HOÀNG MINH TƯỜNG
TIỂU THUYẾT
Sẽ hạnh phúc vô cùng cho nhà văn, nếu như cuốn tiểu thuyết được in ấn bình thường tại một nhà xuất bản trong nước như bao tác phẩm văn học khác, được bạn đọc rộng rãi tiếng mẹ đẻ của một thị trường gần trăm triệu dân đón đọc. Nhưng chắc chắn điều mong mỏi ấy không thể xảy ra. Hoặc là bản thảo bị gạt ngay từ “cửa gửi xe”, hoặc sẽ bị cắt xén đến thành dị dạng. Ngay tại một nhà xuất bản có uy tín ở Mỹ – NXB Người Việt, bản thảo được giám định cả năm, cuối cùng vẫn bị khước từ , vì sợ khi sách in ra sẽ bị những người quá khích phe cờ vàng đến kéo sập tiệm. Cả tác giả và tác phẩm đều bị lọt giữa hai làn đạn. Nhưng không phải vì dĩ hòa vi quí hay lưỡng tính. Mà quyết liệt và đi tới tận cùng. Một cuốn sách có thể được 99% người yêu văn chương đón đọc, nhưng chắc chắn sẽ bị 1% người ném đá. Đọc Những Mảnh Rồng, tự bạn sẽ xếp mình vào số 99% hay 1% kia, tùy bạn. Văn Việt hân hạnh trích giới thiệu tác phẩm mới này với bạn đọc.
Hoàng Minh Tường và vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc qua tiểu thuyết “Những mảnh rồng” Đặng Văn Sinh |
Hoàng Minh Tường là một trong những tác giả hàng đầu của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Sau bộ “Gia phả của đất”, năm 2008, ông cho ra đời cuốn “Thời của thánh thần” gây xôn xao dư luận như một cú đột phá vào thành trì chủ nghĩa “văn học phải đạo”. Đương nhiên, tác phẩm bị cấm phát hành như là một hình thức trừng phạt của ngành Tuyên giáo đối với nhà văn không viết theo “định hướng” của Đảng.
Thế nhưng, sau đó lập tức xảy ra một nghịch lý. “Thời của thánh thần” nhanh chóng được dịch sang nhiều thứ tiếng, và lần lượt xuất bản tại Pháp, Anh, Hàn Quốc và Trung Quốc…, làm rạng rỡ cho nền văn học nước nhà vốn không mấy tên tuổi với cộng đồng thế giới.
Năm 2014, Hoàng Minh Tường lại thử sức mình ở lĩnh vực tiểu thuyết lịch sử bằng tác phẩm “Nguyên khí”. Đây là cuốn sách viết về thân phận người trí thức Việt Nam thời trung đại qua vụ thảm án Lệ Chi Viên thế kỷ XV, như là sự chiêu tuyết cho vợ chồng Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ. Bản thảo cuốn sách do nhà xuất bản Tri thức cấp giấy phép. Mọi thủ tục đều suôn sẻ. Ai ngờ, đến lúc sắp vào nhà in thì có lệnh (vẫn là lệnh miệng) tạm dừng. Như thế có thể xem như số phận “Nguyên khí” đã được định đoạt. Cuối cùng, Hoàng Minh Tường phải chuyển đứa con tinh thần của mình ra nước ngoài. Nhà xuất bản Dân khí ở Hoa Kỳ tiếp nhận “Nguyên khí” một cách trân trọng, và chẳng bao lâu, cuốn sách được Công ty thương mại điện tử Amazon phát hành trên toàn thế giới.
Dù đã xấp xỉ “cổ lai hy”, sức viết của Hoàng Minh Tường vẫn rất đáng nể. Chỉ trong vòng mười tháng năm 2016, ông lại hoàn thành bản thảo cuốn tiểu thuyết mới với tựa đề khá lạ mắt: “Những mảnh rồng”.
Khác với “Thời của thánh thần”, “Những mảnh rồng” có bố cục mở rộng ra nhiều tuyến nhân vật, trải rộng trên nhiều vùng miền không gian khác nhau, mà trục trung tâm vừa tuyến tính vừa đan xen thủ pháp đồng hiện. Với “Những mảnh rồng”, tác giả có tham vọng bao quát khoảng thời gian già nửa thế kỷ biến động của lịch sử Việt Nam, mà một trong những chủ đề trung tâm là cuộc di tản trên quy mô lớn của hơn hai triệu người Việt, từ sau 30 tháng 4 năm 1975 cho đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX.
Vì thế, nhìn một cách tổng quát, ta có thể xem “Những mảnh rồng” là pho tiểu thuyết về cuộc thiên di vĩ đại của cộng đồng người Việt trong lịch sử Việt Nam, và cùng với cuộc “biến động nhân gian” này là sự hận thù, chia rẽ sâu sắc, khó có thể hàn gắn vết thương này nếu nhà cầm quyền vẫn luôn hành xử với bà con xa xứ như kẻ chiến thắng trong cuộc chiến tranh ý thức hệ.
Hệ thống nhân vật trong “Những mảnh rồng” khá đa dạng, với nhiều đẳng cấp, lứa tuổi, trình độ nhận thức, nguồn gốc xuất thân cũng như hoàn cảnh khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các nhân vật có mối quan hệ với nhau hoặc theo chiều dọc, hoặc là chiều ngang. Những nhân vật chính luôn xuất hiện với tần số cao, tham gia vào mọi sự kiện thì phải kể đến Phạm Hải Hành, Ngô Đoan Diễm, bà Bé Bẩy, David Bùi, Nhân Mục, Phạm Hoài Trung, Tôn Nữ Hương Giang, Vũ Bảo Huy, Mỹ Hằng, Ngô Bỉnh Thạc, Chín Cửu. Tuy nhiên, các nhân vật phụ, chỉ thấp thoảng ở một vài chương nhưng cũng có vai trò quan trọng trong việc hình thành diện mạo cuốn sách, đồng thời định dạng tư tưởng tác phẩm như những chỉ số tham khảo. Trong số ấy, phải kể đến nhà phong thủy Ngô Cang, Cao Trần Đoàn, Thái Đàm, Tạ Kiều Sương, Lê Sa Biền, Trịnh Minh Hoàng và giáo sư James Quinn.
Khác với những tiểu thuyết trước đây, “Những mảnh rồng” có cấu trúc đa tuyến (bao gồm nhân vật và sự kiện), liên kết với nhau bởi những mối quan hệ phức tạp, móc xích, đan chéo nhau, tạo nên một bức tranh toàn cảnh, phản ánh hiện thực đa dạng lịch sử xã hội Việt Nam chìm ngập trong khói lửa chiến tranh. Có điều, sự đa dạng ở đây được Hoàng Minh Tường chọn lọc, kiểm soát và diễn ngôn qua nghệ thuật điển hình hóa của thi pháp tiểu thuyết truyền thống. Nói cách khác, “Những mảnh rồng, xét về hình thức, là một tiểu thuyết “cổ điển”, nhưng những “đại tự sự” và vấn đề người viết đặt ra thì không cổ điển chút nào. Nó là sự tồn vong của đất nước, dân tộc, mà bất ai quan tâm đến đều phải đọc một cách nghiêm túc để tìm ra câu trả lời cho mình.
