. Chu Vương Miện là một trong những tiếng nói mới, trẻ trung, của lớp người viết sau cùng của miền Nam. Lớp người ấy chưa kịp triển khai hết tài năng và lực lượng của mình, không có nhiều may mắn để kế thừa, phản hồi, truyền đi những giá trị của một quốc gia tự do.
Thơ Chu Vương Miện là cố gắng bảo vệ lòng tin, tình yêu, sự mong đợi ở con người. Chúng triển khai những xúc cảm cá nhân trong bối cảnh cộng đồng, dẫm những vết chân sâu trên mảnh đất bùn lầy của người tham dự. Tuy vậy, bất chấp những chủ đề hiện thực, thơ anh không hoàn toàn hướng tới sự tố cáo hay ca ngợi đơn thuần. Đôi khi, thấp thoáng giữa những câu thơ bi phẫn, vẫn thấy được vẻ đẹp của thiên nhiên, nỗi sợ hãi, câu hỏi về nhân gian, sự truy tìm nguồn gốc của thù hận. Giữa những trang thơ đã mai một đi nhiều của những người viết trong chiến tranh ở miền Nam, Chu Vương Miện vẫn còn đó, như một tiếng nói, bất chấp cuộc đời là khó khăn và chua chát, bất chấp một hạnh phúc đã bị đánh bại, những giấc mơ tan vỡ. Vẫn còn đó, tiếng nói của anh giữa ngổn ngang gạch đá, sự ngông nghênh bất cần đời của người lính, sự hiểu biết của anh đối với cội nguồn đau thương, chất hào sảng, sự rung cảm bí mật và chân thành của trái tim bị tổn thương.
Thơ Chu Vương Miện không trau chuốt, ngôn ngữ ít khi tinh lọc, nhiều bài gần như được viết một lần là xong, vì vậy chắc chắn chúng sẽ là thách thức đối công việc của nhà phê bình. Mặc dù thế, đối với nhiều thế hệ người đọc sau này, có một điều gì sâu xa trong thơ anh chắc sẽ đứng lại. Như thể trong mỗi chúng ta, có một điều gì sâu xa, một ngày sẽ dừng lại, tìm kiếm, và trong giây phút ấy, những bài thơ của Chu Vương Miện vẫn chờ đâu đó, như một nhân chứng, thì thầm kể câu chuyện của mình, đôi khi khó hiểu như một bài hát cũ, đôi khi ngân vang như lời cầu nguyện.
Văn Việt trân trọng giới thiệu.
THẠCH
Phan Phụng Thạch
Thấm thoắt cũng gần 50 năm
Bạn đã thong dong 1 chốn nằm
Gia trang Xóm Bầu nguyên quán cũ
Đạo Đầu còn mãi nửa vầng trăng
Cây mận năm nào còn hoa trái
Trắng tươi theo cái tuổi học trò
Ơi tiếng ve ran phượng hồng tháng hạ
Triệu Phong mùa này chắc tháng 3
Ta người bây chừ đường 2 nẻo
Nẻo quê miềng nẻo quê xa
1 mơi có trở về 3 bến
Có nhớ bướm vàng nẻo Hạnh Hoa
Xa xưa nghe khúc buồn hoa phượng
Mà sao thương đồng ruộng hoa cà
Âm dương vẫn con đường ngắn ngủi
Thương cho người 1 đóa tài hoa
ĐI ĐI VỀ VỀ
Đi đi rồi lại về về
Sông sâu đò đắm chỉ bè lênh đênh
Đời ta con khi đánh vòng
Truân chuyên quá đủ phù vân quá điều
Ngổn ngang giữa quảng và tiều
Thêm thù oán hận giận yêu quấy rầy
Leo kheo 1 tấm thân gầy
4 miền gió dựt cũng day dứt lòng
Đi về có cũng như không
Biết bao nhiêu mối bòng bong rới hoài
Trường Giang tiếp đến biển dài
101 năm cũng đủ kiếp người kiếp ta?