Có thể xem “Những mảnh rồng” là tiểu thuyết của những sự kiện lịch sử, được phân tích, diễn giải qua cách nhìn cấp tiến của một nhà văn từng trải, có bề dày văn hóa và ngòi bút trung thực. Phần quan trọng nhất của cuốn sách là sự kiện “Thuyền nhân” (boat people) được đưa ngay lên chương đầu, với mục đích làm cho những người Việt Nam có lương tâm, nhận diện được một giai đoạn lịch sử đen tối của dân tộc, khi mà những người Cộng sản hả hê với chiến thắng, còn phía bên kia, những người thuộc phe bại trận lủi thủi bỏ Tổ quốc ra đi trên những con thuyền rách nát, phó mặc số phận cho thần may rủi. Những người kém may mắn hơn, phải ở lại, thì chỗ cư trú của họ chính là những nhà tù giống như trại tập trung thời Đức Quốc xã ở nơi rừng xanh núi đỏ, giam giữ hàng triệu “tù binh” vô thời hạn không qua xét xử. Học thuyết đấu tranh giai cấp sắt máu và nền kinh tế èo uột những năm sau chiến tranh đã giết chết hàng loạt quân nhân, viên chức chính thể Việt Nam cộng hòa. Những nấm mộ sơ sài không người hương khói dần dần rơi vào quên lãng. Hồn phách họ vật vờ khắp mọi miền sơn cước thành ma đói ma khát, biết đến khi nào được đầu thai kiếp khác cho trọn một vòng luân hồi?
Gia đình Phạm Hoài Bắc, Dương Thị Nhạn và những thuyền nhân trên con tàu định mệnh bị hải tặc cướp bóc, giết người, hãm hiếp phụ nữ chỉ là một trong hàng ngàn vạn những con thuyền bất hạnh trên hành trinh đi tìm tự do mà thôi. Theo con số thống kê của Cao ủy Liên hiệp quốc về “thuyền nhân” Việt Nam bỏ mạng trên đường di tản từ sau năm 1975 đến đầu những năm 90 của thế kỷ XX là khoảng 300 ngàn. Đây là bi kịch của dân tộc, cũng là vết nhơ trong lịch sử Việt Nam. Những kẻ luôn tự vỗ ngực là “đỉnh cao trí tuệ”, nắm quyền trượng điều hành đất nước trong tay mà để cho mấy triệu đồng bào ly hương trong khốn cùng tuyệt vọng, hẳn là trái tim họ chai sạn, không còn chỗ cho sự cảm thông, chia sẻ. Hành vi vô nhân tính ấy, thậm chí cả Karl Marx, ông tổ của Chủ nghĩa Cộng sản, cũng phải phẫn nộ cho rằng, chỉ có loài thú mới phớt lờ đồng loại, chăm chú chải chuốt bộ lông của mình.
Sự kiện Phạm Hải Hành, một boat people tí hon lọt lòng mẹ trên con thuyền rách nát vừa qua kiếp nạn giữa trùng khơi sau khi bố và chị gái bị hải tặc bắn chết quăng xuống biển, làm người đọc thổn thức. Và cũng chính chú bé thuyền nhân may mắn sống sót, sau khi cùng mẹ và bác sĩ Tôn Nữ Hương Giang đến nơi định cư, đã trở thành nhân vật trung tâm câu chuyện “Thuyền nhân” của nhà văn Nhân Mục.
Tiếp sau chương “Thuyền nhân” là những chương viết một cách khái quát về cuộc sống tha hương của người Việt trên đất Hoa Kỳ. Câu chuyện Phạm Hải Hành và Bùi Lai tham gia biểu tình cùng với lá cờ hòa hợp, bị những kẻ chống cộng cực đoan đánh hội đồng, phải nhập viện, xuýt bỏ mạng, chính là tiền đề để tác giả bàn sâu về vấn đề hòa hợp dân tộc. Động thái này chủ yếu dựa trên chính kiến của các trí thức, các nhà văn hóa, nhà khoa học tên tuổi của cá hai miền Nam Bắc đang định cư ở Châu Âu hoặc Bắc Mỹ. Đây là những thành phần ưu tú, từng bị chính truyền chụp mũ, truy bức nên phải tìm cách vượt biên để tránh phải ngồi tù. Đó là nhà văn Nhân Mục, tác giả cuốn sách “Nhớ cũ” nổi tiếng một thời, là nhà báo Lê Sa Biền, có thời làm báo Cộng sản, danh tiếng nổi như cồn, nhưng rồi bị an ninh :chiếu tướng” là đệ tử của Trần Xuân Bách nên phải cao chạy xa bay nếu không muốn “nhập kho”. Rồi còn Thái Đàm, Lưu Sơn, từng chu du cả một vòng trái đất, luôn mang trong mình những nghi án tưởng tượng, khiến tâm trạng u uất như người đi xa gánh nặng ngàn cân chẳng biết bao giờ mới thoát khỏi cảnh lưu vong. Ngoài chủ đề “Thuyền nhân”, cuốn sách còn đặt ra một vấn đề rất không ổn trong cách đối xử với nhau của cộng đồng người Việt hải ngoại. Nguyên nhân là sự bất đồng chính kiến về hòa giải, hòa hợp dân tộc. Thói quen của người Việt thường không chấp nhận những ý kiến khác biệt, thiếu sự khoan dung, nên gây ra tình trạng chia rẽ. Đây chính là điểm yếu nghiêm trọng khiến cho nhà cầm quyền Cộng sản lợi dụng phân hóa hàng ngũ, đồng thời vô hiệu hóa những nhà đấu tranh dân chủ bằng những ngón đòn hiểm học được từ đàn anh phương Bắc. Điển hình là cuộc hội thảo của các nhân sĩ tại trụ sở báo Phục quốc, nếu không có sự can thiệp của nhà văn Nhân Mục và nhà báo Vũ Bảo Huy, hẳn đã xảy ra xung đột.
Nhân Mục là một trí thức có tầm hiểu biết sâu sắc, từng trải qua chặng đường khổ ải dưới chế độ nhà tù Cộng sản hà khắc, bị đối xử như loài súc vật cho dù ông là giáo sư đại học, không trực tiếp cầm súng chống lại chính quyền miền Bắc. Nỗi đau của Lương Vĩnh Nhân là, sau khi đặt chân lên đất Mỹ mới biết người vợ thân yêu đã qua đời vì căn bệnh ung thư. Ông là người trầm tĩnh, sống nội tâm, nặng tình với quê hương, nhưng mãi đến cuối đời mới được cấp visa về thăm làng Mọc có chiếc cổng cổ kính với ba chữ “Tiểu cao đại” (小高大).Nhà văn cảm thán cho nỗi bất hạnh của đám Rồng cố quốc chẳng khác gì con tin trong một nhà ngục khổng lồ mà đám cai tù là bọn bất lương, vô nhân tính. Ông cũng ngậm ngùi chia sẻ nỗi bi thương với gia đình những nạn nhân bị bỏ mạng trên biển khơi trong hành trình vô vọng đi tìm đất dung thân. Chính vì thế, ngoài việc liên hệ với bạn bè khắp năm châu để tìm cách giải mã cuốn gia phả và chiếc trâm cổ của dòng họ Phạm, ông dành phần đời còn lại viết cuốn tiểu thuyết để đời: “Thuyền nhân”.
Khác với Lương Vĩnh Nhân, Vũ Bảo Huy là nhà báo “quốc doanh”. Tuy nhiên, anh đã vượt qua nỗi sợ hãi (bởi sự giám sát chặt chẽ của hệ thống an ninh, mật vụ), dám phát biểu chính kiến của mình về vấn đề hòa hợp dân tộc trong cuộc hội thảo tại California. Vũ Bảo Huy công khai tán thành việc làm đầy ấn tượng của Phạm Hải Hành và David Bùi, bên cạnh đó cũng chỉ ra những nhược điểm như là khuyết tật trong hành trang văn hóa, mà ngay khi sống ở xã hội văn minh như nước Mỹ, người Việt vẫn mang theo. Là công dân của chế độ toàn trị, họ Vũ thừa biết, bản thân nó chưa bao giờ là Cộng sản. Cộng sản chỉ là cái vỏ ngụy trang, còn thực chất là nhà nước tư bản hoang dã, hành xử như những băng đảng tội phạm, vì quyền lợi của một nhóm người mà hy sinh quyền lợi của cả một dân tộc. Tuy nhiên anh cũng chỉ ra, hành động chống cộng cực đoan của một bộ phận người Việt hải ngoại đã che mờ lý trí dẫn đến cách nhìn nhận tất cả người Việt quốc nội đều là Cộng sản xấu xa, và hễ có dịp gặp nhau là buông lời thóa mạ. Sự chân thành và khả năng thuyết phục có lý lẽ của Vũ Bảo Huy đã phần nào giải tỏa được sự căng thẳng giữa các tổ chức hải ngoại bất đồng chính kiến.
Mối tình sét đánh giữa nhà doanh nghiệp Mỹ Hằng và Vũ Bảo Huy cũng là một trong những trường đoạn làm người đọc thích thú bởi phong cách lãng mạn của nó. Có thể nói, đây không phải vụ affaire có tính vụ lợi mà là một mối tình chân chính đúng với nghĩa của nó. Con mắt xanh người đẹp tỷ phú nhận ra Vũ Bảo Huy là trang nam nhi đầu đội trời chân đạp đất sẽ là chỗ dựa chắc chắc cho mình sau khi đã gá nghĩa với hai người chồng giàu có. Chính mối lương duyên nồng nàn say đắm ấy đã làm sống lại tinh thần Vũ Bảo Huy sau khi anh phát hiện ra người vợ phản bội. Khốn nạn hơn nữa, kẻ đã kéo Thùy vào cuộc phiêu lưu tình ái ấy lại chính là tay bạn thân Đỗ Luân Khả. Khả là gã hoạt đầu, lưỡi gỗ, bằng đủ mọi mánh khóe, sau này còn leo lên đến chức vụ “Trưởng ban Lý luận” Trung ương.
Sau chuyến đi Mỹ, Huy bi o ép đến mức phải xin thôi việc ở tòa soạn báo. Anh vừa làm luận án tiến sĩ, vừa lập trang blog cá nhân, và, Cuội blog của anh với hàng loạt bài chỉ trích nhà nước Cộng sản độc tài toàn trị đã khiến nhà chức trách nổi khùng, xuống tay hạ độc thủ. Vũ Bảo Huy bị câu lưu, bị thẩm vấn dưới sự chỉ đạo của thứ trưởng công an Hồ Hữu Nhơn và chết trong trại tạm giam. Cái chết bất đắc kỳ tử của Vũ Bảo Huy là bằng chứng không thể chối cãi của chế độ công an trị, được nhà nước Cộng sản sử dụng như một công cụ hữu hiệu để triệt hạ những nhà bất đồng chính kiến. Bi kịch của Vũ Bảo Huy cũng là bi kịch của giới trí thức tinh hoa. Chỉ có loại trí thức do Đảng đào tạo mới được trọng dụng, vì đó là loại trí thức “lùn”. Tuy nhiên, trong số này, nếu có kẻ nào bỗng nhiên khôn hơn Đảng thì hãy coi chừng. Là trí thức của Đảng lúc nào cũng phả “ngu” hơn Đảng. Đó là luật bất thành văn nhưng ai cũng phải thuộc nằm lòng.
Bên cạnh Vũ Bảo Huy – Mỹ Hằng, Phạm Hải Hành và Ngô Đoan Diễm cũng là một mối tình đẹp. Nó vừa mang màu sắc lãng mạn của những trí thức trẻ tuổi đầy mơ mộng, vừa là biểu tượng của sự hòa hợp dân tộc sau già nửa thế kỷ phân ly. Thế nhưng cặp trai gái này, cuối cùng vẫn rơi vào bi kịch bởi những toan tính của hai ông bố lúc nào cũng coi quyền lợi phe nhóm là tối thượng.
Nói một cách hình ảnh, Phạm Hải Hành được xem là biểu tượng của “Những mảnh rồng” Việt tộc, bị đẩy đến bước đường cùng phải rời cố quốc như như lời truyền ngôn của cụ tổ dòng họ Phạm có nguồn gốc từ Mạc tộc: “Tha hương tắc tồn” (他鄉則存). Thuyền Nhân được xem là thế hệ thứ hai, ra đời trên biển khơi trong những ngày cha mẹ chạy trốn nạn bạo hành của những người thắng cuộc. Cho đến lúc là sinh viên trường Beckerley, tham gia biểu tình, chưa một lần đặt chân về quê cha đất tổ, nhưng chàng trai trẻ đã có ý thức hòa giải, hòa hợp dân tộc qua hình ảnh là cờ ghép biểu tượng hai thế chế chính trị từng một thời nổ súng vào nhau. Và cũng từ ý tưởng có một không hai đó, Phạm Hải Hành trở thành mục tiêu “ném đá” của những kẻ chống cộng quá khích. Thuyền Nhân như đứng giữa hai làn đạn của chiến tuyến ý thức hệ. Tuy nhiên, từ tia lửa nhỏ Phạm Hải Hành, những người có viễn kiến như Nhân Mục, Vũ Bảo Huy, Thái Đàm, Lưu Sơn, Ngô Đoan Diễm, Mỹ Hằng…, đã nhen lên thành ngọn lửa ấm xua tan băng giá. Thái độ chân thành có tính thực tiễn này đã thức tỉnh phần lương tâm “những mảnh rồng” từ lâu vẫn ẩn tàng trong tâm khảm. Nó có hiệu quả hơn hẳn hệ thống tuyên truyền bịp bợm của những kẻ thắng cuộc bên kia đại dương.
Cũng vào thời điểm ấy, Vũ Bảo Huy và Ngô Đoan Diễm như chiếc cầu nối để Phạm Hải Hành về Việt Nam tìm nguồn cội. Thế nhưng, trên đời này, chẳng ai học hết chữ “ngờ”. Cuộc tình duyên “thanh mai trúc mã” của Thuyền Nhân với Ngô Đoan Diễm bất ngờ bị kẻ thứ ba chen vào…
Sự đổ vỡ của cặp uyên ương tưởng như trong mộng này đã nằm trong kế hoạch “điệu hổ ly sơn” của những cao thủ trong nghề lừa đảo mà đầu lĩnh là Chín Cửu, một nhân vật đang lên như diều, nắm trong tay quyền sinh quyền sát, và sau đó là Ngô Bỉnh Thạc. Với Chín Cửu và viên cựu Soái Nga, tình yêu chỉ là trò chơi ô ăn quan của bọn nhóc con miệng còn hơi sữa. Quyền lực và các mối làm ăn trong guồng máy vận hành của chủ nghĩa tư bản thân hữu mới là cái đích họ nhắm đến. Và, đương nhiên, Ngô Đoan Diễm sẽ là con bài trong trò chơi quyền lực của các chính trị gia nhằm củng cố vây cánh.
Tình yêu và thân phận con người được Hoàng Minh Tường miêu tả thật sinh động với cả niềm hạnh phúc và những bi kịch của nó nhưng không phải là tất cả. “Những mảnh rồng” còn có một mảng hiện thực đen tối được tác giả tái hiện qua hai nhân vật cộm cán Chín Cửu và Ngô Bỉnh Thạc như là các “bố già” đang thao túng chính trường và điều hành nền kinh tế đất nước theo phong cách Mafia. Ngô Bỉnh Thạc chính là “sân sau” của gia tộc Chín Cửu, cùng với đám chủ ngân hàng tạo thành nhóm thân hữu siêu quyền lực. Với những “ông lớn” này, hoàn toàn thiếu năng lực quản lý quốc gia vì không được đào tạo có hệ thống, nhưng lại thừa “chuyên chính vô sản” vốn là bản chất của các nhà nước độc tài theo mô hình Stalin và Mao Trạch Đông.