CHUYỆN TA CHUYỆN MÌNH
vô tội thì lội xuống sông
hữu tội đứng chán chổng mông mà gào
trong thơ hoa mận hoa đào
trong đời chó cắn mèo cào sứt da
chuyện đàn ông chuyện đàn bà
chuyện người chuyện ngợm chuyện ta chuyện mình
chuyện người trố mắt làm thinh
chuyện ngợm thì nhảy lên rừng mà coi
chuyện ta ôi chán mớ đời
chuyện mình váy ngắn váy dài váy ơi
EM LẠI TỰ DO
500 anh đốt cho nàng
còn 500 nữa giải oan lời thề
[ca dao]
từ nay yên phận yên bề
nguyền xưa đã giải bùa mê đã trừ
đốt xong vàng mã khật khừ
đò ngang đò dọc tạ từ mấy nơi
500 nữa trả cho người
thề nhăng hứa cuội cũng xuôi 1 đò
tổ cha câu hẹn câu hò
cây đa bến cộ con thò lò quay
1 ngàn chẵn nắm trong tay
nửa này mang đốt nửa này mang cho
mai thì em lại tự do
LƯU BÚT MÙA HẠ
Mùa này ve sầu khóc than trên nhành cây
Học trò hát bài nỗi buồn hoa phượng
Ta với người kẻ mất người còn
Lưu bút thủa này thắp 1 nén nhang
Tình bằng hữu tình đồng môn
Cùng 1 mái trường Nguyễn Hoàng
Chừ đã mất tên
Phan Phụng Thạch
Sông Thạch Hãn
Chảy qua Sải qua Bích La Đông
Mai sau ghé Đạo Đầu
Cây mận trắng vẫn còn?
Nhà thơ đâu?
4 ZERO
không nói
không nhìn
không nghe
không biết
không nói nhiều năm
câm
không nhìn
thành quáng gà rồi mù
không nghe
từ từ 2 lỗ tai
điếc đặc
không biết
mũ ni che tai
ù ù cạc cạc giống vịt
trong 1 xã hội
mà toàn là
không nói, nhìn, nghe và biết
viên chức nhà nước
5 d
nói dai dài dóc dổm dở
nhân dân 5 n
ngồi nằm ngáp ngáy ngủ
huê hương toa
“cái mùng mà kiêu cái mền”
ạch đị tiến lên?
MÔI TRƯỜNG
con sơn ca nuôi nhốt trong lồng
treo góc nhà
buồn không bao giờ hót
nhìn ra ngoài bức tường xám xịt
câm luôn
gạo trắng nước trong
sống mà chờ ngày chết
bên dưới là hồ cá Koi
con vàng con đen con đỏ
nứơc lẫn với sỏi trong xanh
lẫn vào với cứt
ăn nơi đó và ỉa nơi đó
lâu lâu con chim ỉa xuống
bầy cá giành nhau
nước ơi là nước
cá ơi là cá
thực phẩm trộn chung với phân
tình nước cá
sống trong môi trường như vậy
lâu đời riết thành quen
KHA TIỆM LY
thủa trời đất thụi nhau túi bụi
xã hội chừ ạch đụi triền miên
vùi nhau trong cõi thân tiền
tìm đâu Hồn Bướm Mơ Tiên thủa nào
trên mặt ao toàn bèo xanh ngắt
gió tàn thu lác đác lá rơi
hoa đào rải rác thiên thai?
đọc thơ Tống Biệt nhớ hoài Giáng Hương
ta với bạn có duyên kiếp trưóc
nên kiếp này hữu phước gặp nhau?
Tần Hoài giải nuớc chả sâu
Nghe thơ Đỗ Mục mà sầu ngổn ngang
Hậu Đình Hoa bàng hoàng tỉnh thức
Thương Nữ nào thương khóc quê hương?
Tiệm Ly ơi? Giấc hoàng lương
Kinh Kha sông Dịch 1 đường phải đi?