Trịnh Minh Hoàng chính là “hạt giống đỏ” của thể chế toàn trị. Hoàng có đầy đủ phẩm chất của một phần tử lưu manh, côn đồ, từng rút súng bắn chết con trai một quan chức chóp bu khác nhưng vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Vụ án mạng được ỉm đi, và gã “thái tử đỏ” nghiễm nhiên trở thành “thiếu úy” công an do sự dàn xếp bí mật của một viên tướng tay chân của Chín Cửu. Những hành vi hạ đẳng của Trịnh Minh Hoàng chưa dừng lại ở đây. Với sự đồng lõa của đám bạn bè, cậu ấm họ Trịnh còn tiêm thuốc mê vào quả anh đào, lừa Ngô Đoan Diễm ăn trong “dạ tiệc đế vương” ở Tuần Châu rồi chiếm đoạt nàng. Có lẽ, bởi những “thành tích” nổi bật như vậy, chỉ ít lâu sau, cậu ấm này được cơ cấu vào Ban Chấp hành Trung ương Đoàn, làm đến chức bí thư, một dạng “cán bộ nguồn” gạo cội, trong tương lai gần sẽ là nhà lãnh đạo quốc gia. Hiển nhiên, Hoàng sẽ là minh chứng tuyệt hảo cho chính sách bổ nhiệm cán bộ “đúng quy trình” con vua thì lại làm vua của những người Cộng sản.
Quyền lực và lợi ích có sức hấp dẫn người Cộng sản đến mức họ có thể hy sinh cả tình mẫu tử. Vì sự an toàn của bản thân, Tạ Kiều Sương sẵn sàng vứt bỏ đứa con lai không thương tiếc cho người đàn bà xa lạ. Và cũng vì là vợ một quan chức đầu tỉnh, bà ta cũng khước từ luôn đứa con trai đã trưởng thành sau nhiều lần về Việt Nam tìm mẹ. Trong khi ấy, Bùi Lai (họ tên chính thức là David Quinn), lại là biểu tượng cao đẹp cho sự hòa giải giữa hai dân tộc Việt – Mỹ. David Bùi là một hình tượng văn học giầu cá tính, tình cảm sâu nặng nhưng lại bị chính mẹ đẻ chối bỏ.
Những người Cộng sản tiêu biểu là Chín Cửu, Đỗ Luân Khả, ngoài miệng luôn hô hào hòa hợp, hòa giải dân tộc, lại chính là những kẻ cổ xúy cho sự chia rẽ dân tộc nhiệt tình nhất với nhiều thủ đoạn tinh vi, đẩy “những mảnh rồng” văng ra khỏi tổ quốc Việt Nam. Không thể có chuyện hòa hợp, hòa giải dân tộc khi mà những người như nhà văn Nhân Mục về thăm quê luôn bị lực lượng an ninh giám sát, bị báo chí bêu riếu là “thế lực thù địch” hay “Việt Tân”, còn Vũ Bảo Huy, mới chỉ viết bài phản biện một cách ôn hòa trên blog “Cuội” của mình đã bị đột tử trong trại tạm giam.
“Những mảnh rồng”, xét đến cùng, thực chất là cuốn tiểu thuyết của vấn nạn thuyền nhân và vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc, khuyên mọi người hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai vì một nước Việt phồn vinh qua hình tượng các nhân vật trẻ tuổi như Phạm Hải Hành, Ngô Đoan Diễm. Nhưng liệu dự án tương lai này có thành hiện thực khi mà phía trước vẫn còn đó những thế lực chính trị, thà để cho đất nước tụt hậu, dân chúng đói nghèo, lãnh thổ, lãnh hải bị ngoại bang gậm nhấm dần, quyết không nhường quyền lãnh đạo quốc gia vào tay kẻ khác như đã ghi trong Điều 4, Hiến pháp 2013, xin mời các bạn hãy đọc “Những mảnh rồng”.
Chí Linh, 30/4/2017
Đ.V.S.
“Vẫn nghe trong máu hồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương.”
HUỲNH VĂN NGHỆ
1
Đạo diễn, kiêm nhà sản xuất phim Phạm Hải Hành, là một trong những đại diện ưu tú của Việt kiều Mỹ. Ở tuổi ngoài bốn mươi, đỉnh điểm của mọi sung mãn, anh đang nổi lên như một biểu tượng của người Việt tinh hoa. Bộ phim “THUYỀN NHÂN” chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Nhân Mục, đoạt giải GALAXY, một giải tương đương Oscar do các nhà điện ảnh trẻ toàn cầu mới lập ra, đưa tên tuổi anh trở thành người Việt đầu tiên bước vào lâu đài điện ảnh thế giới.
Từ cuối những năm 2010, báo chí trong nước và hải ngoại đã tốn không ít giấy mực về một tài năng người Việt của nền nghệ thuật thứ bẩy. Liên tiếp hai bộ phim “Dòng sông hoa đào” và “Chàng Trương Chi” do Phạm Hải Hành đạo diễn giành giải Grand Prix liên hoan phim Cannes và Sư tử vàng liên hoan phim Venice, mở đường cho kiệt tác điện ảnh “Thuyền nhân” mấy năm sau đó.
Với cư dân Việt Nam ở Mỹ, nhiều người còn biết Phạm Hải Hành sớm hơn. Ngay từ năm đầu của thế kỷ XXI, năm 2001, tên tuổi chàng sinh viên đại học US Berkeley này đã quá quen thuộc, quen thuộc không phải vì sự nổi trội về tài năng, mà vì một vụ scandale có liên quan đến chính trị, gây xôn xao toàn thể cộng đồng.
Sự việc diễn ra đúng ngày 30 tháng 4, một mốc thời gian biểu tượng tính từ năm 1975, ngày khởi đầu cho một nghịch lý bi đát, một tiến trình tương phản phức tạp, một phía là vinh quang, nhưng một bên là tủi nhục. Bên nào thắng, thì nhân dân đều bại, nhà thơ Nguyễn Duy viết thế. Và nhạc sỹ Trịnh Công Sơn khóc trên cây đàn: Gia tài Mẹ, một nước Việt buồn.
Ngày này ở trong nước, vắt từ một phần tư thế kỷ này sang thế kỷ kia là một điệp khúc: Chiến thắng vĩ đại; Đánh cho Mỹ cút đánh cho Nguỵ nhào; Giải phóng đất nước; Thu giang sơn về một mối… Ở hải ngoại, các đại sứ quán, các toà lãnh sự, các hội người Việt thân Cộng sản cũng một chế bản như thế. Nhưng đa số người Việt di tản ở Mỹ, Canada, ở Australia… vì không có và không thể chia sẻ quá khứ chung của lịch sử Việt cận đại, đã tụ tập nhau để kỷ niệm tháng Tư đen, ngày Quốc hận, ngày đại bại của toàn dân tộc. Cờ vàng ba sọc đỏ của chính thể Việt Nam Cộng Hoà, được người Việt tị nạn tôn phong là lá cờ tự do và di sản, được nhiều tiểu bang và thành phố ở Mỹ công nhận là đại diện chính thức của cộng đồng người Việt, tung bay rợp trời. Băng rôn, biểu ngữ với đủ loại lời lẽ chống cộng, dù mấy thế hệ đã qua vẫn ngùn ngụt hận thù, và kêu gọi cuộc thánh chiến trở về. Người già ôm nhau khóc, cười. Tuổi trẻ gào thét, chõ loa vào các toà đại sứ, các toà lãnh sự. Hàng ngàn người đứng lặng, đầm đìa nước mắt tưởng niệm những chiến binh tử thủ vì nền Cộng hoà, những nạn nhân vô tội đã chết giữa hai làn đạn, đã làm mồi cho cá trong những cuộc vượt biển… Tất cả cùng nuối tiếc một chính thể đã tiêu vong.
Không ít lần trong ngày 30 tháng 4 đó, tại một số nơi ở Mỹ, ở Australia, ở Canada, Pháp, Đức…, hai nhóm người Việt cờ vàng và cờ đỏ, đụng độ nhau, xung đột nhau dữ dội, khiến cảnh sát phải can thiệp. Người Việt đã tha hương mà vẫn phân hai chiến tuyến, kình địch nhau, hận thù nhau, tưởng như một mất một còn.
Lần đó, ở Little Saigon, quận Cam, sau lễ mitting ở quảng trường lớn, đoàn người ngập trong cờ và băng rôn biểu ngữ, sát khí đằng đằng, kéo ra phố Bolsa diễu hành, như con rồng vàng khổng lồ nhe nanh múa vuốt, sẵn sàng cuốn đi tất cả. Bỗng từ trong một ngách phố, phía cuối đường Brookhurst, hay đường Bushard, đột nhiên xuất hiện hai lá cờ lạ do hai chàng trai, da trắng và da vàng vừa giương cao, vừa chạy túa ra. Chàng trai da trắng vác lá cờ hình chữ nhật, ghép hai lá cờ đối nghịch, nửa trong là một hình vuông nền đỏ sao vàng, nửa ngoài là hình vuông nền vàng với ba sọc ngang đỏ, chạy suốt hai mép cờ là hai đường viền màu xanh dương gợi nhớ màu cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam một thời. Thoáng nhìn ai cũng biết đó là một phép cộng ba màu xanh, đỏ, vàng, đơn giản, nhưng nói được nhiều điều về lịch sử, hiện tại và tương lai nước Việt. Lá cờ thứ hai do chàng trai da vàng vác lại là một phép cộng khác, đầy sáng tạo. Đó là một lá cờ ba màu xanh đỏ vàng hình chữ nhật, mảng đỏ ở giữa chạy suốt chiều dài lá cờ, có độ rộng bằng một nửa chiều ngang lá cờ, chính giữa có ngôi sao vàng năm cánh. Hai bên là hai dải vàng, mỗi bên bằng một phần tư chiều ngang lá cờ, có hai vạch đỏ mảnh chạy giữa. Từ phần cán lá cờ, một mảng hình tam giác cân màu xanh dương lan ra, một đỉnh hướng tới ngôi sao vàng năm cánh. Lá cờ thể hiện ý tưởng về một nước Việt Nam hòa hợp, có ba miền Bắc Trung Nam, có máu đỏ da vàng, có biển Đông bát ngát. Lá cờ kế thừa từ di sản quá khứ, sừng sững thành quả hiện tại và phới phới đi tới tương lai. Rõ ràng đây là một phức thể hai, hoặc ba, trong một đầy sáng tạo và tài hoa, một sự hài hòa và thấu tình đạt lý mà lịch sử không thể chối bỏ.
– To unify North and South of Vietnam! Nước Việt Nam thống nhất muôn năm! – Cả hai chàng trai vừa chạy vừa phất cao hai lá cờ, hô vang bằng tiếng Anh và tiếng Việt.
Con rồng vàng say máu bỗng nhiên đứng khựng lại. Cả đoàn người bị tê liệt trong khoảnh khắc. Dường như hai lá cờ lạ bỗng ùa vào tâm hồn họ, thổi một luồng ấm nóng vào từng li ti huyết quản mỗi người, đánh thức một niềm khắc khoải chờ mong vẫn tàng chứa trong đáy sâu mấy chục năm trời. Dường như trong mỗi người đều thức dậy cái hình ảnh lặp đi lặp lại bao ngày những buổi hoàng hôn, đứng ngẩn nhìn vừng dương chìm dần xuống biển mà buồn tê tái, mà đau thổn thức nỗi nhớ cố hương…
Có cảm giác, chỉ nột tích tắc nữa thôi, hoặc là đoàn người sẽ khuỵu xuống, rũ xuống, không thể bước tiếp được nữa, hoặc sẽ ùa theo hai lá cờ lắp ghép kia và hô vang: Nước Việt Nam thống nhất muôn năm!
Bỗng từ giữa rừng người, một bóng áo vàng chạy vọt lên, tay xua, giọng hét khản đặc:
– Việt cộng, Việt cộng! Bọn Việt cộng gài bẫy. Giết chết bọn cộng sản đi, các chiến hữu cộng hòa ơi!
Nhiều người nhận ra tiếng của Lê Sa Biền, Tổng biên tập báo Phục Quốc, người từng tuyên bố chống cộng đến hơi thở cuối cùng. Lập tức hàng trăm giọng cùng gào lên: “ Bắt lấy chúng”. “Không mắc bẫy cộng sản”…
Trong chớp mắt, hai chàng trai bị vây kín. Hai lá cờ ghép biểu tượng của sự hoà hợp bị xé đôi, giậm nát, tả tơi nhiều mảnh. Không khí náo loạn biến thành cuộc vây đánh hội đồng. Mấy lão già ngúc ngắc bộ mặt đỏ gay xua bọn choai choai tóc màu, khuyên tai, xích bạc quấn cổ. Các bà nạ dòng, hoặc chồng bị tử trận trên các chiến trường đẫm máu, hoặc còn ngồi bóc lịch trong các trại cải tạo, nhảy thách lên. Tiếng la hét. Tiếng chửi rủa. Những cánh tay vung lên, loạn xạ. Đấm. Đạp. Xô đẩy. Đè lên nhau. Đòn hội chợ bỗng biến thành cuộc loạn đả.
Từ trong ngách phố, gần ngôi chùa đang xây, một người đàn ông và một thiếu nữ chạy bổ ra. Họ chạy muốn đứt hơi, kiệt sức. Vừa chạy vừa vẫy tay như người chết đuối xin cầu cứu, miệng la:
– Dừng lại… Bà con ơi, cùng người Việt mình… Dừng lại, không được đánh người… ười… ười… Cảnh sát đến kia rồi.
Sự xuất hiện đúng lúc của Vũ Bảo Huy và Ngô Đoan Diễm, và ngay sau đó là tiếng hú còi của xe cảnh sát đã khiến bọn người đang say máu vội lủi vào đám đông.
Hai chàng trẻ tuổi nằm như hai đống rẻ rách. Quần áo tơi tả, bết máu. Anh chàng Mỹ lai bị mất hai răng cửa, gãy tay trái. Chàng trai Việt bị một vật sắc kim loại đâm thủng đầu, máu chảy thành vũng trên mặt đường.
***
Xe cứu thương chở hai nạn nhân đến bệnh viện. Chàng trai Việt hôn mê sâu, tính mạng rất nguy kịch. Qua giấy tờ tuỳ thân, người ta biết anh là Phạm Hải Hành, đang là sinh viên Viện đại học US Berkeley. Bạn Hành, đúng hơn là bạn vong niên, vì hơn anh bẩy tuổi, tên gốc hồi ở Việt Nam là Bùi Lai. Tên Mỹ là David Bùi.
Hai vị cứu tinh theo xe cùng vào bệnh viện, tưởng là thân nhân, hoá ra chỉ là những du khách đi đường. Vũ Bảo Huy, chạc bốn mươi, có gương mặt xương gầy khắc khổ. Cô bé Ngô Đoan Diễm đi cùng, cao mảnh, duyên dáng, dễ bị lầm tưởng như con gái đi với cha, bởi khuôn mặt non choẹt dù có sầu não đau đớn thì cũng không thể vượt qua nổi tuổi thiếu nữ dậy thì.