NHẬM RƯỢU
uống rượu với Cao Tiệm Ly
với kinh Kha
với đĩ
chả khác nào?
uống rượu với con khỉ
–
uống với Diêm Vương
Bao Công
với Tú Bà
Sở Khanh
Quá chán chường
–
uống với Lỗ Trí Thâm
Võ Tòng đả hổ
Với Từ Hải
thời thế bó tay
chả làm đuợc cái chó gì
đôi lúc phát khùng
–
uống rượu 1 mình
độc ẩm
trời đất bao la sầu
Chuyên Chư Lỗ Câu Tiễn
Cát Nhiếp
chừ lạc chốn nào
–
1 mình 1 hũ rượu
uất cần câu
nhìn trời nhìn đất
uất quá
hét lên
TỰ RO [KTL]
vất mẩu thuốc cuối cùng xuống dòng sông
mà lòng mình phơi trên kè đá
trời không xanh không tím không hồng
những ống khói tàu mệt lả
[Thơ Thanh Tâm Tuyền]
Ơi chuyện đời được bỏ nơm được cá
Cũng chỉ là bụi sả gừng cay
Trong đất trời nam bắc đông tây
cụ Uy Viễn vẫy vùng đắc chí
ra tướng võ vào tướng văn nói cười hoan hỉ
thê thiếp đầy đàn phỉ chí rong chơi
cụ Cao Chu Thần thất thế 1 đời
nơi Quốc Oai bó tay mần giáo thụ
dăm đứa học trò
bầu bạn còng con cú
quân cũng không mà thần cũng không
chuyện tự nhiên nước chảy theo dòng
kẻ đắc thế và người chịu chết
trong đất trời biết bao là hào kiệt
kẻ xênh xang võng lọng vinh qui
kẻ gian truân tiếng bấc tiếng chì
tài cũng thế? vô tài cũng vậy?
1 thầy 1 cô 1 chó cái
học trò dăm đứa nửa người
nửa ngợm nửa đười ươi
quyết chí xoay bạch ốc lại lâu đài
chán 3 chữ chi hồ giả giã
thu chí lớn vẫy vùng biển cả
thế không thời đành bó 2 tay
giữa chợ đời trụ ở phủ Quốc Oai
làm khi mặt xanh đuôi dài mặt tráng
hết chủ sự qua hành tẩu sử quán
hết theo sứ thần qua Tân Gia Ba
đem tâm can yêu nước thương nhà
đành tan xác giữa pháp trường đen bạc
NGHÈO NGHÈO
Sáng dậy sớm đi cày
Chờ mưa đi bừa
1 năm 12 tháng
Có thiếu có thừa
Có ngày no ngày đói
Có mùa được mùa thua
2 con trâu đi trước
Theo sau là cái cày
Theo sau chót
Là 2 vợ chồng con lừa
đồng cạn đồng sâu
bát gạo bát mồ hôi
chán mớ đời?
từ xưa từ ngàn xưa
đến bây giờ
vẫn vác cày vác bừa
vẫn cặp bò cặp trâu
hết mưa cùng nắng
dãi dầu
giàu sang thì không màng tới
nghèo sát đất
nghèo rớt mồng tơi
bao nhiêu chế độ đã đi qua
người vãn ngang với vật
TỪ KHI CÓ LOÀI NGƯỜI
Nghe nhàm tai tiếng khóc
Chả mấy ai được vui
Trong ta bà thế giới
Xuất thế cũng chả cười
Nhìn xuống hồ nước lạnh
Cá nuốt nhau thường ngày
Chim trời bay mỏi cánh
Dừng chân nơi nào đây
Cái tóc là cái tội
Trọc đầu chả thảnh thơi
Đọc bài kinh sám hối
Lòng dạ những u hoài?
Chuông từng hồi vang đổ
Gọi mãi linh hồn ai?
Cõi tạm bao khốn khó
Thao thức mắt đêm dài
Biết thế nào chữ ngộ
Nhìn trời toàn trăng sao
Cát ơi toàn là cát
Tiền thân tự kiếp nào?
Đường Thiên Sơn vạn nẻo
Đầu giòng tự chốn nao?
Cội nguồn bao sông lớn
Theo nhau về biển sâu
Kiếp này hay kiếp trước
La đà tận kiếp sau?