– Hai lá cờ đỏ và vàng của hai chiến tuyến ghép với nhau, lại thêm màu xanh lá cờ Mặt trận giải phóng, tạo thành hai lá cờ hòa hợp để mọi người lựa chọn. Những ý tưởng trên cả tuyệt vời, chú Huy nhỉ? – Đoan Diễm ngước đôi mắt bồ câu hỏi người đàn ông, khi ngồi chờ ngoài phòng cấp cứu – Nếu cho chú Huy chọn, chú sẽ chọn lá cờ nào?
– Lá cờ nào cũng có vẻ đẹp riêng – Huy nói nước đôi. Cho tới giờ anh vẫn còn chưa hết bàng hoàng vì sự xuất hiện đột ngột của hai lá cờ hòa hợp. Anh và Diễm dường như là người đầu tiên nhìn thấy hai lá cờ lạ nhô ra từ một góc phố. Không, đúng hơn là anh đã thấy thấp thoáng trong chiếc Acuara của hai chàng trai lúc họ đưa xe vào gửi trong khuôn viên chùa Quan Thế Âm. Lúc ấy anh đã suýt reo lên, kéo Diễm chạy tới. Nhưng hai chàng trai nhanh quá. Họ mở cửa xe, trương cờ trên chiếc cán gỗ rồi vụt chạy đi.
Cho tới lúc hai lá cờ như hai cánh buồm cuốn hai chàng trai trên đại lộ để hòa với đoàn cờ vàng đang như cơn bão ào tới thì Huy không thể đứng yên được. Diễm ơi, cả hai lá cờ đều tuyệt vời, một ý tưởng hoà hợp tuyệt vời. Đơn giản chỉ là một phép cộng, vậy mà bao năm nay không ai nghĩ ra. Màu sắc lá cờ hoà hợp, phối trí tài tình làm sao. Đây không phải ngẫu nhiên, nó chính là khát vọng của thế hệ thứ hai, thứ ba người Việt hải ngoại mà chính Huy cũng không ngờ tới. Đây là kết tinh cả trăm năm truyền thống, từ thời khai mở một nước Việt Nam thống nhất từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau của các vua chúa nhà Nguyễn; một dải đất hình chữ S sừng sững bên bờ biển Đông từ nghìn năm; một dòng chảy yêu nước từ cờ quẻ ly tới cờ vàng và cờ đỏ… Nào, chúng mình nhanh chân lên. Chúng ta hãy hoà nhập với hai chàng trai kia, với hai lá cờ hoà hợp hai dòng ý thức hệ, hai niềm thù hận tưởng như không bao giờ dung hoà. Hai lá cờ chỉ là sự lắp ghép ba màu đơn giản mà toát lên vẻ đẹp lộng lẫy của sự bao dung, xoá bỏ mọi toan tính vị kỷ, đưa người ta lên một tầm cao mới, thậm chí bỗng muốn thăng hoa, hoà cùng vũ trụ.
Huy muốn cùng Diễm bay tới để cùng hai chàng trai giương cao hai lá cờ, hai phương án lựa chọn cho mọi người Việt. Nhưng rồi sự cố xảy ra nhanh và tàn nhẫn quá, đến mức Huy và Diễm càng cố chạy, chân họ càng như chực khuỵu xuống. Và rồi, khi họ gần đến nơi, khi Diễm lấy máy liên lạc được với cảnh sát thì hai chàng trai và hai lá cờ của họ đã bị chín nhừ như trong một nồi lẩu.
– Cháu thích lá cờ tam giác xanh, nền đỏ ở giữa hai dải vàng. Không phải là phép cộng số học như lá cờ kia, mà là sự hóa thân từ ba lá cờ thành một sinh thể mới. Ý tưởng vừa nhân văn vừa có tính kế thừa sâu sắc…
– Chú thích cả hai lá cờ. Nhưng nếu chọn, chú cũng thống nhất với cháu. Lá cờ có mảng xanh biển Đông, Trường Sơn, nền đỏ ở giữa với ngôi sao vàng, được bao bọc bởi nền vàng rộng lớn, mang tính phổ quát và vĩnh hằng hơn. Nhưng cháu có biết chú vừa phát hiện điều mới mẻ nhất của hai lá cờ hòa hợp là gì không?
Đoan Diễm nhướng đôi mày, không kìm nén được:
– Điều gì hả chú?
Huy ghé tai Diễm, nhưng giọng vẫn vút lên:
– Cả hai lá cờ đều khác hẳn cờ nước Tàu, thoát ly khỏi cờ Trung Quốc… đều không còn đỏ chói sắc máu, lại có thêm màu xanh hòa bình.
Diễm đưa bàn tay lên, đụng vào bàn tay Huy:
– Oke. Hai tư tưởng lớn gặp nhau. Cháu cũng thấy lá cờ đỏ của mình sắc máu quá. Lại gần như phiên bản của cờ Trung Quốc. Ngày trước cờ búa liềm của Liên Xô cũng thế. Đỏ chói chang, rừng rực, nhức nhối…
– Đấy cũng là một cách thoát Trung – Huy lẩm nhẩm như nói với chính mình.
– Đã đến lúc phải thay đổi lá cờ, chú Huy nhỉ? Thay đổi để mọi thế hệ người Việt khắp trái đất đều hướng về một Tổ quốc Việt Nam thống nhất. Cháu không thể hiểu tại sao người ta lại thù hận hai lá cờ hòa hợp vừa mới nhen nhóm kia? – Đoan Diễm tự nhiên cáu bẳn, nhìn Huy đợi câu trả lời.
Nét nhíu mày của Huy, như một thói quen cố hữu, mỗi khi gặp tình huống nan giải.
– Hình như đó là bản tính của người Việt. Nó có nguồn cội gốc gác từ đời tổ tiên mình, và gần chúng ta nhất là cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn, nồi da nấu thịt suốt hai trăm năm…
Diễm vốn thông minh và nhạy cảm. Thoáng gợi của Huy như đôi cánh mỏng đưa cô đi rất xa, như cánh buồm lớn chở cô lướt trôi trên dòng sông hồi tưởng. Tháng bẩy năm ngoái, kỳ nghỉ hè về quê ngoại trước khi du học, Diễm từng có những buổi sáng lang thang ở cửa biển Nhật Lệ, đi tìm những dấu tích cuối cùng của Luỹ Thầy, phòng tuyến vĩ đại của Đào Duy Từ ngăn quân Trịnh từ phương Bắc. Diễm cũng từng ngồi thuyền nan, hình như là chiếc thuyền sót lại của đội vận tải thuyền nan Thanh Hoá – Quảng Bình thời chống chiến tranh phá hoại Mỹ, từ làng biển Cảnh Dương, lên tới tận ngã ba sông Son rẽ vào động Phong Nha. Ngồi trên thuyền, Diễm cứ nghe văng vẳng câu thơ: “Đây sông Gianh đây con sông máu lửa. Đây sa trường đây nấm mộ trời Nam…”. Suốt mấy cây số đường sông, hết căng mắt nhìn ngắm cảnh trí tuyệt đẹp hai bờ, lại đăm đắm nhìn xuống dòng nước trong xanh, cố tìm xem có còn một bộ hài cốt, một khúc xương nào của những chiến binh xưa sót lại… Cuộc nội chiến hai trăm năm ấy, xét cho cùng là một cuộc mở đất. Chúa Tiên Nguyễn Hoàng và tám đời chúa Nguyễn tiếp theo, nếu không bị nguy cơ của chúa Trịnh đàng ngoài tiêu diệt, thì làm sao có thể hùng mạnh tới mức, vừa chặn đứng quân Trịnh ở bắc sông Gianh, vừa mở đất về phương Nam, vừa vươn ra trấn ngự biển Đông? Cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt, cuối cùng cũng mở ra một kết cục có hậu là sự lớn mạnh của Đại Việt, là sự hoàn thiện một bức dư đồ Việt Nam, mà cho tới đầu thế kỷ XIX, tức triều đại Gia Long, đã thực sự hoàn thành…
Dòng suy tưởng của Diễm bỗng bị Huy cắt ngang:
– Gần hơn nữa là cuộc chiến mà người Việt vừa đi qua. Người miền Bắc gọi là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc… Diễm này, cháu hãy tưởng tượng nhé. Ví dụ một lần nổi hứng như hôm nay, chú cháu mình bỗng vác lá cờ hòa hợp ba màu xanh, đỏ, vàng kia chạy quanh bờ hồ Hoàn Kiếm …
Diễm bỗng bật cười. Nụ cười như mếu.