101 NĂM
Ngàn năm bia đá thời mòn
100 năm bia mực vẫn còn lai rai
Sự tình sống thác mặc bay
Bình chân như vại tràn ai ai trần
Thúy Kiều rồi lại Thúy Vân
Lại thêm gã Mã Giám Sinh dở trò
Khởi đầu là gã bán tơ
Vu oan giá họa đổ thừa Vương Ông
Gia tư đến Bước Đường Cùng
Khi không gặp cảnh đứng đường chơ vơ
Chuyện xưa rồi đến chuyện giờ
Y bài 3 lá thò lò cò quay
Thu về vạ gió tai bay
Đởi đời lương thiện ăn mày chuyển luân
Mới đây còn áo còn quần
Quay đi thi đã ở trần thân không?
BON CHEN VÌ 1 CHỮ ĐỒNG
Đời và đạo tuy 2 mà 1
Đạo với đời tuy 1 mà 2
Đời không đạo là đời vô đạo
Đạo không đời mà đạo với ai?
Giữa củ khoai môn và củ khoai mài
Có nguồn gốc là từ dưới đất
Y chang ong với mật
Đạo quê người giống y đạo quê ta
Cây đa dựa thần
Thần cậy cây đa
Cũng chiêng trống khói nhang thờ tự
Đạo là giấc mơ lành khi ta nằm ngủ
Là ánh hải đăng cho tàu giữa biển khơi
Đạo được sinh ra là bởi con người
Tô điểm cuộc đời càng người hơn nữa?
Đạo Ông Bà, đạo Bà La Môn, đạo Bà Hai
Đạo Khổng, đạo Phật, đạo Chúa
Giữa lòng nhân sinh cứu độ muôn loài
Giữa đạo đời? ai cũng như ai?
12 BẾN NƯỚC
Em giống dè lục bình trôi
Ngược xuôi chả bến bờ
Y chang 7 ngả sông Phụng Hiệp Cần Thơ
ta nơi đó giống hàng bằng lăng ngái ngủ
nước đục ngầu trên kênh vét Xà No
có thương nhau cũng chỉ nói nghe chơi rồi bỏ
Dốc Miếu Cái Vồn 1 thủa Tầm Vu
Ơi 1 thời thả tam bản trên vàm 3 Láng
Đôi chúng ta đâu khác cá xa bờ
9 nhánh sông cũng trôi về biển ráo
Hét sông Tiền sông Hậu sông Cái Tư
Bậu có thương qua lênh đênh
giữa dòng nước đục
giống gã thuyền chài cổ tích Trương Chi
qua lêu đêu giữa những dòng nước bạc
phượng hoàng khi không lại hóa ra gà?
cũng rất lạt lòng chúng ta cùng 1 chốn
theo chim thằng chài kẹt bãi phù sa?
HOA VÀNG ĐỘNG
Khi tóc dài
Khi đầu trọc lóc
Ôi chuyện nhân sinh
Biết viết đến bao giờ mới hết
Khi nhân điện
Khi bấm huyệt
Khi đấm lưng
Khi thầy tẩm quất
Dù qua bao nhiêu nạn
Dù qua bao nghiêu nghiệp
luôn cả nghề cúp tóc
Hỡi Thái Phương Thư ngày trước
Hỡi Phạm Thiên Thư bây giờ
Cà phê là cà phê
Mà thơ là thơ?
PHẠM THIÊN THƯ
100 năm trong cõi người Ngô
Chữ Tài chữ Xiểu vẫn vồ lấy nhau?
Chè tươi rồi lại chè tàu
Bánh tây chả lụa hoa đào nước sông
Đi tu nước lớn nước ròng
Xuống đời làm chuột đánh vòng câu cơm
Nơi chùa tụng được Kim Cương
Thì ra cũng lại tài nhân kiếp này
Qua cầu chả thoát 1 ai?
Chân không chân dép chân giầy không chân
Truyện Kiều cổ điển tân thanh
ở không soạn nốt Vô Thanh Đoạn Trường
không đèn ngói cũng như tranh
bình minh gà gáy giáo đường dộng chuông
xưa sau vẫn 1 cơn buồn
Nguyễn Du ơi? ngã 3 đường chốn đây?