– Thế thì, thưa ngài Vũ Bảo Huy… Hoặc là chúng ta sẽ nhừ đòn vì các ông dân phòng. Hoặc sẽ bị các đồng chí công an hốt ngay về trại Lộc Hà…
– Chính xác. Công an và dân phòng, chứ không phải dân chúng, đúng không? – Huy nhìn thẳng vào mắt Diễm, đưa một ngón tay lên – Có một điều khác cơ bản này mà cháu phải phân biệt. Đó là cùng một hiện tượng xuất hiện lá cờ hoà hợp kia, nhưng nếu diễn ra ở hồ Hoàn Kiếm, sẽ khác hẳn diễn ra ở quận Cam này. Một bên thì dân chúng sẽ ngấm ngầm hoặc hân hoan mở lòng đón nhận, còn công an, dân phòng sẽ sôi lên như chính quyền sắp bị lật đổ, tổ quốc Xã hội Chủ nghĩa sắp bị xoá sổ như các nước Đông Âu. Một bên cảnh sát trân trọng, ôn hoà bảo vệ người biểu tình, còn dân chúng thì sục sôi, căm phẫn, thù hận, bắt nhà chức trách phải ra tay trấn áp. Ngay ở giữa nước Mỹ, một đất nước tự do, có nền dân chủ từ ngày lập quốc, mà riêng người Mỹ gốc Việt vẫn chưa học được tinh thần dân chủ. Cháu có biết, ở đất Cali này, sau năm 1995, khi bang giao Việt – Mỹ đã nối lại, cờ đỏ công khai xuất hiện, thì cộng đồng người Việt phản ứng thế nào không?
Diễm như sực nhớ ra.
– Hồi mới sang, dì Mỹ Hằng có kể , ở Little Sài Gòn có một ông chủ tiệm treo cờ đỏ và ảnh Hồ Chủ tịch trong nhà hàng, lập tức 15.000 người Việt nhà mình xuống đường biểu tình suốt 53 ngày đêm, cho đến khi lá cờ và tấm ảnh phải hạ xuống…
Huy quá rành rẽ câu chuyện bi kịch từng là tư liệu cho chuyên luận mà anh cần thu thập để hoàn thành đề tài nghiên cứu mà lâu nay anh nghiền ngẫm. Cái ông Tạ Văn Tư, chủ tiệm café Sông Hồng, hoặc là do chính quyền Hà Nội cài cắm, hoặc là nuốt phải cả một chiếc mật gấu bự, dám cả gan đem trứng chọi với đá, dám vuốt râu hùm, dám thiết lập một cứ điểm Điện Biên Phủ trong cái thung lũng Little Sài Gòn lúc nào cũng sôi sục như một Hoả Diệm Sơn. Cờ đỏ và ảnh lãnh tụ cộng sản vừa treo lên, lập tức hàng nghìn người dao búa, gậy gộc ập tới đòi đập phá nhà hàng, muốn ăn sống nuốt tươi chủ tiệm. May mà có cảnh sát và luật pháp Hoa Kỳ bảo trợ. Nhưng bất chấp luật pháp, đoàn người gào thét vây chặt dãy phố, hàng ngàn người xuống đường biểu tình phản đối. Tràn ngập hình ảnh và bài viết về chủ tiệm Tư trên các phương tiện truyền thông ở California và các tiểu bang hàng mấy tháng trời. Người ta ví chiến dịch chống Cộng này ngang với chiến dịch Điện Biên Phủ về độ dài thời gian và quy mô bao vây tiêu diệt. Cuối cùng, đến ngày thứ 53, cờ và ảnh phải hạ xuống. Rồi các cuộc biểu tình phát triển thành chiến dịch cờ vàng ở khắp các thành phố, các tiểu bang có người Việt sinh sống, đòi chính phủ Mỹ phải công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ di sản, lá cờ đại diện của cộng đồng người Việt ở Mỹ, Canada, Australia…
– Nếu trường hợp ngược lại diễn ra tại Hà Nội hay Sài Gòn, hay bất kỳ một nơi chốn nào trên đất nước hình chữ S của chúng ta, thì chẳng cần 53 ngày đêm biểu tình, mà ngay lập tức, chủ quán sẽ ngồi bóc lịch, hoặc biến khỏi mặt đất…
Diễm đọc thấy trong đôi mắt u buồn và nụ cười gượng gạo trên môi Huy một nỗi cay đắng cố nén mà vẫn không thể giấu nổi.
– Nhưng cháu vẫn không thể tha thứ cho những hooligan chính trị vừa rồi. Nếu cháu và chú không đến kịp, có thể hai chàng trai kia khó bảo toàn tính mạng. Chúng ta phải đòi cảnh sát Mỹ tóm cổ bọn hành hung và cho chúng ra toà.
Huy an ủi Diễm:
– Tât nhiên cảnh sát Mỹ sẽ không bỏ qua chuyện này… Nhưng kìa, hình như người nhà của họ đã đến.
Hai người Việt, người đàn ông tóc hoa râm, chừng bẩy mươi, nhưng còn tráng kiện và nhanh nhẹn, cùng người đàn bà không còn trẻ, nhưng vẫn nhiều nét ưa nhìn, vừa ra khỏi xe đã chạy bổ về phía phòng cấp cứu.
– Trời ơi, con tôi có làm sao không? Hành ơi… đừng làm mẹ sợ…
Tiếng người mẹ Việt kêu giữa đất Mỹ làm cả Huy và Diễm nhói tim. Dường như đó là tiếng dội từ phía bên kia bán cầu, vượt qua ngàn trùng sóng vỗ, đến đây bỗng bị chặn lại đột ngột và òa vào hai người, vây bọc lấy Diễm và Huy trong một khoảng khắc đủ làm họ mềm nhão ra.
– Cám ơn các vị đã cứu sống con chúng tôi – Từ văn phòng bệnh viện bước ra, người đàn ông dắt tay vợ đi lại phía hai ân nhân, chắp tay cung kính – Dạ thưa, chúng tôi là ba mẹ của cháu Phạm Hải Hành. Tôi tên Nhân, còn đây là vợ tôi, tên Nhạn.
Người đàn bà, như đã thân quen Diễm từ lâu lắm, vừa khóc vừa ôm chầm lấy nàng.
– Có gì đâu bác. Chúng tôi chỉ là khách qua đường… – Huy nói.
– Thấy hai anh bị đánh, cháu cũng muốn ngất xỉu. May mà cảnh sát đến kịp – Giọng Đoan Diễm vẫn chưa hết run. – Chỉ vì hai lá cờ mà các anh suýt mất mạng.
Họ lại kéo nhau đến phòng cấp cứu. Nhưng căn phòng với lớp kính dày và rèm ngăn bịt bùng vẫn không hé lộ cho họ biết gì về nạn nhân.
Bà Nhạn ngồi rũ trên ghế đợi, khóc dấm dứt. Ông chồng an ủi:
– Bình tĩnh đi em… Con vẫn còn hôn mê. Anh đã hỏi kỹ bác sĩ, họ nói, con có thể qua được…
Tâm trạng người mẹ lây sang Diễm rất nhanh. Nàng sụt sịt khóc. Dường như chính nàng cũng không thể chịu nổi nỗi mất mát có thể ập đến.
Chất giọng Hà Nội gốc của người đàn ông khiến ngay từ câu chuyện làm quen, Huy đã thấy ông thân thiết tự bao giờ.
– Thưa bác, bác là người Hà Nội ? – Huy hỏi mà như muốn khảng định.
– Vâng. Tôi là dân Bắc 54 chú ạ. Làng Mọc quê tôi bên sông Tô Lịch…
Huy thừ người giây lát, rồi như chợt nghĩ ra:
– Làng Mọc, có tên chữ là Nhân Mục… Có phải bác là nhà văn?
Làm sao Huy có thể quên những trang viết về Hà Nội đằm thắm ấy, về cái làng nhỏ bên bờ sông Tô Lịch với một giọng văn xa xót như vĩnh viễn mất đi một mối tình đầu. Cái tựa sách thật lạ, đập vào tiềm thức anh ngay khi nhìn thấy nó nằm lẫn lộn với hàng trăm cuốn sách cũ, mà rất may chưa bị đốt bởi những chiến dịch thanh trừng văn hoá, trên vỉa hè một phố nhỏ Sài Gòn. Ấy là buổi sáng Huy chia tay Thuỳ để sang Cao Miên trước chiến dịch mùa khô. Thuỳ đã mua cho anh món ăn tinh thần quý giá đó. Và đó là người bạn đồng hành và hành trang duy nhất nằm trong đáy ba lô theo anh suốt ba năm gian khổ và khốc liệt trên đất nước tử thần có tượng cười bốn mặt. Sau này, khi về Sài Gòn, Huy tiếp tục tìm trong các hiệu sách cũ để đọc sách của nhà văn Nhân Mục. Và anh đã có trong tay bộ ba tiểu thuyết của ông: “Tha hương”,“Dọc đường số Một”,“ Trông sao Bắc Đẩu”, viết về thân phận của những người trí thức miền Bắc lưu lạc phương Nam với nỗi nhớ thương đau đáu quê nhà.
– Xin lỗi, tôi nhớ không nhầm, hình như bác là tác giả tập bút ký “Nhớ Cũ” và bộ ba tiểu thuyết “Tha hương”…?
Đến lượt nhà văn Nhân Mục ngỡ ngàng. Không ngờ, giữa đất Mỹ xa xôi này lại có người nhớ đến những đứa con tinh thần của ông, đứa con mà chính ông khi trốn chạy khỏi quê hương cũng không mang theo được. Nó đã bị vứt lại, bị lãng quên, bị nghiền thành bột giấy, bị đốt cháy trong các chiến dịch thanh trừng văn hoá.
– Hân hạnh. Rất hân hạnh. – Nhà văn chắp hai tay như người mộ đạo – Tôi rất cảm động khi có người còn nhớ đến tác phẩm của mình. “Nhớ Cũ” là tình yêu, nỗi khắc khoải của một người con lang bạt nhớ về Hà Nội cố hương …
– Tôi đọc nhiều lần nhà văn Vũ Bằng. “Thương nhớ 12” của ông da diết, khắc khoải. Nhưng “Nhớ Cũ” của nhà văn Nhân Mục lại khiến người ta nôn nao, bồn chồn, tưởng như yêu xa, một ngày không được soi bóng Hồ Gươm, đón gió Hồ Tây là trong lòng trống vắng, không yên… Trong “Nhớ Cũ” tác giả có nhắc đến đám cưới và đám tang nhà văn tài danh Vũ Trọng Phụng. Mỗi lần đọc lại không cầm nổi nước mắt…
– Nhà ông bà ngoại tôi ở cạnh nhà cụ Cửu Tích, có cô con gái út là Vũ Mỹ Lương. Năm lên sáu tuổi, tôi có được đi xem đám cưới của nhà văn Vũ Trọng Phụng và chị Vũ Mỹ Lương …
– Cách đây vài năm, tôi có được đến dự ngày giỗ của nhà văn Vũ Trọng Phụng tại làng Mọc Giáp Nhất. Thưa bác, bác có còn nhớ cái cổng làng Giáp Nhất?
– Quên làm sao được hả chú. Cổng làng tôi có ba chữ đại tự “ Tiểu Cao Đại”, không biết bây giờ có còn?
– Vẫn còn bác ạ. Ba chữ đơn giản ấy, ai cũng đọc được, mà không mấy người hiểu nghĩa. Một anh bạn nhà thơ dắt tôi đến thăm cụ Đạm, một nhà văn hoá người làng Mọc, từng là bạn của nhà văn Nguyễn Tuân và hoạ sỹ Bùi Xuân Phái. Cụ Đạm giảng giải, tôi mới hiểu thâm ý của cổ nhân. Cái bé nhỏ, khiêm nhường, chính là gốc của cái vĩ đại, cái cao cả…
– Trời ơi, có phải cụ Nguyễn Bá Đạm… Người cao lớn, có cái mũi khoằm… Ông anh họ tôi đấy… – Mắt nhà văn ngấn ướt.
Câu chuyện sơ kiến của Vũ Bảo Huy và nhà văn Nhân Mục báo trước một tình bạn vong niên mà suốt những năm tháng sau này sẽ còn nhiều gắn bó. Buổi chiều ấy, khi có thêm bà Bé Bẩy, mẹ đẻ của David Bùi và ông bố dượng Tám Út đến, Huy và Đoan Diễm nghiễm nhiên trở thành người thân, như cùng trong gia đình.
Vừa gặp bà Bé Bẩy, Đoan Diễm đã thực sự ấn tượng. Tưởng như bà vừa từ vựa rau quả chợ Bến Thành, hay tiệm phở đầu chợ Bà Chiểu, Sài Gòn đến đây. Gương mặt tròn căng rám màu bánh mật, vóc người đậm với bộ mông nở và cặp chân voi bề thế. Bao nhiêu năm sống trên đất Mỹ vẫn không mảy may suy xuyển một nét Nam Bộ nào.
– Bác ơi, cho con hỏi riêng bác nhé… – Đoan Diễm ghé sát tai bà Bẩy.
– Chuyện chi ? Tao biết mày mới ở Việt Nam sang. Muốn làm con dâu bác phải hôn? Thằng David chưa có ai đâu. Bác chấm mày đó.
– Không phải… – Diễm đỏ bừng mặt – Con muốn hỏi ba của anh David cơ. Bác yêu một người Mỹ chính hiệu nên mới đẻ được một anh chàng Mỹ lai như David. Sang bên này, mẹ con bác đã gặp người Mỹ chính hiệu ấy chưa?
Bà Bẩy ngẩn người một lát, khi hiểu ra câu chuyện thì lúng túng, ngượng ngùng:
– Còn đâu mà tìm… Ổng chết rồi… Chết từ trước năm bẩy nhăm. Bây giờ thằng David chỉ có một người cha là ông Tám Út kia kìa…
Nghe nhắc đến tên mình, ông Tám vội chạy lại.
– Nè, thằng Bùi nhà mình có khi phải cưa tay…
– Ông nói cái chi? – Bà Bẩy trừng mắt, dữ tợn như một con hổ cái – Phủi phui cái mồm ông đi. Hễ mở mồm ra là nói gở…
– Thì tôi nghe người ta nói thế – ông Tám chống chế.
– Nghe làm chi bọn thúi mồm… Kìa, ông ra xem người ta làm gì mà kéo nhau đến rần rần? Hay là bọn du côn lại định hành hung thằng Bùi nhà mình?
Tám Út giơ cẳng tay bắp chuối lên:
– Tôi thách. Trong bệnh viện này, ai dám hành hung? Tui nhận ra rồi… Bọn thúi mồm… Ký giả của mấy tờ báo chuyên săn tin đó mà…
H.M.T.